Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 01

Phần I: Sợi
dây tơ

Một ngàn năm, một vạn năm

Con tằm vẫn kiếp con tằm giăng tơ…

Ai ơi, chín đợi mười chờ

Chờ ai, ai đợi, ai chờ đợi ai?[1]

[1] Trăng khuyết – sáng tác Huy Thục.

Chương 1:
Trăng tàn

Chiếc chõng tre kẽo kẹt trong đêm. Tiếng người ú ớ như
rên rỉ nghe không ra định nói gì, chỉ thấy sự hốt hoảng, sợ hãi lẩn cả vào
trong giấc ngủ. Con bé con giật mình nhỏm dậy, vội nắm lấy cánh tay đang giật
lên từng hồi của người đàn bà nằm sát cạnh, gọi khẽ:

- U, u ơi…

Giọng nói nhỏ nhẹ, bình tĩnh vang lên giữa màn đêm
tịch mịch tựa như đứa bé đã quen với việc này. Nó lấm lét nhìn khoảng không gần
như tối đen trong căn nhà, đến thở mạnh cũng không dám. Tai dỏng lên nghe nhịp
thở đều đặn của những người khác, nghe thấy âm thanh vải áo xột xoạt khi đám
người làm trở mình khẽ khàng.

- Nửa đêm nửa hôm rồi có để cho tao ngủ không hả? – Có
người đàn bà nói sẵng trong cơn ngái ngủ.

Con bé ghét những tiếng làu bàu quở trách đổ lên mẹ
mình, đành rằng ai cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc vất vả, sấp sấp ngửa ngửa
vùi vào giấc ngủ để ngày mai, gà chưa gáy đã phải trở dậy. Bởi, sau những lời
cằn nhằn ấy, họ chắc chắn sẽ nhìn mẹ nó y như nhìn một người điên.

Đôi mắt người đàn bà đang nằm trên chiếc chõng đột
ngột mở lớn. Ánh trăng cuối tháng hắt một vệt sáng nhàn nhạt, tàn tạ vào gần
chỗ mẹ con họ nằm, đủ để bà nhìn thấy những đường nét mờ mờ trên gương mặt đứa
con gái, đủ để nhác trông thấy ánh mắt ấm áp, yên tĩnh của nó. Trong đáy mắt
người đàn bà lóe lên chút ánh sáng không rõ là bình tâm hay yêu mến rồi tắt
ngấm, trả lại một khoảng tối thẫm hệt như không gian xung quanh. Mái tóc xổ ra xõa
xuống vai khi bà ngồi dậy, cứ ngồi thế như một bức tượng thô ráp giữa bóng đêm.
Con bé con thuần thục quay người, bò xuống cuối chiếc chõng, khua tay một cái
đã xách được cái ấm đất lên. Trong ánh trăng nhạt, nó chỉ cần nheo mắt một cái
là thấy cái bát chiết yêu rạn một đường, miệng thì mẻ đặt gần đấy. Rót đầy nước
vào bát, nó lại khom người bò trở lại chỗ mẹ, thì thào:

- U uống đi!

[Chúc các bạn đọc sách vui
vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho
người yêu sách.]

Cái đầu người đàn bà gật xuống một cái tựa như một lời
đáp. Bóng đổ xuống gương mặt cúi gằm làm con bé không rõ mẹ nó đang mang một bộ
dạng thế nào. Mà dường như nó cũng chẳng mấy bận tâm, chỉ ngồi khoanh chân lại,
mắt mở to tròn như đợi được sai bảo. Đặt chiếc bát xuống gầm cái chõng tre, bà
xoa đầu đứa nhỏ, thì thầm:

- Huyên, con nằm xuống ngủ đi. U đi làm việc đã nhé!

