Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 27 phần 2
Tunku
thường nói chuyện công khai về những con số, màu sắc và những giấc mơ được coi
là may mắn đối với ông. Ông rất coi trọng những ảnh hưởng siêu nhiên ấy. Tại
London, ông có một giấc mơ dễ chịu đi kèm với những biểu tượng con giáp, ông
bảo điềm này là hên lắm. Vì Thỏa ước Malaysia sẽ được ký vào ngày 1/8, ngày hên
của ông, nên ông ra một tiệm kim hoàn gần Burklington Arcade đặt mua một chiếc
nhẫn có chạm hình các con giáp để kỷ niệm chuyện này. Tuy nhiên, ngày nhận hàng,
ông lại phật ý khi thấy nó có khắc những biểu tượng lạ, chứ không phải những
con giáp trong can chi Tây phương mà ông đã quen thuộc như dương cưu, kim ngưu,
song nam v.v… Keng Swee đã tới cứu nguy, đoan chắc với ông đấy chính là những
biểu tượng con giáp Tây phương, nếu không thì chiếc nhẫn đã bị trả lại để sửa
chữa và như thế sẽ không có kịp trước lễ ký kết. Những sự vụ như thế cũng làm
bớt đi cảnh buồn chán trong sinh hoạt của các tùy tùng dưới trướng Tunku tại
Ritz.
Tuy
vậy, Tunku vẫn là một người Hồi giáo thuộc thế hệ trước Thế chiến theo Tây học
và có tinh thần tự do. Ông ta vui tính và hoàn toàn cởi mở về chuyện đó. Giống
như những người Hồi giáo cùng thế hệ tại Anh, ông ta ăn uống thoải mái, thích
ngựa và đàn bà. Ông từng bị nêu tên như kẻ đồng phạm trong một vụ kiện đòi li
dị tại Anh do một luật sư Âu lai Á đứng đơn, vì vợ ông này đã ngoại tình với
Tunku. Vụ kiện, rất xôn xao ở Malaysia trước khi ông trở thành Thủ tướng năm
1955, chỉ làm tăng thêm sức ủng hộ của dân chúng dành cho ông. Dân quê Malay
thán phục khả năng xuất chúng của ông. Năm 1970, sau khi về hưu, Tunku trở
thành người Hồi giáo thuần thành, cống hiến toàn bộ sức lực cho việc củng cố
khối thống nhất Hồi giáo trong cương vị Tổng thư ký Tổ chức hội nghị Hồi giáo.
Tunku
là một người bạn rất dễ ưa trong các buổi tiệc tùng, lúc nào cũng có đủ thứ câu
chuyện vui nho nhỏ để kể với một phong cách rất hấp dẫn. Mục tiêu của ông trong
cuộc đời là sự sung sướng, và tiêu chuẩn để ông đo lường mọi tình huống là nó
có làm ông sung sướng hay không. Khi mọi chuyện tốt đẹp, ông có thể tự hào nói:
“Tôi là ông Thủ tướng sung sướng nhất trên đời.” Ông có thể nói thêm rằng mục
tiêu của ông cho Malaysia chẳng phải là giàu có, vĩ đại hay vinh quang, mà là
sung sướng trên một lãnh thổ không có rối loạn hay thù hằn, và khi tìm cách bảo
đảm vị trí cho người Borneo trong Liên bang, ông đã nói với báo chí rằng ông
muốn mở rộng mục tiêu này cho toàn Malaysia. Nhưng cách này lại không tác động
lắm với người dân ở Borneo và Singapore, vì họ vốn không quen đánh giá chất
lượng cuộc sống của mình theo lối đó.
Ông
ta không màu mè về các khả năng của chính mình và không áy náy gì khi mô tả các
tính khí của người Malay. Ông ta thẳng thắn khi xét tật mình, nói thật rằng cha
của ông, một tiểu vương Malay, là một con người yếu đuối và sức mạnh của ông
thực ra là kế thừa từ bà mẹ người Thái. Ông bảo người Malay không thông minh
sắc sảo và không đòi hỏi cao cho lắm, nên rất dễ thỏa mãn họ. Ông chỉ cần cho
họ thêm một chút là họ thấy sung sướng ngay. Những quan điểm này cũng tương tự
như những quan điểm do Tiến sĩ Mahathir Mohamad trình bày trong cuốn The
Malay Dilemma[29] của ông được xuất bản năm 1971. Ông ta viết: “Bất
cứ thứ gì người Malay có thể làm thì người Hoa cũng có thể làm với giá thành rẻ
hơn,” và “Họ là kết quả của hai hệ thống ảnh hưởng môi trường và truyền thống
hoàn toàn khác biệt nhau”. Nhiều năm sau, vào 1997, khi đã trở thành Thủ tướng
Malaysia, Tiến sĩ Mahathir nói rằng ông đã thay đổi cách nhìn và không còn tin
vào những gì mình đã viết trong The Malay Dilemma nữa.
