Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 14 - Phần 2
Một chữ ấy từ miệng Tư Thành làm Hoàng đế sững người. Chàng hẳn nhiên chờ đợi một lời đáp khác dù biết những lời ấy nếu có nói ra đến quá nửa là dối trá. Sự thật bao giờ cũng thật đắng chát, hiển nhiên nên đắng chát.
- Ván cờ này em thua rồi. – Bình Nguyên vương nghiêng đầu, chầm chậm bày lại bàn cờ. – Chúng ta chơi tiếp chứ?
Không một lời đáp.
Chàng vẫn tiếp tục xoay chỉnh những quân cờ, thong thả nói tiếp:
- Em đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện của Hoàng thái hậu với thân mẫu. Đó dù sao cũng là chuyện của người lớn, còn hoàng huynh là hoàng huynh, em là em, chúng ta không nhất thiết phải mang những xích mích của thân mẫu trên vai làm gì. Ngày đó đúng là lệnh bà muốn mẫu thân em phải chết nhưng cuối cùng mẹ con em vẫn đang đối diện anh đấy thôi. Cái gọi là tranh đoạt hậu cung chỉ có một lý lẽ: mình không hại người không có nghĩa người không hại mình. Đúng là vì Hoàng thái hậu muốn bảo vệ anh nên mới dàn xếp ra vụ việc đó nhưng nói thật, em không hận người. Anh không thấy mẫu hậu mình hậu đãi em và thân mẫu lắm sao?
- Những chuyện ấy hoàn toàn có thể là giả. – Bang Cơ cười nhạt, khẽ lắc đầu.
- Thật hay giả không quan trọng. Em chỉ biết mẫu thân mình cầu hai chữ “bình an” thì Hoàng thái hậu đã ban hai chữ “bình an”. Thế là đủ rồi!
Vươn tay xuất quân mã trên bàn cờ, Bang Cơ trầm giọng nói:
- Cứ cho em không hận mẫu hậu của anh. Người em hận là… phụ hoàng?
Ba ngón tay bao quanh quân cờ thoáng run lên. Tư Thành có chút sửng sốt khi đón nhận ánh mắt đen lạnh, thẳng thắn của Hoàng đế. Chàng nhỏ giọng nói, không chút kiêng dè trong nụ cười nửa miệng châm biếm:
- Thần nghe nói những chuyện xảy ra trong Bí thư các là thâm cung bí sử, tuyệt đối không thể lọt được ra ngoài đúng không ạ?
- Đúng vậy! – Bang Cơ xác nhận.
- Thần không hận mẫu hậu của quan gia vì dù lệnh bà có chủ tâm dựng chuyện thế nào đi chăng nữa, vẫn là Thái Tông hoàng đế hạ lệnh xử tội cuối cùng. Người có thể điều tra, người có thể trừng phạt, việc Tiên đế dùng quyền lực của mình ra sao, cả quan gia và thần đều biết rõ. Thế nên chuyện của thần, quan gia không cần bận lòng. Bình Nguyên vương nói nguyện cả đời này làm thần tử của người, làm hoàng đệ của người, thần quyết không hai lời.
Chăm chú lắng nghe những điều Tư Thành nói, cuối cùng Bang Cơ chỉ thở dài:
- Đúng là đã có lúc anh hơi nghi hoặc nhưng cuối cùng, anh luôn tin em… Chỉ là… mà thôi bỏ đi, cũng không sao hết.
Lời nói bỏ lửng ấy của Lê Bang Cơ là điều ở rất sâu trong con người của Lê Tư Thành, được giấu nhẹm sau tầng tầng những điều tốt đẹp, xuất chúng khác. Chàng đã nhìn ra nhưng không phân định nổi chữ “hận” găm chặt khắc sâu ấy cuối cùng là nên hay không nên. Cúi đầu nghiền ngẫm thế cờ, Hoàng đế nói khẽ:
- Dù sao… anh cũng muốn nói: Xin lỗi!
