Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 15 - Phần 1

Chương 15:
Trung thu

Mạn phía Bắc kinh thành, men theo hồ Dâm Đàm mang một
dáng vẻ khác lạ, gần như đối lập hẳn với khu phố chợ phía Đông. Một đằng sầm
uất phồn hoa, trên bến dưới thuyền, lúc nào cũng sáng rực ánh đèn, tấp nập
người xe qua lại; một đằng lại yên tĩnh, u tịch đến mức gần như bí hiểm. Dâm
Đàm rộng lắm, cấm thành với lầu son gác tía, lộng lẫy, bề thế đến vậy mà cũng
chỉ thu được một phần hồ nước vào cảnh trí, còn để lại một vùng mênh mông tĩnh
lặng chiếm trọn cả một phương trời. Hải Triều nghe người ta nói nhiều đến những
yếu nhân[1] nơi cung
cấm, nghe nhiều về sân điện nơi các đào nương, kép đàn muốn được một lần đứng
tại đó, phô bày tài nghệ trước mặt đế vương, nhưng nàng chưa từng được nghe
miêu tả vẻ đẹp của chốn ấy thế nào. Liệu những người nhìn cảnh sắc từ cung vàng
điện ngọc có thấy sóng nước, mây trời khác với những gì nàng đương chiêm
ngưỡng? Một cảnh tượng khác, một nhân gian khác…

[1] Người quan trọng.

Lưỡi kiếm vung tới nhanh gọn, loang loáng ánh bạc, sắc
ngọt đến mức tưởng như việc chặt đôi thân cây trúc trước mặt chỉ bằng một cái
phạt nhẹ. Nàng nhìn vết cắt xéo trên đốt cây, nhìn nửa thân trên lòa xòa cành
lá hãy còn xanh tươi rơi chạm xuống mặt đất rải đầy những phiến lá khô đã ngả
sang màu trắng. Mấy khớp ngón tay chuyển sắc khi Hải Triều siết quanh chuôi
kiếm trong tay mình.

- Cháu làm lại thử xem, lần này dùng hết sức lực cho
bác!

Người đàn ông vừa xuất ra những đường kiếm mềm mại,
đẹp đẽ lại đầy uy lực ban nãy khoanh tay, trầm trọng yêu cầu. Đôi mắt ông chăm
chú nhìn cô gái nhỏ nhắn trước mặt, nhìn mái tóc tơ bay lên trong gió theo từng
bước di chuyển của nàng. Túm tua lụa đỏ thẫm như màu máu nơi chuôi kiếm đung
đưa theo đường vòng cung đẹp mắt, không khác mấy những gì người đàn ông vừa làm
nhưng lưỡi sắc chỉ cắm ngập vào được thân cây trúc, không thể tạo thành một
nhát chém chuẩn xác, gọn ghẽ. Hải Triều nhìn cảnh ấy, mắt không lộ một chút gì
ngạc nhiên. Mím môi dùng lực nạy lưỡi kiếm ra, mái tóc dài vắt qua vai, mấy sợi
xòa xuống làm nụ cười nhạt trên môi hiện lên thấp thoáng.

- Cháu đúng là loại vô tích sự!

- Cháu không có tố chất trở thành người dụng võ, sao
phải cố ép mình làm gì? Có những thứ luyện tập có thể thành, nhưng cũng có
những điều là thiên bẩm. Như cháu không thể bắt bác chơi đàn vậy. Cổ tay của
đào nương rất mềm, vậy mới có thể lướt đi trên những phím đàn nên không có lực
khi dùng kiếm cũng là điều dễ hiểu. – Ông ngồi xuống, mỉm cười trìu mến với cô
gái đứng cạnh mình. – Luyện võ để cải thiện sức khỏe là được rồi. Chuyện đao
kiếm, đánh đấm này bác cũng nghĩ như cái Oanh… Huyên à, bỏ đi!

Chống mũi kiếm xuống đất, Hải Triều khẽ tựa lưng vào
thân cây, lặng thinh vờ như suy nghĩ. Nàng quen người đàn ông tên Nguyễn Kiệt
này đến nay cũng có thể gọi là lâu, ông lại còn là họ hàng xa bên nhà nội. Sau
án Lệ Chi Viên, Nguyễn Kiệt phải lưu lạc đi nhiều nơi để tránh liên đới, mãi
sáu năm trước mới quay lại Đông Kinh, vòng vo một hồi đã tìm được Đào Thịnh và
Kim Oanh rồi gặp được nàng. Ít võ vẽ phòng thân Hải Triều học được cũng từ
người đàn ông này mà ra cả. Nhiều lúc nàng nghĩ cũng thấy băn khoăn, sợ vì mình
mà hết người này đến người kia ngộ nhỡ bị dính vào thị phi có khi mất mạng thì
phải làm sao. Bàn tay xòe ra rồi lại nắm lại, hàng mi rủ xuống đôi mắt đen
thẫm.