[29]
Tạm dịch: Tình thế tiến thoái lưỡng nan của người Malay.
Nhưng
vào thập niên 1960, Tunku có thể nhìn quanh các viên chức và Bộ trưởng đang
ngồi trong phòng khách của ông trước hoặc sau bữa tiệc chiêu đãi và nói:
"Những tay này chẳng làm ăn gì được. Họ không có khái niệm về cách nào làm
ra tiền. Người Hoa thì làm ăn được. Họ biết cách kiếm tiền và nhờ tiền thuế họ
đóng, chúng ta có thể nuôi chính phủ. Nhưng bởi vì người Malay không thông minh
và kinh doanh không giỏi, nên họ phải nắm các ban bộ trong chính phủ, cảnh sát
và quân đội." Ông ta có một triết lý đơn giản: vai trò của người Malay là
kiểm soát guồng máy quốc gia, duyệt cấp giấy phép và thu thuế các loại, và quan
trọng hơn cả, là bảo đảm để họ không bị người khác thay thế. Không giống như
người Hoa và người Ấn, còn có nước Ấn Độ hay Trung Quốc để trở về, thì họ chẳng
có chỗ nào khác mà về. Bằng cách nói nhẹ nhàng và cung cách lịch thiệp, ông ta
hoàn toàn công khai về quyết tâm duy trì vị thế thống trị của người Malay và
bảo đảm rằng họ và các tiểu vương của họ cứ mãi mãi là người chủ của xứ sở này.
Razak
có thể cười bối rối mỗi khi Tunku lặp lại những nhận định thành thật của ông ta
về dân Malay. Điều đó làm Razak không thoải mái. Ông nghĩ những nhận định đó đã
đánh giá thấp khả năng của họ và sẽ không thể chấp nhận được đối với thế hệ trẻ
– xét cho cùng thì chính ông đã từng hoàn tất các kỳ thi của ngành luật trong
một thời gian ngắn bằng một nửa so với các sinh viên người Hoa. Tunku có thể đã
mất nhiều năm mới hoàn tất các kỳ thi tốt nghiệp, nhưng đó là bởi vì – như
chính ông ta vẫn thường nói – ông ta đã dành quá nhiều thời gian khi còn ở Anh
cho những con ngựa chạy chậm lụt và những phụ nữ thay đổi quá nhanh.
Vào
7 giờ tối ngày 1/8, Tunku và Macmillan ký bản thỏa ước khai sinh Malaysia, buổi
lễ bị hoãn lại một ngày để rơi vào đúng tháng thứ tám trong năm vốn rất may mắn
cho Tunku. Các thủ hiến của Bắc Borneo và Sarawak thay mặt chính phủ của các
lãnh thổ đó ký vào văn kiện. Singapore và Brunei được đề cập thoáng qua trong
một tuyên bố chung tuy rằng chúng là đề tài quan trọng trong suốt hai tuần
thương thảo trước khi ký kết. Quốc vương Brunei đã trì hoãn để giành được những
điều kiện tốt hơn, và Singapore cũng vậy.
Báo
cáo của Ủy ban Cobbold được công bố vào cùng thời điểm ký kết thỏa ước. Nó được
viết rất cẩn thận, trình bày tình hình với những chi tiết tốt nhất có thể thu
thập được. Đánh giá của Ủy ban về nguyện vọng của dân chúng Borneo là: một phần
ba ủng hộ mạnh việc sớm thành lập Liên bang Malaysia mà không quan tâm đến các
điều khoản hay điều kiện; một phần ba khác đồng ý gia nhập Liên bang nhưng muốn
có những điều khoản bảo vệ; phần ba cuối cùng được chia làm hai nhóm, một nhóm
muốn nền cai trị của Anh sẽ kéo dài thêm một số năm nữa, và một số khác “kiên
định, năng động về chính trị cũng như ngôn luận, chống đối việc gia nhập liên
bang với bất kỳ điều kiện nào trừ khi có được độc lập và tự trị trước đã”. Hay
nói cách khác là không bao giờ. Về phần mình, Cobbold bác bỏ thỉnh nguyện của
các lãnh thổ Borneo muốn có được quyền rút lui trong một giai đoạn thử nghiệm.