***
Đưa chiếc nón quai thao cho con bé người ở, vị phu nhân nọ cắt đặt phu khiêng đứng dẹp sang một bên lấy lối cho người ta còn ra vào nơi cửa Phật. Cô gái mặc chiếc áo tứ thân màu hồ thủy bên ngoài chiếc yếm trắng xuống khỏi chiếc võng điều, đưa mắt nhìn quang cảnh xung quanh. Đông Kinh với nàng xa lạ quá, đến cả những ngôi chùa tưởng như đâu cũng giống nhau lại mang một dáng vẻ lạ lẫm. Nhang khói vẫn vít hư hư thực thực bao lấy dãy nhà bề thế, mái ngói âm dương xếp đều như vảy cá ngả bóng xuống hàng hiên. Một sắc nâu trầm được điểm thêm những sơn son thếp vàng mờ đi vì hương khói bao năm tạo ra một vẻ thâm nghiêm, u tịch khiến người ta không khỏi thấy lòng lặng đi.
- Lam Ninh, con lại đây! – Người phụ nữ vẫy tay gọi nàng thiếu nữ, dịu dàng chỉnh lại mái tóc được vấn gọn trong khăn nhiễu cũng mang một sắc xanh nhàn nhạt, dặn: – Vào nơi cửa Phật thì tĩnh tâm lại một chút, chuyện gì nghĩ thoáng được thì nghĩ thoáng ra, chuyện gì bỏ qua được thì bỏ qua hiểu không con?
Lam Ninh tủm tỉm cười, gật đầu. Trên đôi má phơn phớt sắc hồng của nàng ẩn hiện một lúm đồng tiền mờ mờ. Người phụ nữ thở dài, nói thêm:
- Ý mẹ là con chớ có gây chuyện với người ta nữa ấy, đừng có đứng đấy cười không!
Nàng gật đầu qua quýt, biết thừa “người ta” mà thân mẫu nhắc đến chính là cô con dâu thứ hai được ông bà nội mình nâng hơn nâng trứng, hứng hơn hứng hoa. Khom lưng đội mâm đồ lễ lên đầu, Lam Ninh rảo bước theo mẹ, mắt chăm chú nhìn những cây trong vườn chùa. Sự việc thực ra chẳng có gì, giờ nghĩ lại, nàng còn thấy có đôi phần hài hước. Ai khiến cô ta được ăn, được nói nhưng không biết điều, đang yên đang lành lại lên giọng giáo huấn nàng. Mới hôm qua, dưới dàn mướp xanh rì tỏa bóng mát xuống một khoảng sân, cô con dâu thứ hai vừa phe phẩy quạt ru đứa con trai thứ ba hãy còn bú mớm của mình ngủ, mới nhác thấy bóng Lam Ninh đi học về đã gọi giật lại. Lúc nàng thấy bóng con ở tên Trinh đứng gần đó đã lờ mờ đoán có sự không lành nhưng thực lòng không nghĩ chị ta lại mang chuyện của nàng và Lương Thế Vinh ra để ton hót. Giao đứa con nhỏ cho Trinh bế ẵm, cô con dâu cong môi đỏ màu trầu thuốc lên, nheo nheo mắt nhìn nàng, bảo:
“Lam Ninh, tiểu thư tuổi cũng không còn nhỏ, chuyện gì làm cũng phải nhìn trước ngó sau, phải nghĩ đến thể diện của phụ mẫu, của ông bà nữa chứ. Nam nữ thụ thụ bất thân, người là tiểu thư cành vàng lá ngọc, ai lại đi giao thiệp với một thằng khố rách áo ôm, nghèo rớt mồng tơi bao giờ? Dù có được tiếng là thần đồng đi chăng nữa, ai biết được nó có định lợi dụng cô để chấm mút gì nhà ta không. Tiểu thư đọc sách không ít, chớ để cho lũ chúng nó được thể đũa mốc đòi chòi mâm son! Cô cũng nên bớt bớt thời gian ra ngoài mà tính đến chuyện hôn nhân đại sự đi cũng là vừa rồi đấy!”