- Chuyện của phụ thân cháu… – Nguyễn Kiệt ngập ngừng
nói: – Bác biết cháu không dễ gì chấp nhận, không người thân thích khổ sở thế
nào bác có thể hình dung ra được. Nhưng Huyên à, cháu cũng chỉ là con gái thôi,
những chuyện báo thù rửa hận ấy đừng nhúng tay vào thì hơn. Nỗi oan khuất của
cố Hành khiển đại nhân sẽ có người thay cháu thu xếp, hiểu không?

Nàng nghe những lời ấy liền quay sang, trong đáy mắt
chứa sự ngạc nhiên lẫn ngờ vực rồi lại phảng phất những nét lãng đãng, mơ hồ.
Hải Triều lắc đầu:

- Báo thù rửa hận gì chứ, cháu…

- Đừng có chối! – Nguyễn Kiệt nghiêm giọng giáo huấn,
trừng mặt nhìn cô gái khiến nàng cúi đầu, né tránh, chẳng dám nhìn thẳng nữa. –
Suốt hai năm qua cháu cố tình học dùng kiếm, học đánh nhau là để làm gì? Cháu
đừng cho ta ngốc, không nhìn ra những tính toán trong đầu cháu.

- Cháu là đứa đến thịt một con gà còn lóng ngóng, cầm
kiếm giết người e rằng phải tìm nạn nhân kém cỏi hơn cháu nữa! – Nàng cười lớn,
đuôi mắt cong xuống thành thực. – Nhưng nói thế nào đây cũng là chuyện riêng,
cháu thực sự không muốn cả bác, cả chị Oanh, cả cô Thịnh đang sống yên lại phải
dính vào. Án chết triều đình đã ban càng ít người liên lụy càng tốt.

Phủi hai bàn tay vào nhau, người đàn ông chống gối
đứng dậy, dùng hai tay vỗ nhẹ lên bờ vai nàng. Bóng ông trùm xuống cô cháu gái
bé nhỏ trong ánh sáng ban mai nhàn nhạt đang dâng lên nơi chân trời. Nguyễn
Kiệt trầm giọng nói:

- Thân phụ cháu không phải họ hàng của bác sao? Chưa
kể đến tính thân, đến máu mủ ruột già, thầy cháu làm nhiều người trong thiên hạ
này ngưỡng mộ để rồi uất hận thay. Công bằng, công lý sẽ có lúc đòi lại cho kì
được, ngày đó đến sớm thôi! Nhị phu nhân đã cố gắng hết sức để cháu được sống,
cố gắng hết sức để giữ gìn giọt máu còn lại của đại nhân trên đời, nên cháu
tuyệt đối không được tùy tiện đi tìm cái chết, hiểu không? Thế là có lỗi với mẹ
cháu.

Lá trúc trên đầu xào xạc khô khốc trong gió thổi từ
ngoài hồ vào. Hải Triều hấp háy mắt nhìn lên, hiểu rõ Nguyễn Kiệt cố tình đề
cập đến Mai Loan để uốn nắn, ép buộc nàng nên nhất thời không biết phải tranh
luận lại thế nào. Người đàn ông hiểu rõ đứa bé trong tay mình luôn rất ít lời,
dễ khiến người ta nhầm tưởng là dạng gọi dạ bảo vâng ngoan hiền, nhưng thực ra
lại là loại người không để ai nhìn ra bản thân muốn hành xử thế nào, tính toán
ra sao. Nếu không lấy người mẹ đã khuất ra ép con bé, sợ chẳng còn cách nào
khác.

- Hồi năm ngoái cháu đã sang cát cho phu nhân Mai
Loan, hơi muộn một chút[2] nhưng thu
xếp thế cũng là ổn thỏa, mẹ cháu được mát lòng mát dạ rồi. Giờ cháu nên tính
đến chuyện tình duyên đi là vừa. Đào hát thì là đào hát, chớ quên bản thân là
tiểu thư xuất thân từ gia đình có học, nghe chưa?