Chưa để con bé kịp gật đầu, hơi ấm của mấy đầu ngón
tay mới lướt qua má đã biến mất, để trơ lại một cảm giác mát lạnh của đêm xuân
có gió đông tàn thổi qua. Huyên đặt mình xuống, kéo chiếc chăn rách bằng vải xù
xì lên tận cằm, mắt vẫn mở to, thấy thoang thoáng trước mắt là vạt áo cánh sờn
rách màu nâu non của mẹ. Rồi con bé nghe thấy cái chõng nó đang nằm kêu kẹt một
cái nỉ non rồi thôi không trĩu xuống nữa. Vọng lại là tiếng bước chân rất êm
của người đàn bà bước trên nền đất, là tiếng đẩy cửa. Gió lạnh lùa vào mang
theo hương hoa cau.

Hẳn nhiên, sau đó con bé chẳng còn nghe hay thấy gì
nữa. Nhưng cũng chẳng sao, giờ nó nhắm mắt cũng có thể biết mẹ đang đi đến đâu,
đang làm những gì. Lần nào cũng thế, mỗi khi trở dậy giữa đêm, dù là mùa hạ
nóng bức hay giữa tiết đông hàn, mẹ nó chẳng bao giờ nằm xuống ngủ nữa, lại cặm
cụi, im lặng đi làm việc của mình. Huyên là trẻ con, chẳng hiểu ác mộng là gì mà
ám ảnh người ta đến thế, nhưng con bé biết rõ thói quen của mẹ. Bàn tay sờ sờ
trong bóng tối đặt lên chỗ ban nãy người đàn bà nằm, hơi ấm đã tan, chỉ lưu lại
trên những thanh tre tròn, lưu lại trên chiếc gối mỏng mùi hoa nhài nhàn nhạt.

Bóng đêm là một cái gì quá quen thuộc.

Trong bóng tối hay giữa ban ngày, mẹ cũng hệt như một
cái bóng.

Trong bóng tối chập choạng, có lẽ lần đầu tiên và cũng
là lần cuối cùng bà mang một cảm xúc khác với con người lãnh đạm cố hữu là khi
bàn tay gầy guộc ấy túm chặt lấy bờ vai run lên trong tiếng nức nở của đứa bé
gái, lắc lấy lắc để. Bà ít khi nói gì với Huyên, có nói cũng luôn dùng một ngữ
điệu nhè nhẹ đến mức nhạt nhòa, chỉ duy có lần ấy trong giọng nói thất thanh
chất chứa sự run rẩy, van xin trong cuống cuồng sợ hãi:

“Giờ ai hỏi con tên là gì, phải nói con là Nguyễn Thị
Huyên. Nhớ chưa?”

Mẹ nói con bé là Nguyễn Thị Huyên thì là Nguyễn Thị
Huyên. Nó nào có nhớ chút gì trước cái tên đó, nó từng là một đứa trẻ thế nào.
Làm trẻ con kể cũng có cái hay, nhiều điều trôi qua rồi cũng chẳng cần nhớ, cứ
vô tư vô lo như thế dăm ba năm, để đến khi lớn rồi mới thấy nhớ nhung là cả một
gánh nặng dai dẳng, là cả một sự ám ảnh đến kiệt quệ.

Lăn qua lăn lại trên chõng, mắt Huyên vẫn mở thao láo.
Bặm môi lại sau một hồi suy nghĩ lung lắm, con bé hất chăn, vén chiếc váy rồi
nhón gót bước qua đám người làm đang nằm la liệt trong nhà. Mới đầu xuân, ban
đêm trời chưa hề ấm áp, đặt chân trần lên sàn đất là thấy hơi lạnh luồn lên
rùng cả mình. Khép chặt hai cái áo mỏng trên người, nó lách mình qua khe cửa
hẹp, mặt nhăn lại khi cánh cửa kêu lên rền rĩ. Thói đời là vậy, càng mong nó
kêu khe khẽ thôi thì nó lại càng kêu to. Hình như trong nhà có tiếng lầm bầm
chửi rủa rồi sau đó là tiếng ngáy đều đều.

