Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 24 - Phần 2

Mặc dù vẫn thấy đau khổ vì bị McCracken lăng mạ và lão Curtain đối xử lạnh lùng, S. Q. chỉ vừa quay lại bắt tay vào việc thì ngài Benedict bắt chuyện với gã. Không ai thấy ngài Benedict tỉnh dậy lúc nào, và bây giờ ông đang nói bằng âm giọng chậm chạp, vẻ ngái ngủ, như thể có lẽ ông vẫn chưa hoàn toàn tỉnh ngủ.

“S. Q.” ngài Benedict gọi với giọng nói như ru ngủ, lạ lẫm, “Ta biết cậu có việc phải làm, nhưng nếu cậu có thể dành chỉ giây lát thôi, mấy cái còng tay lại cọ xát vào ta quá.”

S. Q. quay sang ngài Benedict với ánh nhìn sợ hãi. “Ôi không, ngài Benedict, ngài không nên nói chuyện! Ngài không nhận ra là giờ tôi phải báo cáo cho ngài Curtain về ngài ư? Đó là mệnh lệnh trực tiếp, ngài biết mà! Ngài sẽ bị trừng phạt đấy!”

Ngài Benedict vẫn điềm tĩnh nhìn S. Q. “Ta biết thế, S. Q.” ông đáp, vẫn với giọng nói chầm chậm, ngái ngủ, “mà thế cũng đúng thôi. Cậu vẫn phải làm việc cần làm, anh bạn ạ. Ta thấy ở cậu không có chút mảy may yếu mềm nào.”

Rõ ràng được an ủi rất nhiều, S. Q. mỉm cười, rồi có nín nhịn ngáp.

“Thế nhưng,” ngài Benedict nói tiếp, “những chiếc còng tay cứ chà xát vào cổ tay ta quá thể. Chúng cứ thế mãi thôi.”

S. Q. nhìn ông chăm chú, không phải đang do dự, cũng không phải đang nghi ngờ, chỉ là như thể mất kha khá thời gian để những lời lẽ của ngài Benedict mới thâm nhập vào não hắn. Bọn trẻ con, vẫn còn ngơ ngác, không nói năng gì. Chúng thậm chí còn không dám thở. Chúng có thể nhận thấy ngài Benedict đang sắp đạt tới điều gì đó mặc dù S. Q. không thể nhận ra. S. Q. lại ngáp nhưng vẫn không rời mắt khỏi ngài Benedict.

“Cậu đang mệt lắm rồi, phải không S. Q.?” ngài Benedict hỏi.

S. Q. vẫn nhìn ông. Sau một lát, gã gật đầu vẻ ngốc nghếch. “Tôi thực sự mệt,” gã lí nhí.

“Ta biết cậu mà, anh bạn,” ngài Benedict nói tiếp. “Và tôi cũng thế. Cậu nên ngồi xuống cạnh tôi một lát và nghỉ ngơi đi. Nhưng trước tiên, hãy làm ơn cởi khóa chiếc còng tay, giống như cậu từng rất tử tế làm trước kia. Tôi những muốn được xoa xoa tay cho có cảm giác ở cổ tay mình.”

Và rồi, trước sự kinh ngạc vô cùng của bọn trẻ, S. Q. Pedalian bước lại gần ngài Benedict và mở khóa còng tay. Thoạt đầu, ngài Benedict không hề cử động, ông chỉ nói cảm ơn S. Q. và xoa xoa cổ tay với vẻ biết ơn. Rồi ông vỗ vỗ xuống mặt đất bên cạnh ông.

“Hãy ngồi nghỉ một lát,” ngài Benedict nói.

“Chỉ một lát thôi đấy,” giọng S. Q. đều đều, mi mắt nặng trĩu, vai chùng xuống. Gã ngồi cạnh ngài Benedict và dựa lưng lên măng đá.

“Cậu sẽ cảm thấy chiếc kẹp này thế nào,” ngài Benedict thật thong thả như thể chỉ đặt cái khuy lên cổ tay áo S. Q. ông trượt chiếc còng tay vào cổ tay S. Q. (bọn trẻ vẫn bị còng vào sợi dây xích) và sập nó vào. “Đấy, có khó chịu không?”

“Nó khá gượng gạo,” S. Q. thì thào, cau mày khó chịu. “Ý tôi là chật chội. Ý tôi là...” Gã kéo dài giọng, nói năng luống cuống.