[2] Tức cải táng. Theo phong tục của người Việt, ba năm sau
khi chôn cất thì người thân của người đã khuất tiến hành sang cát, bốc mộ. Làm
xong thủ tục cuối cùng này là coi như đoạn tang. Ở đây bốn năm sau khi Mai Loan
qua đời, Hải Triều mới làm việc đó.

Hải Triều nghe những lời ấy, biết sự quan tâm, lo lắng
của Nguyễn Kiệt dành cho mình nhưng cũng chỉ cười xuề xòa đáp lại. Nàng đưa
thanh kiếm của mình cho ông theo thói quen bao năm qua mỗi khi kết thúc những
buổi học, bâng quơ:

- Cháu vẫn muốn chọn một khoảnh đất khác tốt hơn để
chôn cất mẹ. Dù người chẳng quan tâm mấy đến việc đó đâu nhưng mà…

- Được rồi, bác sẽ để ý tìm giúp cho. – Người đàn ông
cười trìu mến, xoa đầu nàng – Bác sống một mình, từ lâu rồi vẫn coi cháu như
con gái. Bác thực sự mong cháu có thể sống bình an thay cả phần của thầy mẹ
nữa. Những chuyện đau đầu để cho người lớn giải quyết là được rồi. Cháu nên về
giáo phường đi, cũng không còn sớm nữa đâu. Đi đường cẩn thận.

Cúi đầu chào, Hải Triều chầm chậm xoay mình, đi ngược
lại con đường ban nãy. Bàn chân đạp lên lớp lá khô giòn đột nhiên chậm lại,
nàng ngoái đầu, hỏi:

- Bác… cháu nghe nói năm đó có hai vị phu nhân khác đã
chạy trốn được, một vị còn đang có mang. Bác có nghe ngóng được gì không?

Nguyễn Kiệt nhìn vẻ mặt bồn chồn của nàng, thở dài rồi
ngậm ngùi lắc đầu. Hải Triều mím môi lại, suy nghĩ trong chốc lát rồi buột
miệng:

- Nếu họ còn sống thì tốt, nếu vị phu nhân đó sinh
được một đứa con trai thì phúc đức biết mấy!

- Cũng mong là vậy, không thì đại nhân vẫn còn cháu
đấy thôi!

Nàng nghe những lời ấy, chỉ mỉm cười rồi lắc lắc mái
tóc:

- Người ta vẫn nói nữ nhân ngoại tộc[3] mà bác,
đâu có thể lo hương hỏa cho thầy mẹ chu toàn bằng con trai được.

[3] Quan điểm cho rằng con gái là người ngoài. Nói nôm na
theo dân gian tức là: con gái là con người ta, gả cho nhà chồng rồi thì là con
nhà bên ấy, chết rồi là ma nhà bên ấy.

Nguyễn Kiệt nghe những lời ấy cũng đành im lặng.

Còn nàng, nàng lại thong thả bước đi trên con đường
của mình. Siết tấm áo sồi màu nâu non quanh người chặt thêm một chút, Hải Triều
thấy da mình nổi gai ốc vì những cơn gió mát lùa sương trắng sữa từ ngoài hồ
vào khiến rừng trúc bao lấy xung quanh mang một dáng vẻ mờ ảo, nửa hư nửa thực.
Hai chữ Dâm Đàm chính là ám chỉ vẻ mù sương tiên cảnh của chốn này.
Chỉ cần chút nữa mặt trời lên tỏ, cảnh tượng thần tiên này sẽ tan biến ngay
trong chớp mắt. Ban mai mùa thu mang màu lam tím trong trẻo được điểm sắc vàng
óng của những thân trúc thanh tao, nghiêng nghiêng trong gió, chia cắt cảnh vật
thành những khoảnh nhỏ tựa nhưng được nhìn qua hết tấm rèm này lại đến tấm rèm
khác. Sóng nước vỗ bờ nghe vừa xa vừa gần, càng khiến cảnh tượng thêm tịch mịch.
Bến trúc cùng đồng hoa Nghi Tàm[4] là hai
cảnh sắc đẹp đẽ nhất của mạn Bắc kinh thành, thanh tao, u hoài, trầm lắng nhưng
cũng rất mực trong trẻo, khiến bao thi nhân say cảnh, say người. Những chuyện
kì ảo trong cõi sương mờ nhân ảnh này kể một ngày một đêm cũng không thể hết,
từ chuyện ngày xưa thật xưa Tổ phụ Lạc Long Quân diệt cáo chín đuôi, rồi vụ án
Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ, rồi chuyện tao nhân mặc khách hội ngộ với đủ mùi
tình duyên… đều xảy ra trên mặt nước chốn này. Thầy Nguyễn cũng đã vài lần dắt
các đào nương đến đây ngồi thiền, cố học lấy một chữ “tĩnh” trong trời đất để
có thể bình tâm mà gảy nên những thanh âm trong trẻo, mênh mang như khúc nhạc
của thần tiên.

