Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 02 - Phần 1

Chương 2: Mộng

“Nếu là con mẹ con cha

Thì sinh ở đất Diên Hà, Thần Khê.”

- Phu nhân, xin người mặc thêm áo
vào kẻo lạnh. Trời đang đầu xuân, hãy còn chưa hết rét.

Con bé hầu tầm mười tuổi khẽ
khàng lách mình qua cánh cửa gỗ bạc màu khép hờ bước vào trong, trên tay nó cầm
tấm áo dệt bằng sợi thô xù xì trao cho người thiếu phụ mới ngoài hai mươi đang
ngồi bên cửa sổ. Trên tay nàng cầm khung thêu với sợi chỉ màu đỏ son mỏng mảnh.
Con bé không thể không ngẩn ra nhìn người phụ nữ đẹp đẽ, dịu dàng như nắng xuân
ấy, không thể thôi mê mẩn nụ cười đôn hậu nở trên đôi môi hồng dịu ngọt kia. Dù
thiếu phụ ăn mặc chẳng khác gì đàn bà nông thôn chân lấm tay bùn, quanh năm bán
mặt cho đất bán lưng cho trời có thể gặp ở bất kì đâu trong cái làng Đô Kỳ[1] nhỏ
bé này, nhưng từ sâu trong thần thái lại toát ra vẻ thanh cao mà đứa bé gái
chưa từng thấy ở bất kì ai. Người ta vẫn nói “gái một con trông mòn con mắt”,
phải chăng vì lẽ ấy mà gương mặt nàng thêm ngời sáng, đôi gò má chợt ửng màu
hoa đào trong ánh sáng của một ngày xuân trong trẻo, với nắng vàng buông xuống
như tâm rèm mỏng qua mái hiên.

[1] Thuộc đất Diên Hà, Thần Khê, nay
thuộc xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Nàng là Ngô Thị Ngọc Dao.

Không mấy người trong làng biết
rõ người thiếu phụ xinh đẹp, mình hạc xương mai nhường ấy vì lẽ gì qua một đêm
lại có mặt ở vùng thôn dã xa xôi này. Họ chỉ biết cách đây độ ba năm, nàng đột
nhiên đến sinh con ở đây, rồi lưu lại trong trang ấp xây trên đất Đô Kỳ được
hoàng đế ngự ban cho Đình thượng hầu Đinh Liệt sau chiến thắng giặc Minh. Nghe
nói Ngọc Dao là con gái bà Đinh Thị Ngọc Kế[2] hiện
sống trong trang ấp ấy cùng cháu nội của Đình thượng hầu. Thế thì hẳn nhiên quá
rồi, con gái đến kì ở cữ, về nhà mẹ đẻ cũng là chuyện bình thường. Người ta chỉ
thấy lạ vì đã vài năm trôi qua, nàng không về lại nhà chồng, cũng chưa khi nào
thấy chồng nàng hay họ hàng đằng nội đến đất Diên Hà, Thần Khê thăm cháu trai
bao giờ. Nhưng tò mò, thắc mắc cũng chỉ để đấy, dân làng chỉ dám đồn đại nhỏ to
mà thôi vì ai chẳng sợ vạ miệng. Người ta ngầm hiểu với nhau rằng thiếu phụ
sống trong nhà ấy ắt chẳng phải người thường.

[2] Con gái Đinh Lễ, cháu ruột Đinh
Liệt, vợ Thái bảo Ngô Từ, ngoại tổ mẫu của Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông).

Ở chốn thôn quê, chuyện nhỏ có
thể làm ra to, đồn đại đến ba, bốn đời. Chuyện to cũng có thể làm ra nhỏ rồi
thành ra không có gì. Mấy tầng mờ mịt vây quanh Ngô Thị Ngọc Dao xét ra cũng
chỉ có từng ấy, người ta vẫn thích nói về phẩm cách của nàng hơn. Ai cũng bảo
phu nhân Ngọc Dao tuy cốt cách cao quý hơn người nhưng chưa khi nào tỏ ra khinh
bạc người ăn kẻ ở trong nhà, càng không khinh thường người làng. Lúc nào, nàng
cũng mỉm cười ý nhị, nói năng lại dễ nghe, lại gần gũi khiến người ta tự nhiên
thấy thân thiết, thỉnh thoảng có buồng chuối ngon, mẻ tép tươi tiện chân lại
qua cho nàng một ít.