Xem ra cô ta còn muốn nói nhiều nữa nhưng chưa kịp mở miệng đã bị Lam Ninh hắt cả bát nước chè được người ở bưng ra vào mặt. Nghe đâu sau khi nàng quay đầu bỏ đi, cô ả còn tức giận chửi bới ầm ĩ, đến bữa cơm tối còn khóc lóc nỉ non với chồng của mình, rồi thẽ thọt gì đó với ông bà nội. Nàng xưa nay vốn chẳng quan tâm đến mấy chuyện tầm phào, chỉ áy náy vì hành động của nàng mà mẹ bị người ta móc mỉa mà thôi. Nhưng giờ cho chọn lại, Lam Ninh chỉ hận lúc đó không có thau nước ở đấy để hắt cho đã tay.
Nụ cười của cô gái nở ra trên môi nhưng rồi cũng để lại bên ngoài bậu cửa. Sự tĩnh lặng trong tiếng gõ mõ đều đều, trầm trầm làm nàng tự điều chỉnh lại biểu cảm trên gương mặt mình sao cho nghiêm chỉnh nhất. Trong chính điện chật ních những người. Trời đã vào thu nhưng trong một không gian tuy rằng rất rộng rãi nhưng giờ chỉ thấy người là người, hít thở cũng là một công việc xa xỉ. Chẳng là hôm nay chùa Sùng Khánh Báo Thiên[2] – tòa cổ tự đẹp nhất kinh thành – làm lễ hô thần nhập tượng nên thiện nam, tín nữ ở nhiều nơi kéo về chiêm bái, tỏ lòng sùng mộ Phật pháp. Tiếng tụng kinh trầm bổng của các sư thầy cùng các bà vãi mình vận áo nâu, tay lần tràng hạt tạo nên thứ thanh điệu thâm nghiêm bí ẩn. Đặt mâm lễ lên ban, lễ lạt theo đúng phép tắc xong xuôi, Lam Ninh lách người định bước ra ngoài. Bước chân nàng đột nhiên chậm lại, một chân đã bước qua bậu cửa nhưng mắt hãy còn chưa dời. Giữa đám đông, gương mặt nhìn nghiêng đẹp đẽ, thanh tú của thiếu nữ, ánh mắt ngước lên tam bảo thành kính nguyện cầu ấy làm nàng ngẩn ra.
[2] Vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đã cho xây dựng chùa vào năm Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), và cho đúc một quả đại hồng chung nặng 1 vạn 2 ngàn cân ta (tức 7.260 kg) đặt trong chùa. Chùa có Đại Thắng Tư Thiên bảo tháp (tháp Báo Thiên) có tầng trên cùng dát đồng, được xây dựng một năm sau khi chùa được xây xong (theo Wiki). Hiện nay, nhà thờ chính tòa Thánh Giuse của tống giáo phận Hà Nội hay còn được biết đến là nhà thờ Lớn đang tọa lạc trên đất cũ của Sùng Khánh Báo Thiên tự.
- Phu nhân, con xin phép ra ngoài đợi ạ! – Hải Triều cúi xuống nói khẽ vào tai Minh Nguyệt. Nàng vừa mới định quay lưng đi, cổ tay đã bị bà giữ lại, thuận thế, buộc nàng quỳ xuống cạnh mình.
Nhìn người phụ nữ lẩm nhẩm niệm kinh, dáng vẻ của Mai Loan khi xưa cũng bộ áo nâu ấy, cũng tràng hạt ấy, cũng ánh mắt chuyên tâm tĩnh lặng ấy hiện lên, quẩn lấy tâm trí nàng. Khóe miệng Minh Nguyệt hơi nhếch lên, nói khẽ đến độ nếu không phải Hải Triều cúi đầu, chăm chú lắng tai, chắc chắn nàng không thể nghe ra.
- Ngày mai con đến phủ, phu quân ta muốn gặp con.
Hẳn nhiên nàng đợi cuộc gặp mặt ấy, đợi mà không cần quá hy vọng ở kết quả. Nhưng sao nghe thấy những lời ấy của Minh Nguyệt, đột nhiên trong lòng lại dâng lên thứ cảm giác gì không mấy thoải mái. Vần vò vạt áo cánh trong tay, Hải Triều nhìn sang, cười khổ:
- Phu nhân, là lần trước con bày trò để tiếp cận người. Chuyện đến nước này chắc phu nhân đều đã nhìn ra hết. Con… thực sự xin lỗi người!
