Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 02 phần 1

2

LỚN LÊN

Hồi
ức sống động và xa xưa nhất của tôi là chuyện bị xách lỗ tai trên miệng giếng
trong khuôn viên một tòa nhà gia đình tôi sống hồi đó, nơi bây giờ là đường
Tembeling của Singapore. Lúc ấy, tôi được chừng bốn tuổi.

Tôi
rất nghịch ngợm và đã phá phách hộp dầu chải đầu hiệu 4711 màu xanh nhạt thơm phức
và đắt tiền của cha tôi. Tính tình của ông rất nóng nảy và tối hôm đó cơn giận
của ông đến tung cả mái nhà. Ông tóm lấy gáy tôi, lôi từ trong nhà ra giếng và
xách tôi lơ lửng ở trên đó. Làm sao tai tôi lại dai đến nỗi không toác ra cho
tôi rơi xuống giếng như thế? Năm mươi năm sau, vào thập niên 1970, tôi đọc
trong tờ Scientific American một bài báo giải thích sự đau đớn và chấn động đã
tiết chất peptit vào não bộ thế nào, rồi ghi dấu ấn sâu đậm trong các tế bào
thần kinh nên chắc chắn rằng biến cố đó sẽ được ghi nhớ mãi rất lâu sau này.

Tôi
chào đời ở Singapore ngày 16/9/1923 trong một căn nhà lớn hai tầng số 92 đường
Kampong Java. Mẹ tôi, bà Chua Jim Neo lúc đó mười sáu tuổi. Cha tôi, ông Lee
Chin Koon, mới hai mươi. Ông bà hai bên của tôi đã tổ chức đám cưới cho cha
mẹ tôi một năm trước đó. Cả hai gia đình hẳn đã nghĩ như thế là môn đăng hộ
đối, vì sau này họ còn cưới em gái cha tôi cho em trai mẹ tôi nữa.

Cha
tôi là con nhà giàu có. Ông thường tự hào kể với chúng tôi rằng khi còn
nhỏ, cha của ông, tức ông nội tôi, đã cho ông một sổ nợ vô giới hạn tại hai cửa
hàng bách hóa hàng đầu trong thương xá Raffles hồi đó là Robinson và John
Little, tại đây ông có thể ghi sổ bất cứ bộ quần áo hay món hàng nào mà
ông muốn có. Ông được học chương trình Anh tại Học viện Thánh Joseph, một
trường học Thiên chúa giáo do các ông cha dòng De La Salle thành lập năm 1802.
Ông kể rằng ông đã đậu tiểu học, sau đó ông thôi học khiến cả ông lẫn mẹ tôi
còn tiếc mãi. Không nghề nghiệp, ông chỉ có thể xin được chân bán hàng cho Công
ty xăng dầu Shell khi tài sản của cả hai nhà nội ngoại đều tan tành vì cuộc
Khủng hoảng kinh tế thế giới.

Lịch
sử gia đình tôi tại Singapore bắt đầu với ông cố nội của tôi, Lee Bok Boon, một
người Hakka (người Hẹ). Người Hakka là người Hán miền đồng bằng Hoa trung và
Hoa bắc di cư đến Fujian (Phúc Kiến), Guangdong (Quảng Đông) và các tỉnh khác ở
Hoa Nam khoảng 700 đến 1.000 năm trước, và vì là kẻ đến sau, họ chỉ có thể sống
chen chúc trên những mảnh đất đồi kém màu mỡ không có dân địa phương cư ngụ. Theo
văn bia trên mộ ông cố ở sau căn nhà của ông tại Trung Quốc, Lee Bok Boon ra
đời năm 1846 tại làng Tangxi, quận Dabu, Guangdong. Ông theo tàu di cư sang
Singapore. Gia đình chẳng biết gì về ông từ sau đó đến năm 1870 khi ông cưới
một cô gái người Hoa, Seow Huan Neo, sinh tại Singapore trong gia đình một tiểu
thương.