Đứa con trai của Ngọc Dao mới
thật làm người ta không khỏi yêu quý. Cậu bé ấy tên Hạo, mới lên ba nhưng nhanh
nhẹn, thông minh, lễ độ, gặp ai cũng khoanh tay cúi chào, không vì thân phận
mình cũng thuộc chốn thế gia mà làm cao kiêu ngạo. Âu cái đó người ta gọi là
nhìn con biết mẹ, khéo dạy dỗ thì con cái ngoan hiền, tự làm đẹp mặt mình.

- Hạo đâu em? – Nàng ngơi tay
thêu dở bông hoa, ngẩng lên hỏi, trong đôi mắt đen ánh vẻ trìu mến.

- Cậu đang chơi ngoài vườn với
mấy đứa trẻ hàng xóm. Phu nhân có cần con gọi cậu vào không ạ? – Con bé hầu lễ
phép thưa.

- Ta đã nói rồi, em hơn tuổi
thằng bé, cứ gọi Hạo là ‘em’ theo lẽ thường, đừng một hai gọi nó là ‘cậu’ rồi
xưng mình là ‘con’. – Ngọc Dao thở dài một cái, ôn tồn cất lời.

- Phu nhân, con không dám đâu.
Thân phận của cậu như thế… con nào dám… – Con bé lắp bắp, bao nhiêu lần căn dặn
rồi mà phản ứng của nó vẫn y như vậy.

Giơ bàn tay của mình ra cho cô bé
trước mặt nhìn, Ngọc Dao cười nhẹ:

- Gái, em nhìn xem, tay của ta có
khác tay của mẹ em không? Em nhìn Hạo xem nó có khác những đứa trẻ ở đây không?
Chuyện thân phận đó đừng nhắc đến nữa, cứ để gió thổi mây trôi. Ta không muốn
những điều phù hoa đó in vào óc một đứa trẻ mới lên ba. Em cứ coi Hạo như em
trai mình là được.

Con bé tên Gái chỉ dám hơi ngẩng
đầu lên nhìn đôi bàn tay của người thiếu phụ. Bàn tay ấy trước đây trắng ngần,
mịn màng nhưng giờ cũng chai sạn, gầy guộc không khác gì bàn tay của những
người phụ nữ làm ruộng. Bàn tay ấy cũng phải giặt giũ, làm việc canh cửi tằm
tang, trồng trọt vài thức rau trong vườn nhà. Nói là tư dinh của gia đình Đình
thượng hầu nhưng đây cũng không phải chốn có thể ăn trên ngồi trốc, kẻ hầu
người hạ ra vào nườm nượp, sống trên gấm vóc lụa là, mưa không đến mặt nắng
chẳng đến đầu. Gái vẫn nghe mấy gia đinh trong nhà bàn tán với nhau, gọi đây
chính là cái giá của trung thần, của quan thanh liêm. Đấy là còn chưa kể hồi
mùa thu năm ngoái, chẳng hiểu vì lẽ gì mà cả nhà Thái phó Đình thượng hầu Đinh
Liệt tại kinh thành từ trên xuống dưới bị bắt vào ngục.

- Em cứ để Hạo chơi ngoài đó. Đến
bữa dặn thằng bé phải tự rửa tay chân thật sạch mới được ngồi vào mâm. Em chỉ
được múc nước dưới giếng lên hộ nó, tuyệt đối không được làm gì hơn, nhớ chưa?

- Dạ phu nhân! – Con bé gật đầu,
trên môi nở nụ cười bẽn lẽn rồi co chân chạy mất.