[4] Hai trong Tây Hồ bát cảnh (tám cảnh đẹp Hồ Tây).

Thần tiên đâu thì nàng chưa biết, chỉ thấy đầu óc mình
đang tràn ngập những hình ảnh lần đến gặp Đình thượng hầu Đinh Liệt. Chưa cần
nàng mở lời xin lại, ông đã đặt vào bàn tay Hải Triều hai tờ giấy gấp tư, nói
khẽ:

“Thứ này ắt là vật quý giá với cháu. Từ nay giữ cẩn
thận bên mình, đừng để thêm ai biết nữa! Việc nhị phu nhân đã qua đời, ta rất
lấy làm tiếc”.

Hẳn nhiên là thế, người như Đình thượng hầu không đời
nào lại đi tin ngay những điều rất có thể là hàm hồ từ miệng một con ranh như
nàng nói ra. Ngài ấy chắc phải nâng lên đặt xuống, cân nhắc mãi rồi mới có thể
gật đầu xác nhận chắc chắn rằng: Vụ mưu sát Thái Tông Văn hoàng đế khi xưa hoàn
toàn không thể, không phải do bà ba Nguyễn Thị Lộ xuống tay. Bà ba vô tội thì
Nguyễn Trãi cha nàng cũng vô tội. Là những quân tốt thí trên một bàn cờ, còn
thí cho ai, cho cái gì thì Đình thượng hầu không nói nữa, Hải Triều cũng biết
không nên hỏi kĩ thêm làm gì, lại đẩy ngài ấy vào chỗ khó xử. Nghĩ đến đấy đột
nhiên tai Hải Triều nghe thấy mấy tiếng “bõm bõm” khi có ai ném sỏi xuống mặt
hồ. Nép mình sau bụi tre, cô gái ghé mắt nhìn ra, thấy mấy người thanh niên
đang đứng gần mép nước. Một người vận áo lụa trắng, tà áo bay lên trong gió từa
tựa như cánh nhạn, bên cạnh còn có một người đàn ông khác đang khom lưng như
thể chờ đợi sai bảo. Còn đám người giống như gia đinh thì đứng cách hẳn ra xa,
không dám lại gần vì sợ phá vỡ sự im lặng bao quanh người thanh niên áo trắng
nọ. Ống tay áo vung lên, hòn sỏi vuột khỏi tay làm mặt nước xao động. Tấm lưng
nhìn từ phía sau ấy tự nhiên làm Hải Triều nghĩ đến người mặc áo trắng nàng
tình cờ bắt gặp trong tư dinh của Đình thượng hầu. Đám nô tì nhà Đinh Liệt
tranh thủ lúc rỗi việc đứng trên hàng hiên trông ra, khúc khích với nhau. Mắt
cô nào cũng long lanh, gò má ai cũng ửng hồng. Vừa nhìn thấy vẻ ngạc nhiên
không hiểu trên mặt Hải Triều, cô tì nữ dẫn đường liền nén tiếng cười, thì thầm
bảo: “Người cô thấy chính là Bình Nguyên vương, hoàng đệ được quan gia vô cùng
yêu quý, cũng là vị thân vương được bao nhiêu quý cô ở Đông Kinh tơ
tưởng”. Bình Nguyên vương, ba chữ ấy làm nàng nhớ ngay đến vị Tiệp dư họ
Ngô, nghĩ ngay đến câu chuyện của cha mình. Hóa ra là vậy, cậu thiếu niên nhờ
bà ba, nhờ cha nàng mà được toàn mạng, cuối cùng nàng cũng được trông thấy rồi.