Mưa xuân thấm ướt mặt sân. Ánh trăng bàng bạc làm hiện
lên trên nền trời đen mượt như nhung những bụi nước li ti. Hơi lạnh làm Huyên
so vai, hắt xì một cái hệt như con mèo. Nó khom người xuống để tránh những con
gió vi vút không mạnh nhưng đủ khiến thân người sau tấm áo mỏng run lên. Len
lén bước xuống thềm, con bé đứng nép sau cây cột gỗ cong queo đã mọt đỡ lấy mái
nhà, nhìn xuống bếp sáng ánh lửa bập bùng. Mái tóc đen dài của mẹ nó được chải
gọn gàng, chưa được vấn lên mà cuộn trong một tấm vải màu đã bạc. Ánh lửa không
làm cả căn bếp sáng tỏ, chỉ hắt ra một khoảng màu cam sậm xung quanh chỗ người
phụ nữ ngồi. Từ khi con bé nhớ được nhiều nhiều một chút, dường như lúc nào mẹ
cũng chỉ mang một vẻ mặt tĩnh lặng tựa mặt nước ao thu, chẳng buồn, chẳng vui,
càng chẳng nghĩ ngợi, càng chẳng bận lòng đến bất kì thứ gì xung quanh. Trong
mắt Huyên, mẹ cũng giống mùa đông, xam xám đến mênh mông bát ngát, nói lưu lại
được ấn tượng gì thì chẳng phải, chỉ có sự giá lạnh, thờ ơ dựng đứng lên như
một bức tường ngăn bà với những người khác xung quanh. Nhưng mẹ Huyên đẹp,
trong số tất cả đám gia nhân trong nhà quan lớn, đến cả mấy bà vợ, mấy cô con
gái còn đương xuân sắc của ông cũng chẳng ai đẹp bằng mẹ nó. Con bé đã nghĩ
thế, càng tin thế khi thấy ánh mắt của những người đàn ông nhìn theo bà mỗi lúc
người phụ nữ ra chợ hay giặt giũ ngoài cầu ao. Nó cứ mãi như người ta, đứng
ngẩn nhìn mẹ từ chỗ xa xa ấy, chẳng dám lại gần.

- Huyên! Mày lại tính ăn vụng đấy hả?

Một bàn tay vỗ bộp lên vai con bé làm nó suýt chút nữa
thì nhảy dựng lên. Ngoái lại, không khó khăn gì để nhận ra đứa bé đang đứng
chống nạnh trên thềm nhà chính là đứa cháu gái của bà quản gia. Con bé đó tầm
sáu, bảy tuổi, tên Trinh, cao hơn Huyên những một cái đầu, giờ đang liếc xuống
bằng ánh mắt khinh bỉ dù cho thân phận nó cũng chẳng cao hơn con bé là mấy. Huyên
ngoác miệng ngáp một cái rồi đáp:

- Không!

Rõ ràng thái độ ấy làm đứa bé kia không vui, tựa như
đang tính kiếm chuyện làm ầm thì nhận được một thái độ rõ ràng là bất hợp tác,
không hề như mong đợi.

- Tao thấy mày tội nghiệp thật đấy. Đã mồ côi thì chớ,
u mày lại bị ma ám, suốt ngày chẳng mở miệng nói câu nào. Mà bà ấy hình như
cũng chẳng quan tâm đến mày lắm thì phải.

- Thế thì sao? – Huyên nghiêng đầu, thản nhiên hỏi
lại.

- Thì… – Trinh định mở miệng tiếp lời nhưng rồi nhận
ra mình chẳng biết nói gì, chẳng biết phải làm gì để con bé trước mắt khóc ầm
lên tức tưởi. Giờ nó mới nhận ra cái đứa bé tên Huyên ấy từ lúc về đây, chưa
từng rơi dù chỉ một giọt nước mắt, lúc nào cũng y như con mẹ nó, giương mắt
nhìn đời bằng vẻ thờ ơ tuyệt đối đến mức như trêu ngươi kẻ khác.

- Đồ điên! – Huyên lầm bầm trong miệng khi nghe thấy
tiếng chân cái Trinh giận dỗi dậm lên sàn đất bình bịch. Nó bắt chước người
khác nói thế, nói xong vội bụm miệng lại, lấm lét nhìn về phía nhà bếp xem mẹ
có nghe thấy không. Bà mà biết nó dám dùng từ như thế, chắc chắn sẽ đè ra tét
cho mấy roi vào mông không chừng.