Thế là kết thúc.
Keng
Swee quyết định trở về Singapore trước tôi, và về đến nơi ngày 3/8. Báo chí
tường thuật ông ta ở trạng thái phấn khởi khi xuất hiện ở phi trường. Nâng một
cốc sâm banh chúc mừng Liên bang Malaysia, ông ta nói với các nhà báo rằng
chính phủ có một quân bài tốt để chơi vào đúng thời điểm của nó.
Mặc
dù công việc của tôi đã xong, tôi vẫn ở lại London cùng với Tunku, người vốn
rất tin tưởng vào chuyện không để bị thúc đẩy qua hết cuộc sống này. Ngay cả
trong giai đoạn thảo luận, ông ta vẫn thích lang thang trong khu Burlington
Arcade gần khách sạn Ritz để mua cáo loại áo vét và khăn tay sang trọng như hồi
còn trẻ sống phóng túng ở Anh. Tôi đi cùng ông cho có bầu có bạn, và một dịp
nọ, tôi cũng mua một chiếc áo khoác len xám mà tôi không cần tới lắm. Trong một
bữa trưa do Macmillan mời và có Sandys cùng dự, chúng tôi chụp hình chung với
nhau bên ngoài trụ sở bộ hải quân và hai chúng tôi mặc những chiếc áo khoác mới
ấy. Khi Tunku đã ra ngoài tầm tai, tôi nói với Macmillan về những khó khăn của
tôi trong khi làm việc với Tunku và Macmillan nhận xét: “Tunku cũng giống như
một tay quý tộc Tây Ban Nha. Thế giới của ông ta là thế.” Tôi chỉ có nước là
đồng ý thôi. Chính Macmillan cũng hành xử như một tay quý tộc nhưng với tư
tưởng hiện đại hơn, tính toán thiệt hơn trong từng nước đi đằng sau một phong
thái lịch lãm. Còn Tunku là một quý tộc mong muốn thế giới này ăn khớp với kiểu
suy nghĩ của ông ta.
Ngày
8/8 – ngày hên gấp đôi đối với Tunku – chúng tôi bay về Singapore bằng máy bay
của hãng Qantas, và về đến nơi ngày hôm sau. Ngày kế đó, tôi tháp tùng ông trên
một chuyến bay đặc biệt của hãng Malaysian Airways đi Kuala Lumpur, nơi ông
được dân chúng chào đón nồng nhiệt tại phi trường. Ông ta hào phóng chia cho
tôi những vòng hoa do dân chúng trao tặng, và cho tôi cơ hội phát biểu lần đầu
trước công chúng Malay. Và khi ông lên một chiếc xe mui trần để về tư dinh
trong khí thế chiến thắng với hàng nghìn người dân đứng dọc hai bên đường, ông
lại cho tôi chia sẻ vinh quang bằng cách xếp tôi đứng cạnh ông trên xe. Tôi đã
được ông biệt đãi.
Ngày
hôm sau, tôi trở về Singapore để kiểm tra lại những chuẩn bị cuối cùng cho cuộc
trưng cầu dân ý, kể cả việc công bố các thư từ trao đổi giữa tôi với Tunku. Khi
họp báo, chúng tôi cũng không đề cập gì tới thỏa thuận chúng tôi đã đạt được về
quyền công dân Malaysia. Tôi muốn dành chuyện này cho một dịp khác.
Nhưng
Barisan đã biết rằng có điều gì đó đang nhen nhóm. Khi thỏa ước được ký ở
London, Marshall đã nghe tin ở Liên Hiệp Quốc tại New York rằng dưới áp lực của
Anh và Úc, Tunku đã đồng ý một chế độ công dân chung cho mọi lãnh thổ, tôi
không biết ai đã tiết lộ tin này cho ông ta, nhưng ông ta đã không thể giữ kín
tin ấy. Ông ta lập tức nói với các hãng thông tấn, và tin này đã lan tới
Singapore. Điều này khiến tôi mất đi cơ hội tạo ngạc nhiên, nhưng vì không có
người thẩm quyền xác định lại tin này, nên mọi chuyện vẫn còn nguyên chỗ đó.