Năm
1882, ông cố tôi quyết định rằng mình đã kiếm được đủ tiền để trở về làng quê ở
Trung Quốc, xây một cái nhà lớn và trở thành quan chức trong làng. Tuy nhiên,
bà cố nội tôi không muốn xa gia đình bà ở Singapore để tới một nơi chưa từng
biết tới. Theo lời ông nội tôi, lúc đó mới mười tuổi, các con cái và bà cố nội
tôi đã sang trốn bên nhà gia đình bà trên đường Ah Hood. Ông cố Lee Bok Boon
trở về Trung Quốc một mình. Ở đó ông lấy vợ khác, xây một căn nhà lớn và đường
hoàng mua một chức quan nhỏ. Ông cho vẽ chân dung mình trong quan phục rồi gửi
sang Singapore cùng một bức khác vẽ một ngôi nhà kiến trúc kiểu Trung Quốc
truyền thống cùng một khoảng sân và những mái ngói xám. Bức tranh về căn nhà thì
nay đã mất, nhưng bức chân dung ông cố tôi thì còn.

Ông
nội tôi, Lee Hoon Leong – mà tôi vẫn quen gọi là Kung, trong tiếng Trung Quốc
nghĩa là ông – sinh ra ở Singapore năm 1871, cha tôi nói ông nội học tại Học
viện Raffles tới lớp 5, tương đương với năm đầu cấp trung học ngày nay. Ông nội
kể cho tôi nghe là ông làm việc pha chế thuốc trong tiệm thuốc khi thôi học,
nhưng vài năm sau, ông đi làm quản lý trên một con tàu chở hàng đi lại giữa
Singapore và vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan[2].
Con tàu này thuộc một đội tàu của hãng Heap Eng Moh Shipping Line mà ông chủ là
Oei Tiong Ham, một triệu phú người Tàu làm vua ngành đường mía ở Java.

[2]
Đông Ấn thuộc Hà Lan (Dutch East Indies) vùng đảo thuộc địa của Hà Lan nằm trong
quần đảo Malay, nay là lãnh thổ của Indonesia.

Trong
một đợt nghỉ, ông cưới bà nội tôi, Ko Liem Nio, tại Semarang, một thành phố
miền trung Java. Có một văn bản bằng tiếng Hà Lan, ghi ngày 25/3/1899, do Tòa
mồ côi Semarang[3] cấp
phát, cho phép Ko Liem Nio, mười sáu tuổi, được cưới Lee Hoon Leong, hai mươi
sáu tuổi. Phần bối thự ghi ở mặt lưng cho biết hôn lễ đã được cử hành ngày
26/3/1899. Cha tôi ra đời tại Semarang năm 1903. Nhưng ông là thần dân Anh theo
dòng dõi, vì cha của ông – Kung – là dân Singapore. Sau khi có con, Kung mang
vợ con trở về Singapore và sinh sống suốt đời ở đó.

[3]
Tòa mồ côi (Orphan’s Court): loại tòa có ở một số nước, có thẩm quyền đối với
việc quản lý điền sản theo di chúc và giám hộ trẻ vị thành niên.

Tài
sản của ông tăng dần khi ông được Oei Tiong Ham tin cậy và ủy quyền cho ông
quản lý mọi công việc của hãng tại Singapore. Kung nói cho tôi nghe ông đã được
tin cẩn thế nào đến độ năm 1926, bằng quyền hạn của mình, ông đã tặng 150.000 đôla,
hồi đó là số tiền rất lớn, từ quỹ của ông Oei cho việc xây dựng đại học
Raffles.

Giữa
cha tôi và ông nội tôi thì không thể xác định tôi kính trọng ai hơn. Ông nội
thương và nuông chiều tôi. Còn cha tôi, người giữ kỷ luật trong gia đình, thì
khó tính với tôi. Ông nội tôi đã gầy dựng được một gia sản lớn. Cha tôi chỉ là
cậu con nhà giàu, chẳng có gì để kể về chính ông.