“Chúng ta nên cởi trói cho chúng,” ngài Benedict nói tiếp. “Hãy đưa chìa khóa cho ta.”

S. Q. đưa ngài Benedict chìa khóa.

Cúi người về phía trước để che mắt S. Q. ngài Benedict tuồn chìa khóa cho Kate, cô bé nhoắng cái tự mở khóa cho mình và các bạn. Rồi ngài Benedict lôi bọn trẻ tránh xa măng đá, còn S. Q. vẫn bị còng tay vào xích sắt. S. Q. nháy mắt lia lịa, như thế sắp tỉnh ngủ. Gã nhìn bọn trẻ, rồi nhìn ngài Benedict, hoàn toàn mù mờ.

“Ta xin lỗi nhé, S. Q.” ngài Benedict nhẹ nhàng nói. “Phần nào trong cậu phải hiểu ta thành thật xin lỗi.”

S. Q. lắc đầu mạnh như thể để cho tình táo. Mặt gã tối sầm lại, môi run lên. “Nhưng... ngài đã không thành thật! Ngài không thể nói dối tôi được!”

“Ta chưa từng nói dối,” ngài Benedict đáp.

S. Q. choáng váng. “Nhưng những lần khác nữa - ngài chẳng bao giờ cố gắng làm gì cả. Ngài đã hứa ngài sẽ không làm thế! Tôi thậm chí đã cho ngài một giọt hóa chất Sự Thật để chắc chắn nữa!”

“Đúng, ta đã hứa hẹn khá nhiều lần đó, S. Q. ạ. Nhưng ta không hứa sẽ thả cậu ra - ta đã, chỉ nói rằng chúng ta nên mở khóa tay của cậu ra. Thế là chúng ta làm. Ở một nơi tử tế hơn, trong thời khắc tốt đẹp hơn, ta hẳn rất vui mừng được giải thoát cho cậu. Và ta hy vọng sẽ gặp lại cậu ở một nơi như thế, vào thời khắc như thế. Cậu có một tâm hồn sáng rạng, S. Q. ạ. Và ta cực kì xin lỗi vì phải để cậu lại trong tình thế khó xử này, nhưng ta phải để cậu lại. Ngài Benedict quay đi vô cùng đau khổ. “Đi nào các cháu, chúng ta phải khẩn trương lên.”

Kate nhấc bổng Constance lên lưng, và cùng các tù nhân vừa được giải thoát vội vã bước dọc hành lang. Sau lưng họ, S. Q. ngồi đó, mặt mày càng ngày càng tối sầm lại, mắt gã nhìn quanh nhìn quẩn như thể hồi tưởng lại những điều ngài Benedict vừa nói. Gã vẫn đang cố gắng không tin vào những điều vừa xảy ra.

“Ngài đã thôi miên hắn ạ?” Constance hỏi khi họ vội vã đi trong hành lang.

“Đại khái thế,” ngài Benedict đáp giọng nghiêm nghị, “mặc dầu thô lỗ hơn. Chỉ cần thuyết phục cậu ta là được bởi vì cậu ấy tin rằng ta sẽ không phản bội lại lòng tốt của cậu ấy. Ta vừa đánh một đòn tâm lý khủng khiếp vào phần tốt đẹp nhất của S. Q. Pedalian rồi, các cháu ạ. Chúng ta phải hy vọng cậu ấy tĩnh tâm lại.” Ngài Benedict chạm vào vai Reynie. “Ta hy vọng cháu không từ bỏ những người như S. Q. trên thế giới này, Reynie ạ. Cháu thấy đấy, có rất nhiều chú cừu khoác bộ dạng của chó sói. Nếu không nhờ vào bản chất tốt đẹp của S. Q. thì chúng ta chẳng bao giờ thoát ra được.”

Họ đã tiến tới lối ra ở cửa hang, ở đó, họ nghe thấy âm thanh kì quái rền rĩ - trời đã bình minh, và cơn gió ban ngày trên đảo đã nổi lên - và Reynie mới kịp nhận ra họ vẫn chưa trốn thoát hẳn khi tiếng gió rền rĩ dội vào vách hang sau lưng họ rồi vọng ra tiếng rít bi ai. S. Q. cuối cùng đã nhận ra hiện thực. Trong cơn giận dữ thịnh nộ, gã gào thét sau lưng họ, “Ngươi đúng như ngài Curtain đã nói! Ta đã tin tưởng ngươi, Benedict kia! Ta đã tin ngươi! Ta đáng lẽ phải biết sớm hơn! Ta đáng lẽ phải biết!”