Quả tình dù làm ra vẻ bất cần nhưng Huyên đói thật.
Không phải phu nhân quan lớn không lo được bữa cơm ra hồn cho đám gia nhân
trong nhà, chỉ tại muốn ăn cơm thì phải làm xong việc. Mẹ nó thì lúc nào cũng
có cả một núi việc đổ xuống. Không phải bà không chăm chỉ, là bà quá chăm chỉ
đến nỗi việc của người khác quẳng toẹt xuống trước mặt đẩy cho bà làm chưa bao
giờ bị từ chối. Thế nên người ta mới bảo mẹ con bé bị thần kinh. Nhìn mâm cơm
toen hoẻn chỉ có cơm thừa canh cặn, nó cũng đã từng hậm hực nhưng rồi cũng
thành quen, ngoan ngoãn cầm đũa lên và gọn ghẽ, không để rơi dù chỉ một hạt.
Huyên thì không tin điều người ta mỉa mai mẹ nó nhưng tại sao bà lại nhẫn nhịn
đến thế thì nó chịu.

Ánh sáng từ bếp lửa hắt ra loang trên nền sân ẩm ướt
thành một màu quái dị. Hoa cau rụng trắng mặt đất. Con bé lại ngẩn ngơ làm công
việc nhìn ngắm của mình, lờ mờ nhớ hình như trước đây nó cũng đã từng làm cái
việc lén lút rình rập này. Huyên không có bố, cũng chưa bao giờ nghĩ có bố thì
sẽ thế nào nên nó chẳng cảm thấy tủi thân hay so bì bản thân mình với những đứa
trẻ khác. Người ta vẫn khen nó nhỏ người, ít tuổi nhưng ngoan ngoãn, hiểu
chuyện. Tất cả chẳng qua là vì nó có buồn, có khóc thì cũng chẳng ai thương
xót, để tâm và nó biết, cũng như cái đêm hôm ấy, nếu nó rơi nước mắt, mẹ sẽ
chẳng biết phải làm thế nào.

Vậy nên từ đó, nó chẳng khóc bao giờ nữa.

***

- Sao? Còn định đứng đấy hả? Lại đây!

Người phụ nữ từ trong bếp nghiêng người trông ra, nhìn
đứa bé một hồi rồi miễn cưỡng vẫy tay gọi. Huyên chỉ chờ có thế để cười toe
toét, chạy vù vào ngồi thu lu cạnh mẹ. Bà thở dài một cái, đưa tay phủi những
bụi nước dính trên mái tóc tơ mềm của đứa bé, cài lại khuy áo cho nó, than:

- U bảo con thế nào? Sao bướng thể hả?

- Con không ngủ được. Hay để con lựa kén tằm cho u
nhé! – Huyên ngước lên, cười toe.

Bàn tay nhỏ nhắn của con bé thoăn thoắt nhặt những cái
kén vàng óng từ cái nong trước mặt xếp ra hai loại khác nhau. Đôi mắt đen láy
giờ mới sáng lên những nét lanh lợi con trẻ. Trên đôi má bầu bầu ửng hồng vì
gió lạnh là lúm đồng tiền mờ mờ khi Huyên nhoẻn miệng cười. Người phụ nữ gom ít
rơm cho vào dưới đáy nồi rồi khơi lửa trong bếp cháy đượm hơn một chút. Lửa tí
tách dưới đáy, lúc nhúc bên trong nồi những cái kén tằm. Ba năm rồi kể từ cái
ngày hôm ấy, cái ngày đáng lẽ người đàn bà phải chết, những ám ảnh vẫn chưa lúc
nào thôi hiện về. Đêm càng tĩnh mịch, mọi thứ càng trở nên sống động.

Ngày ấy…

Trăng sắp tròn nhưng lại ẩn sau mây trời mù mịt.