Một ai đó ở New York đã tiết lộ tin này cho Marshall hẳn đã muốn ông ta bớt
chống đối việc thành lập Liên bang đi. Cho dù vì động cơ gì thì tác động của nó
đối với ông ta cũng rất sâu xa. Bây giờ ông ta nhận ra rằng mình đang đối đầu
với các chính phủ Anh, Úc và Malaysia, và ông ta e rằng nếu tiếp tục theo đường
lối chống Malaysia của Barisan, ông ta có thể phải nhận lãnh biện pháp đối phó
mà Tunku đã dành sẵn cho họ. Ông ta phải sớm nghĩ cách bảo vệ mình.
Ông
ta cũng không lẻ loi trong việc này. Lim Chin Siong cũng đang gặp rắc rối, vì
những ủng hộ viên quanh ông ta đều đang suy xét lại. Ngày 3/8, một thành
viên trong Hiệp hội sinh viên tốt nghiệp đại học Nanyang cảnh báo rằng
nhiều người đã không đồng ý với việc bỏ phiếu trắng. Theo Sở đặc vụ thì
Lim đã trả lời rằng không có con đường nào khác. Năm ngày sau, biên
tập viên của tờ báo do Câu lạc bộ Xã hội Chủ nghĩa Singapore xuấtbản cũng nói
với ông ta rằng tờ báo không thể công khai kêu gọibỏ phiếu trắng vì câu lạc bộ
phải giữ thái độ không thiên vị. Kêu gọi như thế sẽ đụng chạm tới khối sinh
viên nói tiếng Anh. Biên tập viên ấy nói chỉ có thể
đưa ra một lời kêu gọi dưới hình thức một lá thư của độc giả.
Ngày
14/8, tôi phát động chiến dịch hai tuần vận động trưngcầu dân ý vào ngày thứ
Bảy 1/9. Tôi bảo đảm với mọi công dânSingapore rằng họ sẽ tự động trở thành
công dân Malaysia. Tôi đọc trích đoạn lá thư ngày 30/7 của tôi gửi Tunku và thư
tái khẳng định của ông ta ngày 31/7. Đó là một đòn chí tử giáng vào những chống
đối trước vấn đề hợp nhất.
Các
nghiệp đoàn và hiệp hội văn hóa khuynh tả của Lim ngừng mọi hoạt động khác để
tập trung vận động bỏ phiếu trắng. Bích chương, biểu tượng, cờ xí và biểu ngữ
tràn ngập thành phố trên các cột đèn và các bức tường, các cuộc mít–tinh diễn
ra mỗi đêm, những cuộc lớn nhất là do Barisan tổ chức. Nhưng trong vòng 24 giờ
sau lời thông báo của tôi, Ko Teck Kin, Chủ tịch Phòng thương mại Hoa kiều, đã
kêu gọi ủng hộ phương án A: mô hình của chính phủ trong việc hợp nhất. Ông ta
đã xác định rằng người Hoa ở Singapore không thể để mất quyền công dân vì những
mưu toan chính trị của Barisan. Đây quả là một bước ngoặt,
khối dân chúng nói tiếng Hoa, không theo hướng khuynh tả và hiện đối mặt với
một quyết định quan trọng ảnh hưởng tới vị trí của họ, đã chọn giải pháp là
nghe theo lời những lãnh đạo lâu đời của họ.
Ngày
14/8, Lim hỏi một trong những cán bộ của ông ta, một phóng viên của tờ Nanyang
Siang Pau, là tại sao không thấy in bài tuyên bố của ông ta về vấn đề hợp
nhất. Xem ra ban điều hành tờ báo bây giờ đã sợ chính phủ hơn là bất cứ thế lực
nào khác muốn cản trở cuộc trưng cầu dân ý. Lim rơi vào cảnh ngày càng tuyệt
vọng, Barisan thậm chí còn dùng tới đòn kết án tôi là muốn tạo một sự đã rồi
bất chấp ý kiến của Ủy ban Giải thực Liên Hiệp Quốc mà họ rêu rao rằng sẽ nhóm
họp vào tháng 9 để xem xét tố cáo của họ về cuộc trưng cầu dân ý không công
bằng.