Đứng ở cửa hang, ngài Benedict dừng chân, ngoái đầu nhìn lại. Có lẽ là vì kiệt sức, hoặc có lẽ là vì ông là người trực tiếp gây ra nỗi khổ sở mà S. Q. đang phải chịu đựng, nên nét mặt ông sầu thảm đến mức chưa đứa nào từng bắt gặp cả.

“Giá mà...” ông định nói, nhưng lại không nói hết ra suy nghĩ của mình, vì lúc đó, ông lại ngủ gục.

***

Sticky đã tránh cho ngài Benedict một cú đập vào đầu khi đang đứng thì ngã nhoài ra. Vì chính Sticky là người lĩnh giúp cú va đập đó, trán cậu bé va xuống mặt đất tím bầm khi ngã lăn ra, còn ngài Benedict đè lên trên. Đứng dậy được, cậu nhẹ nhàng lăn ngài Benedict lên lưng mình, rồi chỉnh kính cho ông già đang ngủ thiếp trước khi tự chỉnh lại kính của mình. Cậu lắc cánh tay ngài Benedict và gọi. “Dậy đi, ngài Benedict! Dậy đi!”

Tiếng S. Q. gào thét dừng lại đột ngột như lúc bắt đầu, và âm thanh duy nhất vang lên bây giờ là tiếng gió gào rít và tiếng Sticky khẩn nài gọi khi đám bạn nhìn lên lo lắng. Lão Curtain và McCracken vừa đi không bao lâu. Nếu chúng quên cái gì và quay lại... Reynie liếc nhìn lo âu vào trong hang. Bình minh đã ló rạng, nhưng chưa có ánh mặt trời. Những đám mây xám xịt vẫn lảng vảng bao quanh núi, và - quả như Constance đã tiên đoán - màn sương xám phủ mờ mọi thứ, cuộn xoáy trong gió như khói tỏa.

“Ông vẫn chưa tỉnh dậy,” Sticky vừa nói vừa vỗ nhẹ vào má ngài Benedict.

“Ôi chao,” Constance thốt lên. “Chuyện này xảy ra khi ông thực sự mệt mỏi quá. Đôi khi bọn em chẳng thể đánh thức ông dậy trong vài tiếng đồng hồ.”

“Chà, ông giờ chắc chắn đang kiệt sức lắm đấy,” Sticky nói và quay sang nhìn Reynie. “Không tốt tẹo nào.”

“Để xem ta có thể làm một cái cáng được không,” Reynie gợi ý. “Chúng ta không thể cứ chờ với đợi được. Chúng ta cần phải tới kịp khu rừng ven vịnh.”

“Thế còn Số Hai thì sao?” Kate phản đối.

“Cơ hội tốt nhất chúng ta có để giúp cô ấy là đi được tới cánh rừng. Như cậu nói đấy, đó là nơi Milligan muốn chúng ta tới, thế thì chúng ta sẽ tìm ông ở đấy. Nếu ông không ở đó, thì có thể bạn bè của ông tới, chúng ta có thể nhờ họ giúp chúng ta. Nhưng sẽ không có một cơ hội nào thực hiện được thế nếu chúng ta bị tóm. Chúng ta phải đi thôi!”

Đi, dĩ nhiên là một từ có sức lôi cuốn tự nhiên rất lớn đối với Kate, và ngay lập tức cô thuần phục theo viễn cảnh Reynie vẽ ra. Tuy nhiên, cô bé lo ngại liệu tụi con trai có thể xoay xở với một cái cáng trong suốt hành trình ra vịnh không, cho dù có thay đổi chỗ, vẫn còn cả Constance nữa. “Thứ ta cần phải là một chiếc xe trượt. Chúng ta có thể kéo cả ngài Benedict và Constance cùng lúc. Tớ sẽ quay lại ngay!” Rồi cô lao vụt vào hành lang dẫn vào hang.