Hải Triều từng không biết phải đối diện với Nguyễn Thị
Lộ – người phụ nữ cùng diễn xướng với Nguyễn Trãi trong kí ức ra sao thì giờ,
nàng cũng không biết phải đối diện với vị Bình Nguyên vương này y như thế. Một
người đã chết, hồi ức ít ỏi đến nỗi tính là chẳng có. Còn một người tuy rằng
đang sống nhưng so vời nàng, thật chẳng khác bầu trời là bao. Hận thì nàng
không hận, càng chẳng khó chịu hay bất mãn gì, chỉ cảm thấy con tạo thật khéo
xoay vần, người đến kẻ đi, đằng sống, đằng chết thực sự chỉ trong chớp mắt.
Người ấy biết chỉ để mà biết, với nàng cũng như nước sông với nước giếng chẳng
bao giờ gặp nhau. Chỉ là khi nhìn người thanh niên nào đấy đứng bên mép hồ, tự
nhiên Hải Triều thấy những ấn tượng mờ nhạt, thoảng qua của mình về vị Bình
Nguyên vương nọ trở nên rõ nét. Là kiêu hãnh, thứ kiêu hãnh trong cô độc. Nghĩ
thế, khóe môi hơi nhếch lên thành nụ cười mỉa mai. Loại người như nàng cũng có
thể nhận ra người khác cô độc hay sao?

Nắng làm màu vàng trên thân trúc ánh lên bóng bẩy,
tươi mới, đổ sắc lên những chiếc lá khô. Tiếng chim vỗ cánh làm cả không gian
trên đầu xào xạc. Thiếu nữ nhè nhẹ, nhè nhẹ bỏ đi. Dù đám người kia là ai, việc
họ gặp một cô gái lúc tờ mờ sáng lang thang ở bến trúc này cũng là chuyện bất
thường, dễ gây ra nhiều điều phiền toái. Vừa hay có mấy cô thôn nữ từ làng hoa
kẽo kẹt đôi quang gánh đi tới làm nàng có thể tiện chân nhập vào.

Hoa trong thúng được bó theo từng loại, cùng là cúc
nhưng màu sắc lại khác nhau, có cả hoa nhài trắng phau phau hãy còn ướt sương,
tỏa mùi hương thoảng thoảng, ngòn ngọt. Vành nón quai thao chông chênh trên mái
đầu theo bước chân thiếu nữ, làm mấy anh đánh xe bò chở gạo đi qua không kiềm
được lòng, cất tiếng bông đùa:

“Phiên rằm chợ chính Yên Quang

Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua.”[5]

Mấy cô nghe thấy thế đều cười cả.

[5] Ca dao.

***

- Cụ mời cô vào ạ! – Thằng nhỏ ngày ngày hầu hạ cạnh
thầy Nguyễn khe khẽ mở cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim đã bạc màu, khoanh tay
thưa.

Hải Triều ngơi tay chỉnh lại mái tóc, vuốt hai ống tay
áo ban nãy sắn lên xuống cho thẳng thớm, bỏ dép ở ngoài rồi bước vào. Vừa nhìn
thấy bóng ông cụ in trên vách, nàng đã khoanh tay, cúi mình:

- Con lạy thầy ạ!

- Con ngồi đi!

Ông cụ mở he hé mắt, chỉ về phía chiếc đôn sứ đặt cạnh
cái sập mình đương ngồi rồi lại tiếp tục so chỉnh mấy sợi dây trên cây đàn
nguyệt. Nàng không thấy trên bàn có sách, có giấy cùng bút lông, nghiên mực như
mọi ngày, lòng thầm thắc mắc nhưng không hỏi gì thêm, chỉ lẳng lặng ngồi xuống
chỗ ông cụ bảo. Biết tính thầy Nguyễn, nàng nhẹ kéo cơi trầu về phía mình,
thong thả bổ cau, têm trầu, đợi ông sai bảo. Quả cau vỏ xanh bóng trong tay mới
bổ làm đôi thì thầy đã mở lời:

- Huyên, con chơi thử cho ta nghe một khúc nhạc trên
cây độc huyền cầm.

- Thưa vâng! – Nàng dù ngạc nhiên nhưng rồi cũng ngoan
ngoan đứng dậy, lấy đàn treo trên tường xuống. Không phải cây đàn tróc sơn quen
thuộc nên khi sờ vào, tự nhiên Hải Triều thấy xa lạ. Xưa nay thầy Nguyễn chỉ
nghe nàng chơi đàn tranh, sau này là dạy nàng chơi đàn đáy, tuyệt nhiên chưa
bao giờ ông đả động đến ba chữ độc huyền cầm. Nàng còn tưởng thầy cũng
giống ông trùm Tuân, cho rằng âm sắc của loại nhạc cụ này là bán sầu, bán tủi,
ở chốn giáo phường không nên tấu lên. Ai ngờ…

Trong hương trầm tản mát, trong ánh sáng lọt vào qua
những con tiện trên những cánh cửa bức bàn, trong không gian trầm sâu sánh đặc,
thanh âm của sợi dây đàn rung lên. Sợi dây tơ khi căng khi trùng, cổ tay khi
kéo, khi thả cần đàn làm âm thanh biến ảo không lường, kì dị đến mức làm phần
sâu nhất trong lòng người dường như cũng bị một cơn gió thổi vào mà lay động.
Ông cụ mặc áo nâu nhắm mắt, vuốt vuốt chòm râu rồi mở lời:

- Quả nhiên đúng như trùm Tuân nói, tiếng đàn của con
thực sự rất hay. Hay nhưng buồn. Có ai bảo cho con biết con gái không nên chơi
độc huyền cầm không?