Khi
tài sản gia đình suy kiệt trong thời khủng hoảng kinh tế thế giới vốn làm giá
cao su giảm từ 80 xu một cân Anh (khoảng 450gr) năm 1927 xuống còn 20 xu năm
1930, Kung đã bị thiệt hại nặng. Rõ ràng ông không khôn ngoan trong kinh doanh
bằng ông ngoại tôi là Chua Kim Teng. Tài sản của ông ngoại Chua cũng bị thiệt
hại vì ông đã đầu tư vào đồn điền cao su và đầu cơ trong thị trường cao su. Nhưng
ông cũng thâm nhập thị trường bất động sản nữa. Ông sở hữu nhiều sạp chợ và cửa
hàng nên không bị sụp đổ hoàn toàn như ông nội Kung của tôi. Nên năm 1929 cha
mẹ tôi đã dọn từ nhà ông nội sang ở trong căn nhà lớn mà bừa bộn của ông ngoại
trên đường Telok Kurau.

Ông
nội tôi đã bị Tây phương hóa, do nhiều năm
làm việc trên tàu buôn chung với người Anh, từ thuyền trưởng, máy trưởng tới
các nhân viên. Ông thường kể lại cho tôi nghe những kinh nghiệm và chuyện trên
tàu thì người ta kỷ luật tới mức nào. Thí dụ, dù cho khí hậu nhiệt đới nóng và
ẩm, thuyền trưởng và các thuộc viên vẫn phải mặc bộ đồ vải trắng gài nút kín cổ
để ăn tối với đầy đủ dao muống nĩa và khăn ăn được bày dọn đàng hoàng. Qua lời
ông kể về những chuyến hải hành trong khu vực thì rõ ràng các sỹ quan Anh ấy đã
để lại trong ông dấu ấn sâu đậm về tính trật tự, sức mạnh và hiệu năng.

Khi
tôi ra đời, gia đình đã hỏi ý một người quen thông thạo chuyện con cái để tìm
tên tốt đặt cho tôi. Ông đã đề nghị chữ “Kuan Yew”, trong tiếng Quan thoại
guang yao, nghĩa là “thông minh và sáng láng”. Nhưng ông nội
tôi, vì lòng ngưỡng mộ nước Anh, đã thêm cho tôi tên Harry, nên tên tôi thành
Harry Lee Kuan Yew. Hai em trai tôi, Kim Yew và Thiam Yew, cũng có tên thánh
Tây phương như thế – lần lượt là Dennis và Freddy. Thời đó ít có người Hoa
không theo đạo Thiên chúa lại có tên thánh như thế, nên sau này đi học tôi thấy
mình kỳ cục với cái tên Harry. Khi em út của tôi, Suan Yew, ra đời năm 1933,
tôi đã thuyết phục cha mẹ tôi đừng đặt tên thánh làm gì vì gia đình đâu có theo
đạo Thiên chúa.

Tuy
ông nội tôi không còn đủ tiền để sống và ăn mặc đúng cung cách nữa, nhưng ông
vẫn còn giữ được những dấu tích của thời sung túc trước đây, trong đó có mấy
món đồ nội thất rất đẹp nhập từ Anh hồi thập niên 1910. Hơn nữa, ông còn là tay
sành ăn. Mỗi bữa ăn với ông là một nghi thức. Bà nội tôi nấu ăn cũng giỏi. Bà
có thể chiên thịt bò với nhục đậu khấu tới vàng sậm mọng nước, dọn chung với
khoai tây được chiên vàng ươm nhưng không nhẫy mỡ, vốn là chi tiết mà ông nội
tôi rất để ý. Tôi có ấn tượng rõ ràng rằng ông nội tôi là người đã vươn lên
trong cuộc sống và biết sống sao cho ra sống.

Ông
khác biệt rất rõ với ông ngoại tôi. Ông Chua Kim Teng không hưởng nền giáo dục
Anh và cũng không làm ăn hợp tác với các viên chức Anh hay các triệu phú người
Hoa trong ngành đường. Ông sinh ra ở Singapore năm 1865 trong gia đình gốc
Hakka ở Malacca. Ông giàu lên nhờ làm lụng chăm chỉ và sống tiết kiệm, dùng
tiền để dành được đầu tư một cách thận trọng vào ngành cao su và bất động sản.