Bọn trẻ còn lại vẫn đang cố đánh thức ngài Benedict khi Kate quay lại. Cô kéo theo chiếc bàn vốn phủ kín các thiết bị và dụng cụ. Với trợ giúp của các dụng cụ, chiếc xô và con dao găm (mà lão Curtain đã quẳng lại trên bàn), cô chặt những chiếc chân bàn rồi buộc chúng theo chiều dọc để biến nó thành một ván trượt thô thiển. Cô cũng gỡ lấy một đống dây điện từ một vài cái đèn pha, rồi buộc và kẹp chặt chúng lại để kéo tấm ván trượt. Đó là thứ đồ tự chế khá kì cục, nhưng tốc độ lắp ráp của Kate thì xuất sắc tuyệt vời.

“Tớ những muốn mang theo chỗ muối ngửi,” Kate vừa nói, vừa nhìn sang ngài Benedict vẫn đang thiêm thiếp ngủ, “nhưng S. Q., lại giữ trong túi áo và tớ nghĩ tốt là không nên lại gần chỗ gã. Gã đã nhìn mình như muốn vặn nghéo cổ mình ra vậy.”

Chúng nâng ngài Benedict đặt lên xe trượt, rồi Constance trèo lên và ôm chặt lấy ông, trong khi mấy đứa trẻ tóm lấy chỗ dây và giật mạnh để thử. Chiếc ván trượt kim loại tạo ra tiếng chà xát kinh khùng, âm thanh ken két nghiến vào đá, nhưng khi Kate và tụi con trai kéo đi, chiếc ván trượt lướt khá nhanh.

Kate nói vẻ thỏa mãn, “Tớ sẽ cần tìm con đường nào đi xuống dễ dàng nhất,” rồi cô bé vội vã trèo lên đỉnh núi phía trên hang, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá kia cứ như đích thực dê núi sống trên đảo này vậy. Chẳng mất nhiều thời gian, cô đứng cao tít phía trên, lướt qua suốt dọc đường viền phía đông của hòn đảo bằng chiếc kính viễn vọng của mình. Cô bé nhanh chóng xác định được con đường tốt nhất: Trước tiên là một đoạn dốc ngắn phía tây bắc đi tới lối mòn cho dê núi rất dễ thấy sẽ dẫn tới hầu hết các con đường xuống núi, rồi cắt xiên sang một đoạn dốc dài rải sỏi, và cuối cùng băng qua một bãi đá đen để tới khu rừng bên vịnh, nếu nhìn từ đây chỉ thấy bóng tối tăm khắp lượt phủ màu xám xịt. Kate tìm kiếm dấu hiệu của Milligan nhưng không thấy gì. Khu rừng, bãi vịnh và biển cả biến mất dưới màn sương mù mịt.

Tít phía dưới, Reynie ngước lên nhìn Kate, khắc khoải chờ cô bạn thông báo, cảm giác lạ kì xâm chiếm cậu. Cậu không chắc chắn đó là gì. Cậu cứ nhìn đi nhìn lại, cố nhớ cho ra. Kate đứng đó, nổi bần bật trên nền trời phù mây xám xịt, gió thổi túm tóc đuôi ngựa của cô bé phấp phới. Mấy chú chim nhạn từ vách núi lao ra từ lỗ hổng trên vách đá bên cạnh cô bé, mặc kệ tiết trời ẩm ướt, và tít phía lên cao, chao liệng một cánh chim săn mồi, chắc chắn đang nghĩ rằng chú chim kia sẽ là bữa sáng của nó. Trong khi đó, mây đen nối nhau phủ kín như thể một thước phim hành động, cảnh tượng phối hợp giữa tiếng vỗ cánh của đàn chim nhạn và sải cánh rộng lớn của chim săn mồi khiến ruột gan Reynie lộn tùng phèo như thể mất thăng bằng... đúng rồi, chính cảm giác mất thăng bằng này là cái thứ xúc cảm lạ kỳ kia. Hay là không, Reynie vẫn không hài lòng với câu trả lời. Thế cảm giác này là gì? Nó gần giống như thứ ngờ ngợ đã trải qua - như thể cậu đã trải nghiệm cái gì đó rất giống thế trước kia.