- Thưa có! – Nàng dừng lại, ngẩng lên, gật đầu xác
nhận.

- Tiếng đàn này vận vào người mất rồi. Nói hay cũng là
hay, bảo dở cũng là dở. Thầy vẫn nói với các con, đào nương bán những thanh âm,
câu hát đẹp nhất để mua vui cho thiên hạ, khiến thiên hạ say mê. Nhưng cũng còn
một vế sau nữa, cả đào, cả kép một khi đã xuất hiện trước mặt quan viên cũng là
mua vui cho bản thân mình. Tiếng đàn của con thì không thế, đè lên sợi dây tơ
là một hòn đá rất lớn. Thế nên khi con chơi đàn, con có thực sự vui như Kim
Oanh, như đào Phượng, như cậu Thuận hay không?

Đôi mắt đen khẽ chớp mấy cái rồi nhìn lảng sang góc
khác, nơi mấy cái trống cái đặt trong phòng của thầy Nguyễn. Dáng vẻ thâm trầm,
ôn tồn tựa như đang tâm sự của ông cụ làm nàng thấy khó đối diện. Thầy Nguyễn
chẹp miệng, nhìn ngắm miếng trầu têm dở của Hải Triều rồi nói:

- Ta không hiểu con phải gánh điều gì trên vai, chỉ
cảm thấy con từ nhỏ đã có thể tỉnh táo nhìn ra nhiều chuyện xung quanh mình. Đã
nhìn ra, đã hiểu được thì cũng nên học buông xả, để bản thân tự do. Con không
hợp với những chuyện oán hận, đã không hợp thì giữ trong lòng làm gì? Muốn có
thể tấu lên khúc nhạc khiến giang sơn nở hoa thì lòng con phải có mùa xuân đã.
Muốn làm đất trời đổ lệ, không phải chỉ là chuyện có thể khiến người ta hiểu
được nỗi đau khổ của mình, khóc cho mình. Con đã bao giờ nghĩ khóc hết rồi thì
phải làm gì hay chưa? Con rất thông minh, chỉ là với chuyện của mình thì chưa
hiểu rõ. Giờ ta nói vậy, con từ từ suy nghĩ xem, từ từ đối diện với cây độc
huyền cầm của con xem. Chuyện gì cần làm thì làm, chuyện gì cần bỏ thì bỏ.

Thầy Nguyễn nhìn cô học trò cúi đầu không đáp, liền
vuốt chòm râu mỉm cười. Sống đến cái tuổi thất thập cổ lai hi này, nếm trải đủ
phong vị của một đời người trên đất Đông Kinh, ông cụ hiểu có lắm chuyện không
phải cứ nói buông tay là buông tay, nói cho qua là cho qua được. Kiếp người ai
chẳng có lấy đôi ba điều ám ảnh, duy chỉ có đứa bé này… nó còn ít tuổi quá mà
đã vướng vào những chuyện…

Không khí yên tĩnh đột nhiên bị làm cho xáo trộn khi
mấy cánh cửa đồng loạt được mở ra. Đôi lông mày đã bạc của ông cụ cau lại, phật
ý rõ ràng khi thấy những gương mặt ửng hồng rạng rỡ ló vào.

- Thầy… thầy ơi… Là… giáo phường Khán Xuân! Người của
Thái Thường tự đến báo, mùa xuân sang năm, giáo phường nhà ta được chọn vào
cung múa chầu, tấu nhạc hầu yến của quan gia. Chúng ta đợi được đến ngày nay
rồi!

Vẻ mừng rỡ ríu rít của đám đào hát làm thầy Nguyễn
không nỡ giận, ông đặt cái điếu cày xuống, đằng hắng mấy tiếng rồi nghiêm giọng
bảo:

- Thời biết thế mà giờ còn đứng đấy! Còn không mau đi
luyện tập đi! Vậy là còn bốn tháng nữa… cũng chẳng mấy đâu.