Người phụ nữ mở mắt, ngỡ ngàng nhìn thiếu nữ đang quỳ cạnh mình. Bà thở dài, miệng hơi mỉm cười rồi bảo:
- Con thực sự rất giống phụ mẫu mình, giống hơn cả con nghĩ kia!
Người ta từ khi nàng còn nhỏ, chỉ cần tiếp xúc qua đã luôn nói Hải Triều rất giống Mai Loan. Chị Đào cũng hay nhéo má nàng bảo rằng, là bẩm sinh đã như vậy hay vì sống với mẹ nên thành ra như vậy. Chuyện ấy đến tận lúc này, có khi đến cả về sau Hải Triều cũng không đáp nổi. Hôm nay, hôm nay là lần đầu tiên có người trên đời nói nàng giống cha, giống Nguyễn Trãi – người chỉ là một hình bóng mờ nhạt hơn cả những giấc mơ trong kí ức. Khẽ lắc đầu, thiếu nữ ngồi xuống bậc cấp, tiện tay nghịch một đóa hoa đại rơi trên sân, không biết nên vui hay nên buồn. Mà vui với buồn nói ra đơn giản quá, vốn chẳng thể gọi tên thứ cảm xúc hỗn độn trong lòng nàng như thế. Tựa lưng vào cây cột gỗ, Hải Triều ngoảnh lại, nhìn vào trong chính điện. In vào đáy mắt đen thăm thẳm là gương mặt từ bi, an nhiên và tựa như đang mỉm cười của đức Phật. Giữa tầng tầng những lớp tượng, pho tượng này nàng biết tên, là Thích Ca niêm hoa.
Gò má hơi nhích lên theo nụ cười trên môi. Điển tích xoay quanh bức tượng đơn giản chỉ có mấy câu như sau: Một hôm, Đức Phật không thuyết pháp bằng lời như mọi ngày mà chỉ giơ lên một cành hoa sen. Chúng tăng không ai hiểu ẩn ý của Người, duy chỉ có Ca Diếp tôn giả là mỉm cười. Thế là Đức Phật cho rằng Ca Diếp đã giác ngộ[3]. Tự nhiên Hải Triều nhớ đến vẻ mặt của Lương Thế Vinh hồi trước khi nàng chau mày, dẩu mỏ hỏi cậu: “Ai dám đảm bảo chắc chắn là Ca Diếp tôn giả đã giác ngộ? Đó chẳng phải là chuyện bí mật giữa tôn giả và Đức Phật mà người ngoài không biết? Nhỡ Tôn giả đang nghĩ đến một chuyện hài hước nào đó rồi tự nhiên mỉm cười, vô tình được Đức Phật cho là đã giác ngộ thì sao?”. Nàng luyên thuyên mãi, đến khi nhìn thấy vẻ mặt ngẩn ra của Thế Vinh thì mới bớt mồm bớt miệng lại, gãi đầu bảo: “Đúng như Đức Khổng Tử nói rồi, nữ nhân nan hóa, nữ nhân nan hóa[4]!”. Câu hỏi ấy người thông minh như Lương Thế Vinh còn vắt óc nghĩ mãi không ra, đứa ngốc như nàng chắc mãn kiếp cũng không hiểu được mất.
[3] Điển tích, giai thoại thiền Niêm hoa vi tiếu, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan mỉm cười. Đạo Phật có rất nhiều chi, phái, Thiền tông Trung Hoa của Tổ Bồ Đề Đạt Ma được truyền vào Việt Nam là một trong số đó. Bên cạnh việc giác ngộ thông qua ngôn từ, giảng đạo, cũng có quan điểm đối lập cho rằng ngôn ngữ làm con người hiểu sai lệch đi bản chất của sự vật, có thể đốn ngộ (giác ngộ nhanh chóng – theo thiền phái Vô Ngôn Thông) mà không cần qua giao tiếp. Ở đây isis hiểu điển tích này cũng như bức tượng Thích Ca niêm hoa là việc Đức Phật dùng thuật tâm truyền tâm giữa mình và Ca Diếp để truyền đạo và biết tôn giả đã giác ngộ.