Trong
khi đó, thế lực chống đối đã bị một bước suy thoái nữa. Chúng tôi củng cố được
lực lượng của mình trong Hội đồng lập pháp khi S.V. Lingam đã thoát ly phe Ong
Eng Guan và UPP vào ngày 17/8 rồi xin tái gia nhập vào PAP. Việc này giúp đảng
cầm quyền giành lại đa số 26 chống 25 trong nghị viện (thái độ dao dộng này của
Lingam thật kỳ lạ và chỉ được lý giải sau khi chúng tôi gia nhập Malaysia, khi
Keng Swee tìm biết được rằng Lingam là nhân viên đặc vụ của Malaysia. Họ muốn
biết Ong theo đuổi mục tiêu gì, nhưng đã chỉ thị cho Lingam trở lại với PAP khi
đảng cầm quyền có nguy cơ bị lật đổ. Chúng tôi đã đưa Lingam ra ứng cử trong kỳ
tổng tuyển cử năm 1963, nhưng khi khám phá ra chuyện này, chúng tôi đã loại bỏ
ông ta ra khỏi danh sách.)
Lợi
thế của chúng tôi không kéo dài lắm. Sức khỏe của Ahmad Ibrahim ngày càng kém.
Ông ta bị viêm gan rồi chuyển qua sơ gan từ nhiều năm trước. Chúng tôi đã đưa
ông qua Anh để giải phẫu nhưng bệnh vẫn tiến triển, và ông ta mất vào ngày
21/8, tôi đã có mặt cùng vợ ông ta bên giường bệnh ở phút cuối cùng. Ahmad có
một tinh thần lớn. Ông có các phẩm chất của lãnh tụ và đã dùng nó để tạo ảnh
hưởng tốt trong Nghiệp đoàn lao động khu căn cứ hải quân. Quan trọng hơn, ông
đã có đủ sức tiếp nhận Bộ Lao động từ tay Kenny để đối phó với các thế lực
chống đối. Cái chết của ông là một mất mát lớn, và khiến chúng tôi rơi trở lại
tình thế 25 chống 25.
Tuy
nhiên, tình thế không có chút tuyệt vọng nào. Marshall đang dao động và muốn
rời phe chống đối để củng cố uy tín trước mặt Tunku. Tôi mời ông ta tham dự
diễn đàn tay đôi trên đài phát thanh với tôi. Ông ta đồng ý, và trong lúc vấn
đáp sau khi mở đầu diễn đàn, ông ta đã thừa nhận rằng không hề có khác biệt gì
giữa các công dân Singapore và các công dân khác của Malaysia khi mà giờ đây,
chúng tôi cũng đã có được tư cách công dân Malaysia. Để giữ trọn thái độ nghi
ngại và e dè, ông ta đã yêu cầu tôi xác định, và tôi đã xác định, rằng công dân
Singapore sẽ có quyền làm việc và sở hữu tài sản trên toàn liên bang. Họ đủ tư
cách để làm việc trong bộ máy hành chính liên bang và hiến pháp bang Singapore
sẽ được hình thành theo cùng một cách thực thi ở các bang khác.
Cùng
hôm đó, ông ta gặp gỡ các lãnh đạo của Đảng công nhân và thuyết phục họ nhất
trí ủng hộ sự thay đổi trong điều khoản quyền công dân. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp
tục chống đối các dự trù cho cuộc trưng cầu dân ý mà họ coi như “phi đạo đức
tới nỗi bất kỳ công dân lương thiện nào, theo bất kỳ quan điểm gì, cũng không
thể tham gia trừ khi bị luật pháp cưỡng bách”. Dĩ nhiên Marshall biết việc đi
bầu là cưỡng bách, và do đó đã khuyên dân chúng bỏ phiếu trắng để phản đối, vì
họ không thể không đi bầu. Một lần nữa ta thấy đây là thủ pháp tiêu biểu của
một tay luật sư. Ông ta không hề muốn chống đối và chọc giận Tunku, nhưng đồng
thời lại muốn tỏ ra rằng ông không hề thoát ly khỏi lực lượng của Lim Chin
Siong.