- Công việc thuận lợi, xuôi chèo mát mái, xem ra vận
khí của giáo phường chúng ta càng ngày càng tốt! – Một cô đào nhoẻn miệng cười,
nhanh tay rót ra một chén trà, dâng mời thầy Nguyễn.

- Ông trùm cũng vừa thỏa thuận xong với giáo phường
Hồng Châu, mua lại vị trí hát thờ tại đình Đông Hương[6]. Phen này
chúng ta được mở mày mở mặt thật rồi! – Cô đào Phượng liếc mắt nhìn, vẻ như tự
mãn lắm.

[6] Hay đình Hàng Trống, nay tọa lạc tại số 82 Hàng Trống,
Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đình thờ một đào nương nhưng lai lịch của vị nữ thành hoàng
này có nhiều dị bản.

Là thế này, Ty giáo phường mỗi huyện chia quyền hát
xướng tại các cửa đình cho các giáo phường riêng, coi đấy là địa phận không để
những giáo phường ngoài can dự vào. Nhưng mới tháng rồi bên Hồng Châu vướng vào
một vụ rắc rối, ầm ĩ cả Đông Kinh, nay cần tiền trang trải nên mới đành nhượng
bán quyền hát xướng tại cửa đình Đông Hương đi. Hẳn nhiên lắm kẻ muốn nhảy vào
chiếm cho được vị trí đắc địa đó, phần bởi vị thần được thờ trong đình là một
đào nương tài sắc hơn người, lại có công với dân với nước trong lần chống giặc
Ngô vừa rồi. Những ngón nghề ngã giá, thương thảo ai có thể qua được ông trùm
Tuân. Người ta chẳng nói nhiều về chuyện ấy, vì ngay từ khi người của giáo
phường Khán Xuân ra mặt, đã lắm kẻ đoán được kết cục sẽ ra sao. Cái khiến người
ta bàn ra tán vào chính là câu chuyện xảy ra tại giáo phường Hồng Châu để đến
nỗi khiến bên đó điêu đứng, mới hôm trước hôm sau đã xác xơ, tàn tạ.

- Này Huyên, đúng hôm xảy ra vụ giết người tại giáo
phường Hồng Châu, em và chị Kim Oanh ghé qua đó chơi, có tiện nghe ngóng được
gì hay ho không? – Một cô đào đột ngột hỏi, hướng ánh mắt hấp háy tò mò về phía
nàng.

- Phủi phui cái mồm cô đi. Chuyện xui xẻo thế cũng
nhắc lại được! – Kim Oanh bực bội, gương mặt xinh đẹp nhăn lại như thể nghe
được điều gì ghê tởm lắm. – Chuyện của người ta hóng hớt làm gì? Thôi đứng cả
lên đi, còn cả đống việc ra đấy!

Nàng nói thế, nghe thì khách quan lắm nhưng mắt lại
len lén nhìn về phía Hải Triều. Con bé đứng dậy cúi mình xin cáo lui rồi thong
thả bước qua bậu cửa, bâng quơ nói với mấy chị em vây xung quanh:

- Em chỉ biết không phải cô đào bên đó giết người.
Phải nói khách quan đột nhiên chết trong giáo phường Hồng Châu mới đúng, chẳng
qua là phu nhân nhà bên đó thích làm ầm lên…

Sự việc hôm ấy diễn ra thực chóng vánh. Đào nương trẻ
hốt hoảng đẩy cửa, tri hô khi thấy khách của mình đột nhiên xây xẩm mặt mày,
gục xuống trên bàn rượu. Kẻ liền chạy đi mời thầy thuốc, người thì vội chữa
bằng mẹo gia truyền, đoán chừng là do phải cơn gió độc. Ông trùm bên ấy cũng sợ
có chuyện chẳng lành, đã sai thằng nhỏ nhanh chân đi gọi người nhà vị nam nhân
ấy đến để chứng kiến sự việc, tránh chuyện liên đới ồn ào. Ai ngờ đâu người
tình không bằng giời tính, khách quan chết đã là một điều xui xẻo, lại thêm cả
vợ người đó nghe đâu rất chanh chua, từ xưa đã có hiềm khích với cô đào kia nên
làm ầm lên, khóc lóc bảo rằng người của giáo phường Hồng Châu tranh chồng với
bà ta không được nên ra tay sát hại. Hôm ấy, cả Kim Oanh cùng Hải Triều bị quan
phủ giữ lại thẩm vấn, đến tờ mờ sáng mới được thả cho về. Nàng tuy có vài phần
lo lắng nhưng rồi trấn tĩnh lại ngay đã đành, nhưng thiếu nữ đi cạnh từ đầu tới
cuối đều trưng ra một vẻ băng lạnh dửng dưng khiến nàng khó hiểu. Chỉ đến khi
con bé thở dài, nói khẽ một câu, cô đào Oanh mới chợt nhớ ra câu chuyện nàng
vừa nhìn thấy giống với điều gì. Con bé bảo:

“Hiển nhiên, đơn giản đến khó chấp nhận. Vì không chấp
nhận được nên cứ một mực cố thêu dệt cho ra những âm mưu, thủ đoạn thì mới vừa
lòng”.