Ông
đã lấy vợ ba lần. Hai người vợ đầu đã mất và bà vợ thứ ba là bà ngoại tôi, Neo
Ah Soon, một phụ nữ Hakka vai rộng quê ở Pontianak trong vùng đảo Borneo thuộc
Hà Lan. Bà nói được tiếng Hakka và tiếng Malay của người Indonesia. Khi bà lấy
ông ngoại tôi, bà đã có một đời chồng với hai con riêng, người chồng trước đã
chết ít lâu sau khi có đứa con thứ hai. Bà có với ông Chua bảy người con trước
khi chết vào năm 1935. Còn ông ngoại tôi chết năm 1944, thời người Nhật chiếm
Singapore.

Mẹ
tôi là con lớn nhất của hai ông bà, và khi mẹ tôi lấy cha tôi năm 1922 lúc bà mười
lăm tuổi thì tình hình của gia đình cả hai bên còn rất sung túc. Bà còn mang
theo được, như một phần của hồi môn, một cô hầu nhỏ có nhiệm vụ giúp bà tắm,
lau chân, tháo hoặc đi giày cho bà. Tất cả những biểu hiện giàu sang ấy đều đã
biến mất khi tôi nhận thức được môi trường xung quanh mình vào năm bốn hoặc năm
tuổi. Nhưng ký ức về thời kỳ tốt đẹp ấy vẫn còn trong những ảnh chụp xưa của
tôi – một cậu bé mặc đủ thứ áo quần nhập từ Anh, hay nằm trong một chiếc xe nôi
sang trọng. Nhà của ông ngoại Chua ở Telok Kurau là một căn nhà trệt rất rộng
bằng gỗ và gạch. Ông và tất cả con cái của bà vợ thứ ba sống trong căn nhà đó,
mẹ tôi, con gái lớn, cùng với cha tôi và năm anh em tôi chiếm một phòng ngủ
lớn. Tất cả hợp thành một đại gia đình trong đó mọi người sống hòa hợp ngoại
trừ những xung đột nho nhỏ, chủ yếu vì những đứa cháu nghịch ngợm và ưa gấu chó.
Cứ thế tôi lớn lên cùng với ba em trai và một em gái cùng sáu anh em họ trong
cùng một ngôi nhà. Nhưng vì tất cả chúng nó đều nhỏ tuổi hơn tôi, nên tôi
thường chơi với những đứa trẻ con nhà ngư dân người Hoa hay người Malay sống
trong khu gần đó, một cụm chừng hai ba chục ngôi nhà lá hay gỗ có mái tôn trong
một ngõ đối diện nhà ông ngoại tôi. Những ngư dân này kiếm ăn dọc bãi biển
Siglap cách đó chừng 200 thước.

Đó
quả là một thế giới đơn giản. Chúng tôi chơi diều, bông vụ, bi và cả cá đá nữa.
Những trò chơi đó hun đúc một tinh thần chiến đấu và khát khao chiến thắng. Tôi
không biết có phải những chuyện đó đã chuẩn bị bản thân tôi cho những cuộc đấu
tranh sau này trong lãnh vực chính trị hay không. Chúng tôi không mềm yếu, mà
cũng không hư hỏng. Là một cậu bé, tôi không có những thứ quần áo giày dép lạ
kỳ như của những đứa cháu tôi ngày nay.

Chúng
tôi không nghèo nhưng chúng tôi cũng không tràn ngập những đồ chơi, và cũng
không có TV. Nên chúng tôi phải tháo vát, phải sử dụng trí tưởng tượng. Chúng
tôi đọc, và điều đó có lợi cho ngữ vựng của chúng tôi, nhưng hồi đó chẳng có
mấy sách hình cho trẻ con, và lại đắt tiền nữa. Tôi mua những truyện rùng rợn
rẻ tiền và theo dõi những cuộc phiêu lưu của các chú nhỏ – Harry Wharton, Billy
Bunter và các bạn. Tôi sốt ruột chờ đợi con tàu bưu điện từ Anh mỗi tuần đến
đậu tại bến Tanjong Pagar vào thứ Sáu, mang theo các tạp chí và truyện tranh
của Anh. Nhưng những thứ này cũng không rẻ. Khi lớn hơn một chút, tôi sử dụng
thư viện Raffles, nơi có thể mượn sách đọc trong hai tuần. Tôi đọc đủ thứ sách
nhưng thích truyện miền viễn tây hơn truyện trinh thám.