Vài
ngày sau, tôi đã có thể mời ông ta phát biểu trên một diễn đàn tại Viện đại học
Singapore: "Cho phép chúng tôi ngắn gọn. Đảng Công nhân không thay đổi lập
trường. Các đề nghị hiến định đã được thay đổi để thỏa đáp yêu cầu của Đảng
Công nhân theo đúng y mô hình do đảng đưa ra.” Tuy nhiên, trong một cố gắng vô
vọng cuối cùng, ông ta đã yêu cầu chính phủ tạm hoãn cuộc trưng cầu dân ý cho
đến khi dự thảo hiến pháp Malaysia được chuyển đến cho Hội đồng lập pháp
Singapore. Cho dù ông ta có tung hỏa mù để che giấu động cơ của mình, việc ông
ta, vừa là luật sư vừa là người chống đối hợp nhất, thừa nhận rằng các công dân
Singapore sẽ không trở thành những công dân hạng hai của liên bang, đã là một
đòn mạnh đánh vào đường lối tuyên truyền của Barisan.
Còn
nhiều đòn tấn công mạnh mẽ nữa. Tiếp theo lời kêu gọi của Ko Teck Kin,
lãnh đạo của 12 hiệp hội ngành kinh doanh đã ký một tuyên bố vào ngày 23/8
yêu cầu Phòng thương mại Hoa kiều tổ chức mít-tinh để khuyến cáo dân chúng
không nên bỏ phiếu trắng mà hãy chọn phương án A. Hơn nữa, họ còn công bố danh
tính của họ để dễ dàng cho việc xác minh, tuy rằng hành động của họ là đối
kháng trực tiếp với lá thư ngỏ của MCP.
Để
khuyến khích họ rời bỏ phe chống đối, tôi tuyên bố thêm với các lãnh đạo bang
hội người Hoa rằng nếu có quá nhiều phiếu trắng thì điều đó có thể được coi như
ủng hộ phương án B – hợp nhất trọn vẹn và vô điều kiện – bởi vì điều đó sẽ có
nghĩa rằng đa số đã đáp ứng lời kêu gọi của Barisan. Nhưng trong trường hợp đó,
những ai không ra đời tại Singapore mà chỉ nhập tịch sau này có thể mất đi
quyền công dân của họ. Lý luận này có tác động. Ba ngày sau khi 12 hiệp hội đưa
ra bản tuyên bố, có thêm ba tổ chức khác công khai ủng hộ phương án A, trong đó
có Liên hiệp giáo viên các trường Hoa tại Singapore, một tổ chức có tiếng là
khuynh tả.
Ngày
kế tiếp, Ko dẫn một phái đoàn từ Phòng thương mại Hoa kiều đến văn phòng của
tôi tại Tòa thị chính để làm rõ tuyên bố của tôi về phương án B. Tôi nói cho
ông ta hiểu rõ rằng ông ta không được hành động bất cẩn trước vấn đề quyền công
dân của cộng đồng người Hoa. Rồi ông ta yêu cầu các đảng đối lập trình bày rõ
ràng xem họ sẽ có biện pháp gì một khi do tác động của họ, con số phiếu trắng
trong cuộc trưng cầu dân ý lại đưa tới việc chấp nhận phương án B. Lim Chin
Siong trả lời chất vấn của Ko bằng một đe dọa: cộng đồng người Hoa sẽ biết
“cách đối phó với các nhân vật được mệnh danh là lãnh đạo lại đi phản bội họ,”
ông ta còn kết án Phòng thương mại vì đã đi theo luận điệu tuyên truyền của
PAP. Không nao núng, ban điều hành của Phòng thương mại lại yêu cầu các thành
viên bỏ phiếu cho giải pháp A, và trong cùng ngày hôm đó, thêm sáu tổ chức của
người Hoa ra mặt ủng hộ quan điểm này.