Ngày thu, bóng nắng bên thềm nhàn nhạt khẽ chao
nghiêng trong gió. Tiếng đàn ngập ngừng đứt đoạn.

- Công tử, cậu không tập trung nên hôm nay chúng ta
dừng lại ở đây thôi! – Hải Triều nhẹ nhàng nói, rời khỏi vị trí ngồi đối diện
cậu thiếu niên tên Lê Tuấn nọ, quay lại bên bàn trà của mình.

- Xin lỗi, ta làm uổng phi tâm sức của cô mất rồi!

Bang Cơ gãi đầu, mỉm cười ngượng ngập hết nhìn cây đàn
tranh rồi lại nhìn cô gái. Bản nhạc dang dở này học mãi không xong. Đoạn, chàng
dốc túi định trả tiền cho khoảng thời gian quấy quả của mình thì bị đào nương
ngăn lại. Nàng nhìn thẳng không chớp mắt, bảo:

- Công tử đừng làm vậy. Đào nương không làm quan viên
vui thì sao dám ngửa tay nhận thưởng. Cậu với giáo phường Khán Xuân luôn rất
hào phóng, hơn nữa lại còn là bạn của Tô Mộc, cậu nói xem Ngọc Huyên có thể
nhận được không?

Nghe nhắc đến tên mình, cô bé mặc áo đỏ, miệng ngậm
cọng cỏ gà, đang chúi mũi vào y thư liền ngẩng lên, rời bỏ lan can gỗ quen
thuộc, sà xuống cạnh bàn nước. Nàng thảy viên mứt sen ngọt lịm vào miệng rồi
đưa khay mứt còn đầy nguyên cho chàng trai, cười:

- Này!

- Cô hảo ngọt nhỉ? – Chàng cười, lịch sự nhón lấy một
viên nhưng chưa thưởng thức ngay.

Dí ngón tay lên trán Tô Mộc, Hải Triều nheo nheo mắt,
cất giọng trên đùa:

- Chị tưởng con gái nhà ngự y thì phải biết ăn đồ ngọt
nhiều thì không tốt?

- Nó ngon mà chị, lại tốt nữa. Đâu được mấy thứ thuốc
trên đời vừa bổ vừa dễ dùng như vậy. Gà hầm hạt sen, mứt sen, hạt sen khô, chè
sen, chè hạt sen long nhãn… Nghĩ đến đã thấy thèm rồi.

Nhìn vẻ mặt tưởng tượng ra các món ăn ngon lành đang
trôi nổi xung quanh của Tô Mộc, Bang Cơ không khỏi bật cười. Trong một thoáng,
tưởng như những gánh nặng đè lên tâm tư bị vẻ mặt vô âu, vô lo của cô bé thổi
bay bằng sạch. Siêu đồng đặt trên hỏa lò dần tỏa hơi nóng ra xung quanh, nước
bên trong cũng sắp sủi tăm. Hải Triều đứng dậy, cuốn mấy tấm mành mành bằng tre
xung quanh hiên nhà lên, liếc mắt nhìn xuống tầng dưới, nhìn những người theo
hầu Lê Tuấn đang kẻ đứng, người ngồi trong vườn. Dáng vẻ họ đều rất bình
thường, trông chẳng khác gì những gia đinh bình thường nhưng lại khiến nàng
thấy có chút kì lạ.

- Anh ăn đi chứ! – Tô Mộc nhướn mày, ý nhắc Bang Cơ
nên nếm thử viên mứt sen trong tay. – Không phải nghi ngờ gì đâu. Đồ ở giáo
phường Khán Xuân đều là hàng thượng hạng, so với những nhà quyền quý cũng chẳng
kém là bao.

- Không phải ý đó! – Chàng buột miệng đáp rồi im lặng
ngay khi trông thấy ánh mắt chứa đầy thắc mắc của cô gái nhỏ. Nhưng nàng nhìn
cũng chỉ để mà nhìn, tuyệt nhiên không hỏi gì thêm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3