[4] Nghĩa là: Đàn bà, con gái là loại người khó giáo dục/không thể giáo dục được (theo quan điểm của Khổng Tử).
- Thí chủ đang ngắm tượng Phật sao? – Giọng nói trầm ấm, ôn hòa vang lên giữa khung cảnh tĩnh mịch chỉ có tiếng mõ, tiếng chuông làm Hải Triều giật bắn.
- Ai di đà phật! – Nàng vội đứng dậy, chắp tay cúi chào sư cụ đứng cạnh, chợt nảy ra ý hỏi liền mở lời – Con có điểm này không hiểu lắm, bạch thầy có thể giảng cho con nghe được không ạ?
- Thí chủ cứ nói! – Sư thầy đã già, lông màu đã điểm bạc nhìn nàng chăm chú, xoáy sâu vào đôi mắt đen kia rồi vui vẻ cất lời, kiên nhẫn chờ đợi Hải Triều thuật lại hết những thắc mắc xoay quanh pho tượng Thích Ca niêm hoa ấy rồi mới ôn tồn đáp – Đúng là chuyện giác ngộ là điều chỉ có Đức Thế Tôn và tôn giả Ca Diếp hiểu rõ, chúng ta là người ngoài, nói gì cũng là phỏng đoán cả thôi. Thí chủ cứ thử nghĩ thế này xem sao: khi Đức Phật giơ cành hoa sen lên, nhiều người lại nghĩ xa xôi quá, nghĩ đến những triết lý cao siêu mà quên mất hoa sen chỉ là một cành hoa sen trong hiện thực. Đôi lúc không cần phải phức tạp mọi chuyện trong đời lên, chỉ cần chú tâm để nhận ra những vật có thực trước mắt để trân quý là đủ rồi.
Nhìn vẻ mặt đăm chiêu nhưng rõ ràng là chẳng giác ngộ được mấy nỗi của cô gái trước mặt, sư cụ mỉm cười, khích lệ:
- Thí chủ tuổi còn trẻ, từ từ sẽ ngộ ra, không cần phải vội.
Dẫm chân lên cái bóng của chính mình, Hải Triều chau mày, sau khi cảm thấy bản thân thực sự đã thất bại trong việc hiểu điều nhà sư nói, nàng đi đến chỗ thỏa hiệp, tạm gác mối tơ vò ấy sang bên. Nàng chỉ không ngờ cành hoa sen trên tay Đức Phật hôm nay nàng đinh ninh mình không hiểu nổi, sau này lại là lời đáp cho chính số phận của nàng.
Cánh tay áo đột nhiên bị ai níu lại khiến thiếu nữ thoáng chơi vơi, vội ngoảnh sang. Bốn mắt nhìn nhau, mở lớn, sững sờ. Những tiếng ú ớ thoát ra từ đôi môi người đối diện làm Hải Triều không tin vào cả mắt lẫn tai mình.
- Tiểu thư… Lam… Ninh?
Nàng ngỡ ngàng một thì Lam Ninh ngỡ ngàng mười. Cũng lâu quá rồi, có còn là chuyện hôm qua nữa đâu mà người thì vẫn nhớ. Cô gái xoay tới xoay lui Hải Triều để nhìn cho rõ, miệng không ngớt mỉm cười. Ậm ừ trong họng để nuốt hai chữ “tiểu thư” xuống khi nhìn thấy cái liếc mắt vẻ phật ý của Lam Ninh, nàng nắm hai tay cô gái, hỏi:
- Đằng ấy vẫn ổn chứ? Mình đã trở thành đào nương rồi đấy. Rất ổn!