Chút ồn áo Gái mang đến trong một
thoáng nhạt đi. Ngọc Dao đưa thêm vài mũi kim rồi ngồi thẫn thờ, tựa người bên
khung cửa sổ. Gió xuân thổi tới vẫn mang theo hơi lạnh nhưng có lẫn mùi nắng,
không còn hanh hao như lúc đông hàn. Đôi lông mày của nàng dãn ra, ánh mắt
phiêu đãng đi đâu rồi chú mục vào đứa bé con trong chiếc áo sợi thô màu đỏ mận
đang khom người trên sân, nhìn con quay bằng gỗ quay tít. Nụ cười tươi trên
môi, gương mặt bầu bĩnh rạng rỡ, ánh mắt đen lay láy của thằng bé cuốn theo
những trò đùa nghịch. Trẻ con vô tư là thế, có biết đâu rằng để có một thoáng
này, trước đó bao nhiêu bão tố đã ập tới, có biết đâu rằng đổi lại một khắc nói
cười, máu đã phải chảy thành sông. Một bên là đứa trẻ chưa rõ tương lai, một
bên là khai quốc công thần cùng ái thiếp uyên bác, là bên nào trọng, bên nào
khinh mà thế sự xoay vần đến vậy?

Buông khung thêu xuống cái rổ đầy
những cuộn chỉ đủ màu xếp ngay ngắn, Ngọc Dao vẫn thấy lòng mình rối như tơ vò
hệt như cái đêm xưa cũ ấy trong cung Khánh Phương.

***

Năm ấy là năm Đại Bảo thứ hai[3], cuối
đông.

[3] Niên hiệu Đại Bảo (1440 – 1442)
dưới thời Lê Thái Tông. Đại Bảo năm thứ 2 tương ứng với năm 1441.

Ánh đèn leo lét run rẩy trong tẩm
cung lạnh lẽo của bà Tiệp dư[4] mang
tội, dám ngang nghiên trước mặt rồng giở tà thuật ám hại Hoàng thái tử Bang Cơ
mới lọt lòng để cầu sủng hạnh. Ngọc Dao còn nhớ mãi sự bàng hoàng đến chết đứng
của nàng khi cái tội trời không dung đất không tha ấy truyền đến cùng án chết
treo lơ lửng trên đầu. Ngọn lửa trong đĩa đầu đặt trên giá đèn chim loan chỉ
còn là một đốm tàn, gần như sắp tắt ngấm. Nàng sao có thể quên được gương mặt
của lễ nghi học sĩ[5] Nguyễn
Thị Lộ vào đêm hôm ấy khi bà cúi người, thong thả khơi bấc đèn, thong thả ngồi
xuống trước mặt nàng dùng bàn tay ấm áp của mình nắm lấy bàn tay run rẩy lạnh
ngắt, trầm giọng nghiêm túc hỏi:

- Tiệp dư, thần hỏi Tiệp dư một
câu, chuyện bùa ngải ấy người có nhúng tay vào hay không?

- Ta không làm! – Nàng đáp ngay,
cuống cuồng như đẩy một thứ ghê tởm đang lăm le bò lên người mình rơi xuống
đất.

[4] Đứng đầu lục chức (sáu chức cung
giai), ở dưới hoàng hậu, tam phi và cửu tần.

[5] Chức nữ quan phong cho người dạy
dỗ các phi tần trong hậu cung thay Hoàng đế, Hoàng hậu.

Chuyện tranh đoạt hậu cung giữa
mấy phi tần đương son trẻ quây xung quanh ông vua đang tuổi thanh niên, tương
lai rộng mở khiến người ngoài không biết ai phải, ai sai, ai mới thực là nạn
nhân hay đó chỉ là kẻ chưa gặp dịp thuận lợi để giở trò. Lòng dạ đàn bà hẹp
hòi, lòng dạ đàn bà chốn thâm cung càng hẹp hòi hơn nữa. Những lời nói ra từ những
đôi môi xinh đẹp nhường kia bao nhiêu phần là thật, bao nhiêu phần là hư để
hòng quanh co chối tội cũng là một ẩn số khiến người ta phải ngờ vực, hoài nghi
như một lẽ đương nhiên phải thế. Vậy mà trong một thoáng, gương mặt Nguyễn Thị
Lộ lại hiện vẻ nhẹ nhõm như trút được gánh nặng trong lòng:

- Thần cũng nghĩ người như Tiệp
dư không thể dám làm cái việc đại nghịch vô đạo đến vậy.

Nụ cười khô héo khó khăn lắm mới
nở được trên môi úa tàn ngay khi Thị Lộ tiếp lời, ánh mắt đau đáu bồn chồn:

- Nhưng thần có nghĩ vậy cũng chỉ
là ý của là mình thần. Vấn đề là quan gia[6] lại
nghe theo lời Nguyễn Thần phi[7], hạ
lệnh xử người bị voi giày.