Để
đương cự với xu hướng trên, Lim Chin Siong điều động 24 nghiệp đoàn, rồi thêm
12 nghiệp đoàn khác nữa, tái khẳng định với các thành viên là phải bỏ phiếu
trắng. Nhưng lãnh đạo các nghiệp đoàn ấy không có sức nặng là mấy: họ dựa vào
uy tín của Lim, mà cái này thì đang trên đà suy giảm. Bực bội và bối rối, ông
ta đã dùng tới thủ đoạn đe dọa, trở nên rối loạn trong phát biểu và phạm một
sai lầm lớn vào ngày 27/8. Trong một cuộc mít–tinh tại Hong Lim Green, ông ta
đã nói: “Hợp nhất và thành lập liên bang có ý nghĩa khác nhau đối với những lực
lượng khác nhau. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Malaysia và Indonesia,
các lực lượng quốc gia của hai lãnh thổ này đã phát triển khái niệm về một
Melayu Raya, nghĩa là Đại Malaysia, hoặc Malaysia, bao gồm cả Indonesia…”
Điều
này làm kinh hoàng các cử tri người Hoa vốn là những người biết rõ dân
Indonesia còn bài Hoa hơn cả người Malay tại Malaysia.
Nhưng
điều đó cũng chẳng có tác dụng gì khi Ong Eng Guan, khi được báo chí hỏi rằng
ông ta sẽ làm gì khi việc bỏ phiếu trắng được lý giải là ủng hộ hợp nhất trọn
vẹn, đã từ chối không đưa ra ý kiến nào. Điều này củng cố thêm niềm tin nơi các
lãnh đạo bang hội người Hoa rằng phe thân cộng và chống đối hợp nhất đã bị dồn
vào ngõ cụt. Cảm thấy vững bụng hơn, Phòng thương mại Hoa kiều đã cho cậy đăng
lời thông báo ủng hộ phương án A trên tất cả các báo tiếng Hoa trong hai ngày
liên tiếp. Nỗi sợ hãi cố hữu của họ trước phe đối lập nay đã thay bằng nỗi lo
sợ rằng 330.000 người Hoa vốn là chỗ hậu thuẫn của họ sẽ mất đi quyền công dân
và làm mất luôn ảnh hưởng của họ đối với các diễn biến chính trị. Hành động của
họ có tác động mạnh. Các lãnh đạo đoàn thể khác cũng công khai lên tiếng kêu
gọi ủng hộ phương án A, trong đó có 51 công ty thương mại và nghiệp đoàn.
Tuần
lễ cuối cùng trước ngày trưng cầu dân ý đã diễn ra vô số cuộc mít–tinh và hội
thảo, nhưng tôi tin rằng họ chẳng làm thay đổi được gì nữa. Cuộc tranh luận
quanh các điều kiện thống nhất đã kéo dài suốt năm. Vấn đề quốc tịch và tư cách
công dân hạng hai mà Barisan khai thác đã dược dàn xếp xong. Ngày 30/8 có một
cuộc mít–tinh cuối cùng do PAP tổ chức tại Hong Lim Green, đó là cuộc mít-tinh
lớn nhất của chúng tôi, thu hút được một đám đông rất lớn mà không cần phải lấy
xe chở họ tới như Barisan đã làm ba tuần trước đó. Khi tôi bắt đầu phát biểu
lúc 9 giờ 30, nhạc đột nhiên phát ầm vang từ ba cái loa gắn trên tầng bốn của
tòa nhà trụ sở một nghiệp đoàn thân Barisan. Tôi nói ngay: “Đó là kiểu dân chủ
của Barisan Sosialis. Chúng tôi đã cho họ cả năm để làm gì thì làm. Nay họ lại
sợ tôi nói ra sự thật với các bạn.” Họ dùng nhạc để át tiếng tôi, nhưng tôi cứ
tiếp tục. Sau vài phút, một nhóm cảnh sát đi vào tòa nhà đó. Họ thấy các cánh
cửa trên tầng bốn đều đóng kín, nhưng tiếng nhạc được ngừng lại.
Cuộc
bỏ phiếu bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 1/9 và kết thúc lúc 8 giờ tối, sau đó bắt
đầu kiểm phiếu. Đến 3 giờ sáng, kết quả cho thấy chiến dịch vận động bỏ phiếu
trắng của Barisan đã thất bại. Phiếu trắng chiếm chưa tới 30 % số phiếu, 70 %
còn lại ủng hộ phương án A, còn một ít ủng hộ cho phương án B và C. Những đám
đông rất lớn tụ họp ngoài dinh Badminton trên đường Guillemard, không khí rất
căng thẳng, vì tuy rằng có tới 345 địa điểm bầu cử trên toàn Singapore, nhưng
mọi thùng phiếu đều được mang về đây để kiểm. Barisan muốn phiếu được kiểm tại
từng đơn vị bầu cử, nhưng chúng tôi từ chối điều đó. Chúng tôi không muốn họ
biết được rằng đơn vị nào bỏ phiếu trắng nhiều nhất, đó sẽ là thông tin hữu
dụng trong kỳ bầu cử kế. Nhưng họ đã khôn ngoan hơn chúng tôi khi dặn dò những
người ủng hộ kẹp chung thẻ cử tri vào với lá phiếu. Những thẻ đó cho biết ngay
phiếu là từ đơn vị nào.