Tiếng chân người chạy sầm sập trên nền nhà. Tiếng đồ
đạc rơi vỡ. Tiếng người nháo nhác giữa đêm thanh vắng đầu thu. Không cần khuôn
phép, không cần thưa bẩm, bà vú xô cửa bước vào, nửa kéo nửa lôi người đàn bà
trẻ đang trong cơn bàng hoàng đứng dậy, nói không ra hơi:

“Phu nhân, người phải đi thôi. Đại nhân… đại nhân và
bà ba không xong rồi. Quan quân đến bây giờ, người… người phải bế tiểu thư đi
ngay!”

“Ta không đi. Có chết ta cũng phải chết ở đây. Bà lớn
còn ở lại, sao ta dám đi?”

“Giờ không phải lúc nói lý lẽ phải quấy!” – Bà vú
nhanh tay thu dọn ít đồ trang sức chẳng mấy giá trị cùng ít quần áo cho vào tấm
vải rồi buộc lại, bế xốc con bé đang ngủ say bên cạnh người phụ nữ lên – “Bà
lớn nói ai chạy được thì phải chạy. Đám gia nhân trong nhà cũng mỗi người một
phương rồi. Phu nhân, phu nhân còn tiểu thư. Đại nhân cũng chỉ còn có tiểu thư
thôi. Người đành lòng…”

Tiếng đập cửa ruỳnh ruỳnh, tiếng giáo mác, tiếng người
hạch tội, tiếng khóc than thống thiết oan uổng… Những điều ấy người đàn bà chỉ
còn nghe vọng đến mờ ảo từ đằng sau, lẫn giữa tiếng người chạy trốn trong đêm.
Bà không nhớ mình đã đi những đâu, đã đi bao xa trong cái đêm hỗn loạn ấy, chỉ
biết bầu trời ngày đó trăng không thắng nổi mây. Hóa ra càn khôn thực sự rất dễ
chuyển dời. Mới ngày trước là khai quốc công thần, tiếng tăm lừng lẫy, chỉ qua
một đêm đã thoắt trở thành tội nhân thiên cổ, ba họ bị lôi ra đoạn đầu đài.

Giờ ai cười ai, ai khóc ai đây?

Chia tay nhau ở ngã ba sông, bà vú đi hướng ngược lại
để đánh lạc hướng quân lính truy lùng. Bà căn dặn người phụ nữ trẻ vài câu rồi
đưa trả con bé con cho mẹ nó. Hình như bà có ngoái lại, có băn khoăn chẳng yên
lòng khi thấy vị phu nhân hãy còn son trẻ đứng ngây bên bờ sông. Sóng nước mênh
mang, không có lấy một con đò. Đứa bé gái trong lòng cất tiếng khóc như xé rách
khoảng không phẳng lặng, làm lòng người từ chỗ còn ngơ ngẩn không hiểu chuyện
gì mới xảy ra mà như sấm chớp giữa trời quang thành ra rối như tơ vò. Quê ngoại
giờ không thể về, họ hàng giờ không thể nhờ cậy. Là họ chẳng mặn mà gì để đang
yên đang lành lại tự mua dây buộc mình; là bản thân cũng không nỡ lôi họ vào
vòng lao lý. Trước mắt chỉ thấy một vùng vô định. Cuối cùng, không biết là đúng
hay sai, là khôn hay dại, người phụ nữ bế đứa bé mới hơn một tuổi nhập vào đám
người bị bắt sung vào làm nô tì trong các dinh quan.

Ngày rằm tháng tám, khi người ta đoàn viên lại là ngày
li tán, lúc người ta cười cười nói nói, mình lại không biết phải khóc thế nào.

Trăng mười sáu chưa hề khuyết thiếu, cứ tròn, cứ đẹp.
Nhưng trăng đã chết theo người vào ngày hôm ấy, mãi mãi chẳng thể tròn đầy.

Cuộc đời lúc trước chưa từng bắt đầu, cuộc đời lúc sau
hẳn nhiên chẳng có. Người đàn bà vẫn nghĩ mình sống đến cái ngày mình cần phải
chết, thực hiện cái điều đã được hoãn lại mà thực lòng, chưa lúc nào bà mong
mọi chuyện xảy như vậy. Tâm trạng của kẻ đã chuẩn bị để chết giờ lại phải sống
thực sự rất mông lung, vô định, nhạt nhòa như sương sớm.