[6] Từ thời Trần gọi vua là “quan
gia”. Ở đây (bối cảnh thời Lê Sơ) vẫn theo lệ cũ.

[7] Thần phi họ Nguyễn tức Nguyễn Thị
Anh, chức vị Lê Thái Tông sách phong sau khi bà hạ sinh Lê Bang Cơ.

- Không… không thể nào! Đứa bé
chưa ra đời này là con ruột của bệ hạ, người không nỡ… không thể nỡ… – Nàng lắp
bắp, nước mắt đã trào ra khỏi đôi mắt thất thần, lăn dài trên gò má nhợt nhạt.
Ngọc Dao hoảng hốt đưa tay vòng quanh cái bụng dưới lớp vải lụa của mình, lắc
lắc đầu như thể cố chối bỏ những điều mới nghe.

- Quan gia đã nỡ rồi! – Thị Lộ
nhắm mắt thở dài, người phụ nữ đẹp nhường ấy, uyên bác, điềm tĩnh nhường ấy
trong một khắc như già đi – Nhưng xin tiệp dư an lòng, việc bây giờ người có
thể làm là giữ gìn sức khỏe của bản thân và long thai trong bụng. Phu quân của
thần và thần sẽ hết sức giúp người.

- Liệu có thể sao?

Nụ cười ngờ vực hiện trên môi,
giọng nàng chợt nghe sắc lạnh trong đêm tối tựa như đang mỉa mai số phận của
mình.

- Cha giết con, nhất là khi đứa
con ấy chưa chào đời là chuyện không ai có thể dung thứ. Quan gia là người
thông hiểu sách thánh hiền, chắc chắn sẽ nghe ra đạo lý này. – Nguyễn Thị Lộ
hơi vươn người tới trước, nói gấp nhưng từng lời vẫn rất rõ ràng – Tiệp dư từ
khi nhập cung luôn luôn giữ tiết, không có điều tiếng gì. Hơn nữa, dựa vào công
trạng của ông nội người, dựa vào tước Thái bảo của phụ thân người[8] cùng
những năm cùng Thái Tổ Cao hoàng đế[9] nếm
mật nằm gai, thần tin chưa chắc đây đã là bước đường cùng.

[8] Ông nội Ngọc Dao là Ngô Kinh
chuyển cư từ Bắc vào, làm công cho hào trưởng họ Lê ở Lam Sơn. Cha bà là Ngô Từ
theo hầu Lê Lợi từ khi còn nhỏ. Sau này Lê Lợi khởi nghĩa, cha con Ngô Từ hết
lòng lo lương thảo, được tuyên dương công trạng. Khởi nghĩa thành công, Ngô Từ
được phong chức Tả Kim ngô, Thượng tướng quân, tước Thái bảo.

[9] Tức Lê Lợi.

- Phu nhân, ta biết phải cảm ơn
người thế nào cho phải? – Nàng dợm đứng dậy định hành lễ tỏ lòng cảm tạ thì bị
Thị Lộ ngăn lại.

- Tiệp dư chớ nói vậy! – Người
phụ nữ đưa tay ra đỡ hai cánh tay nàng, tà áo màu lam nhạt khẽ bay bay, thoảng
đưa tới mùi giấy mực – Đây là chuyện bề tôi phải làm để giúp hoàng thượng giữ
gìn xã tắc. Còn chuyện cháu gái của tiệp dư, đó cũng là con gái nuôi của thần,
người chớ bận lòng.

Trong ánh sáng của ngọn lửa,
trước khi cáo từ, Nguyễn Thị Lộ có ngoảnh lại. Trên gương mặt điềm đạm, thâm
trầm điểm một nét cười nhẹ khiến lòng Ngọc Dao dịu lại đôi chút. Nàng tin vào
trí tuệ, vào đức hạnh của lễ nghi học sĩ – người xét ra cũng là thầy dạy của
đức vua; càng tin vào tài năng của phu quân người ấy – Hành khiển Nguyễn Trãi,
bậc khai quốc công thần từ thời Thái Tổ, lại đang được đương kim hoàng đế vô
cùng tín nhiệm trong triều. Nhưng dù sao đây cũng là truyện nhà của hoàng
thượng, người ngoài liệu có thể tùy ý can gián? Huống hồ, bệ hạ đang sủng ái
Thần phi họ Nguyễn đến vậy, huống hồ người ấy đã sinh hoàng tử nối dõi cho
người?