Hai chữ “đào nương” làm mắt Lam Ninh sáng rực lên, gật gù theo kiểu “mình biết sẽ là như vậy mà”. Một cảm giác ấm áp xưa cũ, bình yên đến nỗi làm Hải Triều ngỡ mình hãy còn ở quê, hãy còn là đứa bé lên sáu, lên bảy ngày trước, vô tư vô lo, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ thấy Mai Loan, sẽ thấy chị Đào ngay cạnh. Định nói thêm đôi câu thì thấy phu nhân Minh Nguyệt đang có ý tìm mình, nàng nuối tiếc mỉm cười với cô tiểu thư trước mặt:
- Giờ mình phải về rồi, hôm nay phải theo hầu phu nhân. Khó khăn như vậy mà còn gặp lại được một lần, sau này nhất định sẽ có lần hai, lần ba nữa.
Giữ tay Hải Triều lại, Lam Ninh vội lần lần quanh dải thắt lưng, rút ra một mảnh vải điều nhỏ đặt vào tay nàng. Ban nãy trùm lên tượng Phật là một tấm vải lớn, lễ xong các sư thầy cắt ra cho mỗi thí chủ dự lễ một mẩu nhỏ gọi là lấy lộc, đây là một vật hết sức tốt lành mà người ta phải tranh nhau mới có được. Khép những ngón tay nàng lại, Lam Ninh mỉm cười nhưng ánh mắt nhìn hàm ý ra lệnh chớ có ý định trả lại. Nhẹ cúi đầu, thiếu nữ ngần ngừ mãi rồi mới mở được lời:
- Thứ gì bạn cho mình cũng đều tốt lành cả. Hôm nay ra phố mình chẳng mang theo gì, để lần sau gặp lại, nhất định sẽ có quà cho Lam Ninh.
Làm bộ như đang thổi sáo, cô gái cười toe khi nghe Hải Triều nói vậy rồi phẩy phẩy tay, có ý bảo: “về nhanh đi kẻo phu nhân đợi!”. Đám đông trong sân chùa Sùng Khánh Báo Thiên tấp nập lại qua, chẳng mấy chốc đã nuốt chửng thân hình nhỏ bé của Lam Ninh vào trong bể người. Siết chặt bàn tay mình quanh mẩu vải nhỏ, Hài Triều cắn nhẹ môi. Nàng chợt nghĩ đến tờ giấy nhăn nheo loang màu mực ghi độc một chữ “Huyên” chính tay Lam Ninh hạ bút viết ngày trước, giờ kẹp trong cuốn sách nàng thường hay đọc.
“Huyên” là cái tên Mai Loan đặt cho nàng.
“Huyên” như Lam Ninh bảo, có nghĩa là ánh sáng mặt trời.
***
Sắc điều của những tấm lụa buông chùng phơi trên những cây sào tre rực rỡ dưới ánh sáng mặt trời, đơn giản thế mà chợt khiến lòng người xốn xang. Hàng Đào đất Kẻ Chợ[5] không lúc nào thôi khoác lên mình thứ sắc màu ấy nên mới lấy đó làm tên phường, đi đâu cũng nức tiếng xa gần. Những tấm lụa tựa hồ như kéo dài, dài ra mãi như nét bút thanh thoát của ai, được gió chốc chốc đùa giỡn, hết nâng lên lại hạ xuống. Mấy cô gái mình vận yếm sồi đưa tay níu mép lụa điều, đong đưa ánh mắt, cất giọng í ơi:
- Gái Đại La trồng dâu nuôi tằm. Chàng bước vào cửa chùa thiếp dệt lụa cho ai?[6]
[5] Tên nôm của thành Thăng Long (Đông Kinh), thường được dùng để chỉ khu Đông của kinh thành (nay là quận Hoàn Kiếm) – tức khu thành thị dân cư (đối lập với thành thị quân vương ở khu Ba Đình ngày này) gồm 36 phường, chủ yếu là các phường nghề.
[6] Câu thoại trong bộ phim Khát vọng Thăng Long – đạo diễn Lưu Trọng Ninh (2010).
Tiếng hát trong trẻo bông đùa ấy cất lên làm chú tiểu tuổi hãy còn trẻ đi gần đó vội cắm cúi đi thẳng, bỏ lại sau lưng những tiếng cười lanh lảnh.