Khoảng
6 giờ 45, ngay trước khi công bố kết quả, Tiến sĩ Lee Siew Choh gửi một lá thư
tới viên giám sát trưng cầu dân ý yêu cầu được kiểm phiếu lại. Nửa giờ sau,
viên giám sát đồng ý nhưng quãng thời gian chờ đợi này khiến Tiến sĩ Lee gửi
ngay lá thư thứ hai lúc 7 giờ 45, trong đó ông ta cáo buộc rằng viên giám sát
đã cho Thủ tướng đọc lá thư thứ nhất trước khi trả lời đồng ý, như thế ông ta
chẳng hơn gì tay sai của Thủ tướng. Hơn nữa, vì quy trình thủ tục của lần đếm
thứ nhất cũng sẽ áp dụng cho lần đếm thứ hai, nên toàn bộ sự việc cũng khôi hài
như chính cuộc trưng cầu dân ý nên ông ta sẽ không chấp nhận điều đó. Viên giám
sát đưa ra câu trả lời một giờ sau đó, nhưng do lời khuyên của tôi, ông ta đã
cho đọc thư trả lời ấy trên loa phóng thanh cho giới báo chí cùng nghe trước
khi trao lá thư cho Tiến sĩ Lee. Thư nói rằng các thùng phiếu đã được mở niêm
phong, các lá phiếu đã trộn lẫn lộn và đếm trong khi Tiến sĩ cũng có mặt tại đó
suốt thời gian kiểm phiếu nhưng ông ta đã không đưa ra lời phản đối nào về sự
hợp cách của quy trình cho đến khi mọi việc hoàn tất và chỉ chờ đến lúc công bố
kết quả thôi. Tuy nhiên, viên giám sát cũng ra lệnh cho đếm lại theo lời ông ta
yêu cầu.
Đó
chỉ là nỗ lực phản đối vô vọng của Tiến sĩ Lee, và trong khi việc kiểm phiếu
lần hai còn tiến hành thì ông ta đã đùng đùng bỏ ra ngoài và nói với báo chí:
“Thật là lố bịch và khôi hài.” Lim Chin Siong cũng bỏ ra ngoài với ông ta, tiến
đến với đám đông ủng hộ phía bên kia đường và nói: “Chúng ta sẽ không chịu thua
và sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu đòi các quyền bình đẳng cho nhân dân Singapore.”
Nhưng chẳng còn gì cho họ ngoài chuyện giải tán. Họ đã thua cuộc và đành lặng
lẽ rút về nhà để tránh phải đối mặt với thất bại.
Lúc
11 giờ 30 sáng Chủ nhật, việc kiểm phiếu lần hai kết thúc: 71 % ủng hộ phương
án A và 25 % phiếu trắng. Tôi vui mừng quá độ khi phát biểu với đám đông chờ
đợi bên ngoài và mắt tôi đã rưng lệ. Những lời phát biểu của tôi trước dinh
Badminton đã được đài phát thanh Singapore truyền trực tiếp trên sóng:
“Lời
phán quyết của nhân dân là một điều kinh khủng đối với những kẻ thiếu trung
thực về mặt chính trị. Lời phán quyết này có tính quyết định. Đó là con dấu
chuẩn y của nhân dân đối với việc hợp nhất và thành lập Liên bang Malaysia…
Không tiến hành trưng cầu dân ý có thể sẽ là một sai lầm bi thảm, vì như thế
chúng ta có thể đã giúp phe đối lập có cơ hội làm dân chúng tin vào cái được
gọi là số đông đã chống lại việc hợp nhất. Với thời gian và kiên trì giải
thích, chúng ta sẽ có thể giảm dần số người ủng hộ mà họ đã thu phục được bằng
cách dối gạt, bôi nhọ hay đe dọa.”