Đôi tay kéo những sợi tơ óng ả mỏng manh lên từ nồi
nước sôi, người phụ nữ thuần thục, khéo léo nhưng chẳng mấy để tâm. Ánh mắt
thẫn thờ của người trượt trên sợi tơ đung đưa trong gió, ẩn sau lớp khói mỏng
tỏa ra từ miệng nồi nước sủi lăm tăm. Âm thanh của tiếng lá cây quệt vào bờ
tường, tiếng gió luồn qua ô cửa sổ trổ trên vách đất, ánh trăng tàn tạ dường
như đều không thật, đều không chạm nổi đến tâm tư người. Thế mà, đôi đũa tre
đột nhiên rời khỏi tay kêu “cạch” một cái rồi lăn tròn khiến con bé ngưng ngân
nga, giật mình nhìn lên.

- U cần con giúp gì không? – Huyên chùi cây đũa vào
cái áo của mình rồi đưa cho mẹ, hỏi.

Người phụ nữ lắc đầu, đăm đăm nhìn con bé lại khom
người đến mức cái cằm nó tì lên đầu gối. Từ đôi môi xinh xinh vang lên âm thanh
tươi vui của một khúc nhạc từ ngày xưa cũ, khúc nhạc mà giờ đến cả trong mơ
người đàn bà cũng chẳng còn được nghe thấy. Những âm thanh ấy hòa cùng tiếng
lép bép trong bếp lửa khiến lòng người quặn thắt nhưng chẳng có nước mắt để
trào ra. Vén sợi tóc vào mang tai cho Huyên, định bảo con bé quay lên nhà ngủ
thêm một chút thì người đàn bà đã thấy có người chạy vào, mặt mừng rỡ thấy rõ:

- Chị Phùng, chị lên nhà trên ngay đi. Cháu bà lớn cứ
khóc ngằn ngặt không ai dỗ được. Bà bảo tôi gọi chị lên ru cậu ngủ. Nồi kén chị
cứ để đó, tôi bảo cái Đào làm nốt.

Buông cây đũa xuống, người đàn bà tất tả đi ngay không
để người ta nhắc đến lần thứ hai. Ra đến cửa, ngoái lại một cái, môi Phùng mấp
máy:

- Ha… Huyên, con làm xong thì đi ngủ nghe chưa? Đừng ở
đây làm vướng tay vướng chân chị Đào.

Những chuyện ngày trước không phải một giấc mộng đẹp
đến mức khi tan vỡ thì làm người ta không chấp nhận nổi, cứ đắm chìm mãi trong
hoài thương vô vọng. Cái gì vỡ rồi thì thôi, bát nước đã hắt đi thì sao gom lại
được cho đầy. Đạo lý này Phùng rất hiểu. Nhìn cái bóng nhỏ bé của đứa con gái
in trên nền sân, lòng người phụ nữ thầm gọi cái tên mà bản thân đã đào sâu chôn
chặt nhưng thực tình chưa khi nào thôi níu kéo, cái tên chính con bé không hề
biết rằng nó có.

Là Hải Triều, Hải Triều…

Vào mùa xuân năm ấy, mùa xuân
tươi đẹp duy nhất nở được thành hoa trong đời người, mùa xuân một năm trước cái
ngày định mệnh oan nghiệt rơi thẳng xuống nhà…

Hoa nở ngoài song. Gió động rèm
trúc lướt qua bóng người.

“Nàng xem, có con gái không phải
quá tốt sao?”

“Đó chỉ là một đứa bé gái. So với
các công tử thì…” – Có tiếng phụ nữ đáp lại khiêm nhường.

“Con trai là con trai, con gái là
con gái. Ta đã rất mong cô bé này ra đời. Có nếp có tẻ mới là viên mãn. Nàng
muốn đặt tên con là gì?”