- Đến cả người tu hành các cô cũng không tha phỏng? – Kim Oanh nghiêng người đi dưới mấy tấm lụa được gió thổi bay lên, lừ mắt nhìn mấy cô đào đang che miệng ra cái vẻ thục nữ vô tội – Nhanh cái tay vào nấu nướng, dọn dẹp đi. Người ta mời chúng ta sang đây không phải chỉ để chơi đâu!
Tiếng nói nói cười cười của mấy cô gái vọng đến cả mái thủy đình đã cũ nát bên bờ hồ. Mấy viên ngói đã bay mất, để nắng lọt qua, đọng thành những vệt tròn không ra tròn, vuông không ra vuông trên nền gạch. Tư Thành ngồi khoanh chân trên lan ca gỗ đã bạc màu sơn, tựa lưng vào cây cột. Cái hồ trước mặt tuy không đẹp như hồ Ngọc Liên nhưng cá thì nhiều hơn hẳn, buông câu một lúc mà chàng đã kiếm chác được không ít. Chăm chú nhìn mặt hồ, nhìn những cánh bèo trôi theo gợn nước lăn tăn, chàng thoải mái ngáp dài, rút ra một cuốn sách, lật bừa lấy một trang. Nguyễn Xí giản dị hơn, mình mặc áo cánh nâu, ngồi bệt ngay trên trảng cỏ, thong thả móc con giun hãy còn ngo ngoe vào lưỡi câu rồi vung cần. Nhìn dáng vẻ của cậu thiếu niên, ông chỉ mỉm cười. Người ta dễ nhận ra Bình Nguyên vương Lê Tư Thành là người thông minh xuất chúng – đó là thiên phú. Người ta cũng dễ thấy đứa bé này cái gì cũng biết, biết rất sâu sắc chứ không hề cưỡi ngựa xem hoa hay đánh trống ghi tên lấy mỗi cái danh – đó là do cần cù mà thành. Càng dễ dàng hơn nữa để người ngoài gật gù bảo: “già dặn hơn tuổi thât!” – đó là hoàn cảnh uốn nắn thành ra như vậy. Duy chỉ có sự kiên nhẫn là thứ ông trời không ban cho Tư Thành, cũng là thứ đức tính phải vất vả lắm Nguyễn Xí mới nghĩ ra cách để rèn cho được đứa bé tạm vào khuôn phép. Ngày trước, buông câu chưa được một khắc, chàng đã không ngồi yên nổi, nghĩ ra đủ trò nghịch ngợm để giết thời gian, thậm chí là lấy sỏi ném xuống mặt hồ.
- Thiếu bảo, ngài có hay dẫn các con mình đi câu như thế này không? – Tư Thành chợt cất tiếng hỏi.
- Cũng thỉnh thoảng ạ! – Người đàn ông đáp – Câu cá nhiều khi chỉ là cái cớ để nói chuyện khác. Thần chỉ thất bại trong việc dạy cho Sư Hồi thú vui này thôi. Thằng bé đấy luôn quá nóng vội, rèn thế nào cũng không ăn thua.
- Phụ thân, phụ thân, dây câu của con động rồi! – Đứa bé ngồi cạnh Nguyễn Xí liến thoắng cất lời, nửa mừng rỡ, nửa hồi hộp, tay chân cuống quýt không biết phải làm sao.
Ánh mắt Tư Thành rời khỏi trang sách, dừng lại trên mặt hồ yên ả loang loáng màu trời, ẩn hiện bóng hình cha con Thiếu bảo. Đôi bày tay cầm đao, cầm kiếm đã quen kia hóa ra cũng có thể nhẹ nhàng chỉ đứa nhỏ cách kéo cần, có thể gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu. Có lẽ chàng sẽ còn tiếp tục lặng lẽ nhìn theo như thế nếu không nghe thấy bên tai tiếng mấy thiếu nữ líu ríu ngày một gần. Có vẻ như ngôi nhà gần đấy đang mở tiệc nên đám đàn bà con gái vào ra tấp nấp, mùi xào nấu cũng thơm nức mũi khiến cái dạ dày sôi réo.