Kate trèo xuống báo cáo tình hình. “Sẽ khó nhọc kinh khủng đấy,” cô nói thêm sau khi mô tả đoạn đường đi. “Mình nghĩ phải mất ít nhất hai tiếng đồng hồ để tới cánh rừng, có khi phải ba tiếng, phụ thuộc vào mấy cậu con trai có thể kéo ra sao. Thế nghĩa là nếu chúng ta không gặp tai nạn nào khi đi xuống núi nữa.” Cô bé với tay ra sau buộc lại mái tóc đuôi ngựa vừa bị xõa ra khi leo xuống. “Và còn có một việc nữa.”

“Chuyện gì thế?” Reynie hỏi, cảm thấy đó sẽ là một tin xấu.

“Mình không biết chúng ta sẽ tránh để lại dấu vết như thế nào. Nếu chúng tìm thấy Số Hai, chúng sẽ quay lại đây và phát hiện ra chúng ta bỏ đi - trong trường hợp này McCracken và Curtain chắc chắn sẽ leo lên và nhìn ra xung quanh như mình vừa làm. Nếu chúng không tìm thấy cô ấy, chúng sẽ lái Salamander đi lòng vòng trên đảo để tìm cô ấy. Theo mình hình dung, nếu thế chúng chắc chắn vẫn thấy ta đang đi trên bãi đá. Chúng ta hoàn toàn sẽ bị đặt trong vòng nguy hiểm cả một thời gian dài. Chúng ta có một khởi đầu thuận lợi, thế thì chúng ta đáng lẽ phải vượt xa chúng...”

“Nhưng rồi sao?” Constance nói. “Chúng sẽ biết chỗ chúng ta, còn chúng ta thậm chí không chắc liệu có sự giúp đỡ nào chờ đợi chúng ta không!”

Reynie day day thái dương. Dĩ nhiên Constance nói đúng. Và nếu McCracken dự đoán là chính xác, thì hai trong số những Gã Số Mười bấy giờ sẽ tỉnh dậy, và có thể Martina cũng thế. Sẽ có quá nhiều hiểm nguy lởn vởn xung quanh khu rừng, và rất nhiều tay chân đuổi theo bọn trẻ đang trốn chạy.

“Có thể chúng ta nên tìm một chỗ ẩn náu và chờ ngài Benedict tỉnh dậy,” Sticky nói. “Ngài ấy sẽ biết phải làm gì.”

Kate lắc đầu. “Ngài ấy có khi phải ngủ vài tiếng đồng hồ mất. Chúng ta cần tự mình tìm cách cho việc này.”

Nói “tự mình” ý Kate chủ yếu nói Reynie, cả cô bé và các bạn theo bản năng cùng quay sang cậu. Reynie nhăn mặt. Cậu đang cố gắng một cách nhọc nhằn để tìm cách giải quyết, nhưng tâm trí cậu cứ nhay đi nhay lại cái cảm giác lạ lùng ngờ ngợ kia. Nó là cái gì mà cậu phải nhớ tới thế? Cậu bấy giờ đang quan sát Kate, và cánh chim diều hâu... Chờ đã... Đó có phải là chim diều hâu không? Cậu giật nảy mình, rồi ngước nhìn lên trời. Không, không phải diều hâu. Một chú chim ưng.

“Kate! Nhìn kìa! Có phải chim ưng...”

“Sao cơ, đó là Madge!” Kate la lên. Cô lấy còi ra thổi.

Con chim ưng rạch một đường từ trên trời xuống, nhẹ nhàng đáp xuống cổ tay Kate y như lúc cô bé xỏ chiếc găng da bảo vệ. “Bé ngoan, Madge!” Kate dỗ dành, vuốt ve bộ lông của con chim. “Ta xin lỗi ta chẳng mang đồ ăn gì cho bé cả. Ta nợ bé một lần này nhé.”

Một túi da nhỏ buộc vào chân Madge. Kate hấp tấp gỡ móc cài và lôi ra một bức thư. “Nó từ Đạn Thần Công!”

Bọn trẻ túm tụm lại gần để đọc:

Gửi Kate,

Chúng tôi mong thư này sẽ tới chỗ em. Chúng tôi biết em đang gặp nguy hiểm, và tôi viết thật nhanh để kể cho em tình thế của chúng tôi và để biết chúng tôi có thể giúp được gì. Trong trường hợp có bất kì việc gì quan trọng, tôi sẽ giúp em hết sức mình.