Người đã cười, nụ cười giống như
ngày họ gặp nhau, lúc người phụ nữ hãy còn son trẻ, hãy còn ăm ắp mộng tưởng
của tuổi xuân xanh.

“Thiếp ít chữ, mọi chuyện xin cứ
theo ý đại nhân.”

“Vậy gọi con bé là Hải Triều đi,
là Nguyễn Hải Triều.”

“Hải Triều? Cái tên này đặt cho
con gái… không phải hơi lạ sao?”

“Con gái của ta nhất định không
phải một nữ nhân bình thường, đúng không Hải Triều?”

Xuất chúng, hiển hách ư? Với con
bé mà nói, giờ chỉ cần sống bình an đến đầu bạc răng long cũng đã là ông trời
hậu đãi lắm rồi.

Hải Triều vươn người một cái,
nhìn cái nong sạch bách trước mặt, không khỏi cảm thấy tự mãn. Mấy ngón chân
con bé ngọ nguậy nghịch những sợi rơm vàng rơi đầy trên sàn bếp. Mùi của ruộng
đồng, mùi của mắm muối tương cà, mùi khen khét của khói lửa rơm quyện lại thành
thứ mùi vị quen thuộc, gần gũi. Lắc lắc mấy sợi tóc tơ, đôi mắt đen tròn nhìn
ra ngoài ô cửa bé xíu. Trên nền trời là mảnh trăng tàn cong cong như nét bút
mảnh ai vẽ lên, ngỡ chỉ một cái xoa tay sẽ biến mất ngay không để lại dấu vết.

- Em đang hát cái gì nghe hay
vậy? – Đào gõ đôi đũa lên miệng nồi, tay thoăn thoắt kéo tơ, chân nhịp nhịp
theo điệu nhạc vang lên từ miệng con bé ngồi cạnh.

- Em không biết! – Nó nhún vai.

- Không biết sao hát được chứ?

- Em không biết thật mà.

Điều này con bé nói thật. Nó
chẳng hiểu sao mình lại có thể nhớ rành rọt giai điệu lạ lùng ấy đến thế, thỉnh
thoảng lại ư ử ngâm nga một mình. Hai tuổi – cái thế giới lúc trước, kí ức chỉ
còn từng ấy. Bản nhạc in hằn trong trí nhớ của Hải Triều rất hay, tươi vui, rộn
ràng mà quyến luyến không rời, khi trầm, khi bổng tựa đôi bướm trắng dập dìu
trong nắng xuân. Con bé còn nhớ thế, nhớ đến chết cái ấn tượng đẹp đẽ thuở xưa,
lúc nó nép mình sau cánh cửa bức bàn, ghé mắt trông vào. Thế giới sau cánh cửa
ấy là âm thanh, là hình bóng mờ mờ hư ảo của cha. Cha trong mắt Hải Triều chỉ
vỏn vẹn có thế nên tự nhiên thành một điều gì đó xa xôi mà lớn lao. Ông trong
hồi ức ấy thổi sáo rất hay, diễn tấu bản nhạc đó về sau không người sánh kịp.
Có điều, cha không chơi khúc nhạc ấy cùng với mẹ nó mà với một người đàn bà
khác.

Thứ âm thanh của tiếng tơ, tiếng
trúc từ cái ngày xa xôi ấy quẩn lấy người, trở thành thứ định mệnh đến chết
cũng không buông. Nếu như con bé ngày ấy biết rõ thứ sẽ đợi mình dằng dặc điệp
trùng trước mắt, liệu nó có chọn điều gì khác không? Hải Triều an nhiên tựa đầu
lên đầu gối, miệng vẫn ngân nga những âm thanh trong trẻo từ từ nhỏ dần, nhỏ
dần lại khi mi mắt con bé trĩu xuống trong giấc ngủ mơ màng.

Vang lên bên tai là tiếng mưa
trên mái rạ tỏa mùi ngai ngái lẫn cũng khói bếp, là tiếng nước nhỏ xuống nắp
chum sành tinh tang, tinh tang…

***

- Phiền cháu quá, hôm qua phải
luộc kén giúp cô, lại còn phải bế con bé Huyên về phòng – Người đàn bà lấy ống
tay áo chùi giọt mồ hôi lăn trên làn da lạnh ngắt bị phơi ra dưới gió xuân còn
vương giá rét, quay sang cô gái bên cạnh cười khẽ.