- Công tử! – Nguyễn Xí cười cười khi nghe thấy âm thanh đó cùng một thoáng ngượng ngập lướt qua mặt Tư Thành. Ông ngả cơm nắm trong bọc lá chuối ra, cắt lấy một miếng đưa cho cậu thiếu niên tôn quý – Người thử xem. Cũng đến bữa rồi.
Tiếng mấy thanh tre làm thành cái cầu ao chênh vênh kẽo kẹt dưới bước chân người. Tiếng khỏa nước, mùi thơm của thứ hương liệu thường chỉ lẩn vào áo váy của những quý cô đưa đến làm Tư Thành nhất thời hiếu kì mà ngoái lại. Trên cây cầu ao tạm bợ cạnh thủy đình cũ là một cô gái tuổi chắc chắn ít hơn chàng đang khom lưng vo gạo. Dưới tay áo đã bạc màu là cánh tay thon trắng nõn đang xoay xoay rá gạo trắng tinh. Trên cổ, nơi buộc dải yếu, thiếu nữ có đeo thêm một chiếc túi nhỏ bằng gấm màu phấn hồng, mùi hương mà Tư Thành ngửi thấy chính là tỏa ra từ đó. Các cô đào có một thứ gọi là yếm đeo bùa, là chỉ cái túi bùa nhỏ đựng hương liệu giữ bên mình khiến bao người mê sắc, mê hương, mê cả tiếng tơ tiếng trúc mà ngây ngất, chàng từng nghe đồn thế giờ mới được tận mục sở thị lần đầu. Thiếu nữ xóc rá, chăm chú nhặt sạn nên chẳng hề nhận ra có người đang nhìn mình. Đường nét trên nửa gương mặt thanh tú, hài hòa, tuy không rực rỡ, diễm lệ nhưng lại mang một ấn tượng hư ảo, xa xôi. Bước lại gần, tựa tay lên lan can, Tư Thành vui miệng đọc:
- Gạo trắng, nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả.
Những ngón tay chợt ngưng khi tai nghe những lời ấy, Hải Triều ngước mắt nhìn rồi lại quay đầu, chăm chú làm tiếp việc của mình, ngỡ như chỉ mới nghe thấy tiếng ếch nhái đâu đây. Ánh mắt đen lặng nhìn mà tựa hồ như chẳng thấy của nàng khiến Bình Nguyên vương chợt thấy thú vị. Nước nhỏ xuống khi đôi tay nhỏ nhắn vỗ vỗ vào vành rá, Hải Triều ung dung đứng dậy, cắp rá gạo bên hông rồi xoay người bỏ đi. Câu đối trêu ghẹo kia nàng cũng vờ coi như không nghe thấy. Chỉ tiếc rằng đuôi mắt vô tình liếc ngang lại chạm phải nụ cười như có như không trên môi cậu thiếu niên với gương mặt tuấn tú, sáng sủa nhưng có phần tự phụ nọ. Nụ cười ấy không phải của kẻ ghẹo gái không thành. Tựa như chỉ là chàng vào một ngày nắng đẹp thuận miệng ra một vế đối mua vui, người không đáp lại thì cũng coi như lời nói gió bay, chẳng hề vướng bận. Đôi chân trần đạp lên nhành cỏ ngập ngừng. Hải Triều hơi ngoái đầu, đưa tay gạt đi mấy sợi tóc bay lướt qua gò má, lặng lẽ bỏ lại mấy chữ:
- Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho[7].
[7] Theo giai thoại về Lê Thánh Tông. Lời đối của cô gái có ý nhắc làm thân nam tử hãy lo việc lớn, để sức trai mà cứu dân giúp nước.
Đôi mắt Lê Tư Thành mở lớn chứa sự ngạc nhiên thú vị khi nhìn theo bóng lưng cô bé nọ khuất sau những tấm lụa điều, sau những tàu lá chuối xanh mỡ màng.
- Giáo huấn ta sao? Quả là một cô đào đáo để. – Chàng tự nói với mình, gập cây quạt trúc lại.