Trong
những đợt nghỉ, gia đình tôi có thể đến chơi cả tuần lễ trong ngôi nhà gỗ của
ông ngoại tại đồn điền cao su của ông ở Chai Chee. Từ đường Changi, chúng tôi
lên đường đi đồn điền trên một chiếc xe bò thắng hai con bò do người làm vườn
của bà ngoại tôi điều khiển. Chiếc xe có bánh gỗ bọc niềng sắt và không có dàn
nhún, nên nửa dặm trên con đường đất là đầy những cú dằn xóc rất buồn cười. Năm
mươi năm sau, 1977, khi tôi đáp máy bay Concord từ London đi New York băng qua
Đại Tây Dương trong vòng chỉ có ba giờ, tôi đã tự hỏi không biết có
người khách đồng hành nào của tôi từng biết đến niềm vui của việc ngồi xe bò
không.

Tuy
nhiên cuộc sống không chỉ là những niềm vui đơn sơ. Thỉnh thoảng cha tôi lại về
nhà với tâm trạng bực bội vì thua xì dách hay thứ bài bạc nào đó tại Câu lạc bộ
bơi lội người Hoa ở đường Amber, và đòi mẹ tôi đưa món nữ trang nào đó để đem
cầm rồi trở lại chiếu bạc thử thời vận lần nữa. Thế là có cãi nhau kịch liệt và
đôi khi cha tôi rất thô bạo. Nhưng mẹ tôi là một phụ nữ can đảm quyết tâm giữ
lấy tài sản và đồ cưới của ông bà ngoại cho. Là một con người mạnh mẽ với tài
tháo vát và năng lực lớn lao, bà đã bị gả chồng quá sớm. Ở thời của bà, người
ta muốn phụ nữ phải là một người mẹ tốt, sinh nhiều con cái để rồi nuôi dạy
chúng thành những người chồng người vợ tốt. Nếu bà ra đời chậm một thế hệ và
được học cao hơn bậc trung học thì bà đã dễ dàng trở thành một nhà quản trị
giỏi rồi.


đã dành cả đời để lo cho con cái được học hành tử tế và có nghề chuyên môn, và
bà đã đương đầu với cha tôi để bảo vệ tương lai cho con cái. Tôi và các em tôi
ý thức rõ sự hy sinh của bà, chúng tôi hiểu mình không được làm bà thất vọng và
đã cố hết sức để xứng đáng với bà và đạt được những điều bà mong muốn. Khi tôi
lớn hơn, bà bắt đầu hỏi ý kiến tôi, đứa con cả, về mọi chuyện quan trọng trong
nhà, nên tuy mới mười mấy tuổi, tôi đã thực sự đóng vai người đầu não của gia
đình. Điều này dạy tôi cách đưa ra những quyết định.


ngoại tôi có quan điểm rất rõ về việc học hành của tôi. Năm 1929, khi tôi chưa
được sáu tuổi, bà đã nhất định tôi phải cùng các trẻ con nhà ngư dân đi học một
trường gần đó; một ngôi trường bằng gỗ và lá với nền đất nện. Ngôi trường chỉ
có một phòng học với những băng ghế gỗ, mặt bàn là tấm ván thô và một phòng nữa
dùng làm chỗ ở cho ông thầy người Hoa trung niên gầy gò của chúng tôi. Ông bảo
chúng tôi đọc theo ông mà chúng tôi chẳng hiểu nghĩa gì cả – nếu ông có giải
thích thì tôi cũng không hiểu.