- Chẳng có gì đâu cô!

Đào cười tươi, khom lưng quẳng
gầu nước xuống giếng rồi hì hục kéo lên. Trong nhà, chỉ có cô gái quá lứa lỡ thì
này là đối xử tốt nhất với Phùng. Cơm của người làm bao giờ Đào cũng lén cất đi
để mẹ con họ xong việc có cái bỏ bụng. Những lúc người đàn bà phải đi bế ẵm
cháu chắt nhà quan, cô bất đắc dĩ phải trông Huyên nhưng chưa từng nửa câu than
thở. Trong lòng, cô gái thầm thương hại mẹ con nhà đó, chồng không có, lại gặp
phải lúc nhà chủ trước vì gia biến mà lưu lạc đến tận đây. Nhiều người thắc mắc
việc tại sao người đàn bà ấy không nói tên mình cho người khác biết, chỉ xưng
là Phùng Thị, lâu dần người ta gọi gọn lại là “chị Phùng”, còn Đào thì chẳng
mấy quan tâm. Cô vẫn nghĩ trên đời có những việc không phải lúc nào cũng bô bô
đi nói với người khác được, ví thử như chuyện cô kiên quyết ở giá không chịu
lấy chồng, an phận với kiếp con ở chẳng hạn.

Nhìn cái dáng thơ thẩn chơi cạnh
cầu ao của đứa bé gái, Đào bất giác mỉm cười nhưng người phụ nữ bên cạnh thì
làm như không trông thấy, cứ lách cách rửa hết chiếc bát sứ này đến chiếc bát
sứ khác. Con bé Huyên rất ngoan, người bé tí, mới bốn tuổi ranh nhưng bảo gì
cũng làm, làm cái gì cũng tốt, lại chẳng đòi hỏi, kèn cựa với đám trẻ khác bao
giờ. Mỗi tội nó rất kiệm lời y như Phùng vậy. Đến cả thân thiết với Đào là thế
mà chưa lúc nào con bé tỏ ra luyên thuyên, hỏi không ngớt như những đứa trẻ lên
bốn khác. Cái vẻ lặng im làm không ai dò ra trong lòng Huyên thực nghĩ gì. Mà
kể cả trẻ con chẳng bao giờ suy tư cũng hiếm đứa nào trầm lặng đến thế.

- Này, hồi đầu tuần Hoàng thái
hậu vừa xử chết một kẻ có họ hàng với Nguyễn Trãi đấy. Thấy bảo kẻ đó chạy
thoát khỏi đợt truy bắt hồi ba năm trước nhưng vẫn bị lần ra – Mấy chị người
làm thấp giọng tỉ tê với nhau, ngơi tay giặt đồ.

- Nghe ở đâu đấy? – Có người hỏi
lại.

- Thấy thằng Lãnh đi với quan
ngài từ kinh sư về kể vậy. Nó nói Hoàng thái hậu dụ rằng đó là nòi nhà quân
phản nghịch, không thể dung thứ rồi xuống tay giết rất thảm thương để thị
chúng.

Cái bát men xanh tuột xuống khỏi
tay, chìm trong chậu nước. Bàn tay lạnh cóng của Phùng run lên, suýt chút nữa
hất cái rá làm rơi cả tất cả bát đĩa xuống sân. Ai cũng biết người đàn bà tên
Phùng từng là nô tì trong phủ của Nguyễn Trãi nên trông thấy dáng điệu bàng
hoàng, sợ hãi đó chẳng lấy làm ngạc nhiên.

Đấy là câu chuyện vào mùa xuân
đầu năm Thái Hòa thứ ba[2].

[2] Thái Hòa là niên hiệu từ năm 1443
đến 1453 của triều đại vua Lê Nhân Tông. Năm Thái Hòa thứ ba tương ứng với năm
1445.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3