Bao nhiêu đêm chong đèn không dám
chợp mắt, bao nhiều ngày tựa cửa bồn chồn, dù Ngọc Dao có cố ăn uống cũng chỉ
thấy mồm miệng nhạt thếch. Cuối cùng, vào một buổi chiều chạng vạng, nữ tỳ
cuống cuồng chạy vào bẩm báo, suýt vấp ngã mấy lần. Gương mặt con bé vì lo lắng
cho chủ nhân hay lo cho thân phận tôi đòi của mình mà cũng gầy đi không ít, giờ
lem nhem nước mắt. Nó thưa, giọng rối rít:

- Tiệp dư… tiệp dư… Lễ nghi học
sĩ đã xin bệ hạ nương tay, thu lại lệnh xử tử mẹ con người, đổi ra… lưu đày.
Hoàng thượng… hoàng thượng chuẩn y rồi ạ.

Lưu đày? Vậy là rời khỏi hoàng
cung? Nàng lúc ấy dường như thấy mắt mình nhòe nước. Người ta nghĩ Ngô Thị Ngọc
Dao không cam tâm rời bỏ lầu son gác tía, không cam tâm chấp nhận số phận mới
được sủng ái tưởng có thể hóa phượng hoàng giờ tan thành tro bụi. Đâu ai biết
được rằng thành quách lâu đài đến bước đường cùng bên bờ sinh – tử đều không
sánh nổi với tính mạng con người, càng không sánh nổi với tính mạng đứa trẻ
chưa ra đời. Đó là suy nghĩ rất bình thường mà sống trong tranh đoạt, nhung lụa
quá lâu, người ta cơ hồ như quên mất. Nguyễn Trãi và ái thiếp Nguyễn Thị Lộ của
mình không những can gián được Hoàng đế, mà còn chu đáo thu xếp đưa Ngọc Dao ra
tạm trú ở chùa Huy Văn. Lễ nghi học sĩ trước mặt nhà vua không thể nói thẳng
chuyện gièm pha tiệp dư họ Ngô dùng bùa ngải là trò tiểu nhân, rất thiếu sức
thuyết phục bởi hoàng thượng và Nguyễn Thần phi hương lửa đương nồng, thêm một
chuyện không bằng bớt một chuyện. Nương theo tội danh gán cho Ngọc Dao, viện
đến công lao của thân phụ nàng, Thị Lộ xin Hoàng đế giam vị Tiệp dư đó ở chùa
Huy Văn, ngày ngày quỳ trước tam bảo ăn năn tội mình, để đến khi sinh con xong
rồi tiếp tục truy cứu.

Hẳn lúc đó ai cũng nghĩ chuyện ấy
chỉ đơn giản là cứu hai mạng người vô tội, đơn giản nghĩ chuyện tranh đoạt hậu
cung đến thế là xong. Tuy không thể diệt cỏ tận gốc nhưng Thần phi Nguyễn Thị
Anh cũng đã có thể kê cao gối ngủ kĩ, yên tâm với thân phận mẹ Hoàng thái tử
của mình. Nhưng dân gian đã có câu, cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Là chủ ý
của Nguyễn Thần phi hay phe cánh, họ hàng nhà bà ta muốn truy cùng đuổi tận vị
Tiệp dư thất sủng mà đến chốn cửa chùa cũng không yên. Ngọc Dao lại lưu lạc ra
An Bang[10] theo
sự xếp đặt của Nguyễn Trãi rồi được Đinh Liệt, Nguyễn Xí cử người đón nàng về
Đô Kỳ khi đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Mảnh đất này lắm lúc nàng cũng tự hỏi
liệu đã là chỗ dừng chân cuối cùng hay chưa? Cuộc đời như sóng nơi cửa bể, hết
lớp này đến lớp khác xô tới hãi hùng, ngoảnh đi ngoảnh lại cũng chỉ bốn, năm
năm mà tựa như dài đến cả một kiếp người, khiến người ta ngẫm lại trong lúc thư
nhàn không khỏi rùng mình sợ hãi.

[10] Tức Quảng Ninh ngày nay

- Mẹ!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3