Tôi
phàn nàn với mẹ và bà nói lại với bà ngoại. Nhưng bà mẹ hai mươi hai tuổi của
tôi thì không thể cãi được bà ngoại đã hai lần lấy chồng, nuôi lớn đến chín đứa
con và lại quyết tâm là tôi phải học được chút đỉnh tiếng Hoa. Nhưng bà ngoại
tôi cũng cho phép đổi trường và tôi sang học trường Choon Guan ở khu Joo Chiat
cách nhà tới một dặm và tôi phải đi bộ đến đó mỗi ngày. Ngôi trường này thì
đường hoàng hơn, một tòa nhà gỗ hai tầng có nền xi măng, và khoảng 10 phòng học
đúng quy cách có bàn ghế rời cho 35 tới 40 học sinh. Những bài học bằng tiếng
Hoa thì vẫn gian nan như vậy. Ở nhà tôi nói tiếng Anh với cha mẹ tôi, tiếng
Malay bồi – pha trộn giữa tiếng Malay với tiếng Hoa – với ông bà ngoại, rồi
tiếng Malay pha một ít tiếng Hakka với bạn bè và những đứa trẻ con nhà ngư dân.
Tiếng Quan thoại thì hoàn toàn xa lạ với tôi, và chẳng dính dáng gì tới cuộc
sống của tôi. Tôi chẳng hiểu gì lắm những điều các thầy giáo nói.

Sau
hai ba tháng như thế, tôi lại xin mẹ tôi cho chuyển sang một trường dạy bằng
tiếng Anh. Lần này thì bà thuyết phục được bà ngoại và tháng 1/1930 tôi vào học
trường tiếng Anh Telok Kurau. Bây giờ tôi hiểu các thầy giáo nói gì và chỉ cố
gắng chút đỉnh là có tiến bộ. Học sinh đa số là người Hoa, có một ít người Ấn
và một ít người Malay chuyển từ trường Telok Kurau tiếng Malay qua.

Cha
mẹ tôi e rằng tôi kém chuyên cần, và mẹ tôi giao cho chú Keng Hee một nhiệm vụ
là buộc tôi chuẩn bị bài ngày mai cho chu đáo. Mỗi tuần ba lần trước giờ ăn
tối, tôi phải ngồi với chú một tiếng. Ngay từ hồi đó tôi đã thấy thật kỳ cục
khi ông chú ít học nhất trong các chú của tôi lại được giao nhiệm vụ kiểm tra
việc làm bài ở nhà của tôi.

Tôi
được phép nhảy thẳng từ lớp đồng ấu 1 lên lớp 1, không phải qua lớp đồng ấu 2.
Đến hết năm lớp 5, sau bảy năm tiểu học – mà tôi chỉ học trong 6 năm – chúng
tôi dự một kỳ thi tổ chức cho toàn đảo để được tuyển vào các trường trung học
công lập. Trong năm cuối ấy, 1935, tôi đã cố gắng hơn nhiều, được đứng đầu
trường và được tuyển vào Học viện Raffles vốn chỉ thu nhận những học sinh xuất
sắc.

Học
viện Raffles, hồi đó cũng như bây giờ, là trường trung học tiếng Anh hàng đầu ở
Singapore và mang tên người sáng lập ra nó. Nó sản sinh ra từng đợt ít ỏi những
con người xuất sắc và có học vấn tốt, rất nhiều người trong đó được học bổng Nữ
hoàng để đi học ở Cambridge, Oxford, London, Edinburg và nhiều học viện khác
của Anh, về y khoa, luật và cơ khí.

Năm
1936, tôi vào Học viện Raffles cùng với khoảng 150 học sinh hàng đầu của 15
trường tiểu học công lập. Việc tuyển chọn hoàn toàn dựa trên tài năng. Học sinh
thuộc đủ mọi chủng tộc, giai cấp và tôn giáo, và có cả nhiều học sinh từ lục
địa Malaysia ra nữa. Các vị hiệu trưởng đầu tiên của học viện này là người Anh
và đã mô phỏng nó theo các trường công lập ở Anh.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3