Đêm qua chúng tôi nấp trong rừng, thấp thỏm đợi chờ em tới, lúc đó chúng tôi nghe thấy có tiếng nổ. Ngay sau đó, chúng tôi phát hiện thấy Số Hai trượt ra từ một đường hầm trong núi. Cô ấy sẽ ổn cả thôi, nhưng lúc đó chúng tôi cảm thấy phải mang cô ấy ra chỗ Đường Tắt để băng bó.

Cô kháng cự rất ồn ào - quá là ồn ào, vì quả thực tai cô bị chấn động sau vụ nổ. Cô bị chút ảnh hưởng ở đầu, nhưng rõ ràng cô vẫn tin rằng em đang gặp nguy hiểm, và cô đã lao vào tìm em trong hầm để rồi chính cô gặp nạn (và bị núi đá hành hạ kha khá) khi lối vào nổ tung. Cô nài nỉ chúng tôi để cô lại để đi tìm các em. Nhưng thế là trái với chỉ dẫn của Milligan, và chúng tôi không dám mạo hiểm làm đảo lộn kế hoạch của ông mặc dù vết thương của Số Hai cần phải được chăm sóc ngay lập tức. Các em yên tâm, cô ấy được băng bó cẩn thận rồi, và cô đã phục hồi mọi cảm giác. Chính cô nghĩ ra cách nhờ Madge gửi một tin nhắn, và - giờ thì cô ấy đang bảo tôi dài dòng quá, vậy nên để tôi nói nhanh nhé.

Chúng tôi lên tàu Đường Tắt, cách bờ biển khoảng chục mét. Kế hoạch của chúng tôi là quay lại rừng ngay lập tức, nhưng chúng tôi gặp phải khó khăn. Động cơ tàu bị hỏng khi gặp bãi nước nông khi chúng tôi rời vịnh - thủy triều hôm qua dâng thấp như đánh lừa - và giờ con tàu quá ồn ã và chậm chạp. Chúng tôi sợ rằng còn chạy nó thì sẽ gây nguy hiểm cho em vì sẽ gây sự chú ý. Milligan đã khuyên nhủ rằng chúng tôi phải đặt việc thận trọng kín đáo lên hàng đầu. Điều đó vẫn đúng trong trường hợp này chứ? Gửi thư đi, Kate, và cho chúng tôi biết phải làm gì!

Một số điều cân nhấc: Thuyền trưởng Noland, theo chỉ dẫn của Milligan, đã liên lạc với Hải quân Hoàng gia lúc bình minh (chỉ vài phút trước lúc tôi viết thư) nhưng tàu tuần tra của họ sẽ chưa tới ngay được. Thuyền trưởng không thể đưa Đường Tắt quá gần đảo vì sợ mắc cạn, nhưng ở trong tàu chúng tôi có thể tới kịp bờ vịnh trong tối đa hai giờ đồng hồ. Chúng tôi sẽ chờ em ở đó hoặc tới chỗ em nếu em thấy thế nào là tốt nhất - chỉ cần cho chúng tôi biết chỗ tìm!

Chúng tôi hy vọng Madge sẽ tìm thấy em bằng đôi mắt tinh tường của cô bé. Khi em gửi nó trở lại, chỉ cần nói “ếch ăn” thì nó sẽ bay thẳng tới chỗ tôi - tôi đã cho nó ăn những miếng thịt từ lúc ta đón nó lên tàu. Hãy nhanh lên, Kate, và gửi thư hồi âm nhé!

Đạn Thần Công (Joe Shooter).

Khi đọc xong, Reynie đi đi lại lại. Cảm giác thực sự cậu cảm thấy như thể bị cuộn tròn lại trong trái bóng. Lá thư đáng lẽ phải động viên cậu, nhưng trong hoàn cành này nó lại làm cậu khốn khổ. Nếu chúng gửi thư trả lời cho Madge mang đi ngay bây giờ và nếu mọi thứ diễn ra chính xác như mong đợi, chiếc tàu chậm chạp và ồn ã sẽ đi thẳng vào vịnh ngay khi bọn trẻ tới nơi. Nhưng Kate nói đúng - chúng chắc chắn sẽ bị phát hiện khi đang đi trên bãi đá trống, khi đó, Salamander sẽ bám sát theo dấu vết của chúng, và Milligan chẳng bảo rằng Salamander rất nhanh trên cạn và cả dưới nước đó sao. Ngay cả nếu chúng có tới được chỗ tàu... chà chà, chiếc tàu vốn đã bị hỏng sẽ dễ dàng bị đập nát. Chúng sẽ bị tay chân của lão Curtain tóm gọn trước khi kịp tới chỗ Đường Tắt.

Mấy đứa kia cũng đồng loạt rên rỉ, cũng dần hiểu ra điều khiến Reynie đang lo lắng: không có lối thoát nào cho việc này.

“Ít nhất thì Số Hai cũng đã được an toàn,” Sticky rầu rĩ thốt lên.

Mấy đứa bạn gật đầu nhưng không nói gì. Tất cả bọn chúng đều an lòng khi Số Hai được an toàn. Mặc dầu tin tốt về cô ấy lại là tin xấu cho bọn trẻ, vì lão Curtain và đám tay chân Số Mười không tìm được cô ở khu rừng phía tây sẽ tiếp tục đi vòng quanh đảo. Việc này khiến khả năng bọn trẻ càng dễ bị phát hiện trước khi tới được vịnh.

Reynie nhìn xuống khuôn mặt đang ngủ rũ của ngài Benedict, nhăn mặt, và đi đi lại lại.

“Có lẽ chúng ta nên ẩn trốn,” Constance nói. Những chiếc tàu tuần tra rốt cuộc sẽ tới phải không? Có thể họ sẽ tới đây kịp lúc cứu chúng ta.”

“Chúng ta sẽ phải may mắn lắm mới được thế,” Kate đáp. “Mình nói chúng ta cứ tiến tới và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất. Bố Milligan có thể ở trong rừng, nhớ chứ. Chúng ta chỉ cần tới được chỗ ông, ông sẽ giúp được.”

Sticky đang luống cuống lau chùi đôi kính. “Cậu nghĩ sao hả Reynie? Chúng ta có nên đi tới đó không hay trốn đi?”

Reynie nghiến răng ken két. Cậu nghĩ gì nhỉ? Rất khó mà giấu ai đó khỏi mấy Gã Số Mười lâu cho được. Và cho dù tàu tuần tra có tới kịp và đưa người lên bờ, Reynie không chắc họ có thể đấu được với đám tay chân dữ dằn của lão Curtain, đặc biệt là từ lúc bọn chúng lại có được Salamander. Nhưng chạy đi ư? Tâm trí Reynie quay trở lại chiếc thuyền. Ổn ã, Đạn Thần Công đã nói thế - vậy họ thậm chí không mong gì tránh bị phát hiện trong màn sương mù dày đặc. Và không như Kate, Reynie không hy vọng Milligan có thể giúp chúng. Không, ẩn trốn có lẽ là lựa chọn tốt hơn, mặc dầu thế gần như là một cách làm vô vọng, và mặc dầu...

Reynie dừng bước đi. Cậu vừa nghĩ tới một lựa chọn khác. Thực tế cậu đã nghĩ ngay từ đầu, nhưng lại gạt nó đi. Nếu có thành công, đó là cơ hội tốt nhất để chúng trốn thoát. Nhưng nếu không, tất cả sẽ lạc lối - và để nó thành công thì Reynie phải tin tưởng vào điều gì đó mà cậu cảm thấy không thể tin được.

“Reynie?” Kate thúc giục. “Cậu nghĩ sao?”

Reynie nhìn chăm chăm vào thân hình đang ngủ rũ của ngài Benedict. Bọn chúng đã liều mạng sống và leo lên tìm ông, đã đi tới tận cùng trái đất để bảo vệ ông. Nếu ngài Benedict tỉnh dậy bây giờ, ông sẽ bảo Reynie làm gì? Cậu thấy có gì đó giật giật cổ tay áo. Constance đang ngước lên nhìn cậu.

“Anh phải tin ông ấy,” cô bé nói.

“Tin ông ấy?” Kate hỏi lại. “Tin ai cơ? Reynie, con bé đang nói cái gì thế?”

Reynie nhìn đáp lại Constance. Cậu biết cô bé nói đúng. Cậu biết ngài Benedict sẽ bảo cậu làm thế. Vấn đề là liệu cậu có đủ can đảm để làm thế không.

“Reynie à?”

“Đưa mình cái bút và tờ giấy,” Reynie đã quyết định dược. “Mình biết chúng ta cần làm gì rồi!”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3