Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 14 - Phần 1
Chương 14: Cuộc điện thoại, Tiền bạc và
Vỏ bọc tai họa
Reynie tin chắc
rằng hiện tại ngài Benedict và Số Hai đang đến hòn đảo cho dù nó ở bất cứ đâu
đi nữa, và lão Curtain đang theo dấu họ. Mặc dù bọn trẻ cũng có thể theo họ đến
đó, giữ nguyên đúng hướng đi này, nhưng có một điều chắc chắn: nếu chúng sai,
thì sẽ không còn thời gian để vội nữa.
“Tớ xin lỗi! Tớ
cần phải nghỉ đã!” Reynie hổn hển tấp xe đạp vào lề đường, thả xe trên bãi cỏ,
cậu lảo đảo trèo xuống và nằm ngửa ra bên cạnh. Từ bắp chân đến bắp đùi cậu
nóng rừng rực và hai lá phổi thì nặng trĩu; cậu chẳng thấy gì ngoài mồ hôi làm
mắt mình cay xè. Chúng đã đạp xe như điên từ khi rời khỏi bảo tàng.
Nghe thấy tiếng
động lạ cọt kẹt gần mình, Reynie dụi mắt và quay lại nhìn. Sticky nằm thở khò
khè trên trảng cỏ gần đấy, một chân vẫn ở bên dưới cái xe đạp, trông như một kỵ
binh vừa bị ngã ngựa trong trận chiến. Quá hết hơi không nói nổi, quá kiệt sức
để xuống xe, cậu bạn đã theo Reynie lại chỗ bãi cỏ và dễ dàng thả người mình
xuống.
Kate lại gần
quan sát. Cô bé ngồi trên xe đạp - thật kì diệu khi cô bé có thể giữ thăng bằng
mà không cần đạp - còn Constance thì ngồi trên cái giỏ. Cả hai cô gái đều tỏ vẻ
thất vọng.
“Chúng ta cần
nhanh lên, các anh biết mà.” Constance nói, cô bé đã từng không đồng ý đi cùng
xe với Kate.
“Tớ nghĩ... Tớ
sắp chết rồi,” Reynie hổn hển. “Các cậu
cứ đi... không có tớ.”
“Cậu đùa à?” Kate hỏi đầy
kinh ngạc.
Reynie gật đầu và kéo người
ngồi dậy. Nhưng cậu thấy không thể thở được trong tư thế đó nên lại đặt lưng
lăn kềnh ra. Constance cau mày tỏ vẻ không hài lòng. Đúng lúc đó, một phụ nữ
nhiều tuổi đang dắt một con chó xù nhỏ đi dạo, đã dừng lại để nó đánh hơi người
Sticky. Sticky chỉ nháy mắt với nó và há hốc mồm thở. Người phụ nữ lẩm bẩm gì
đó với bọn trẻ bằng tiếng Hà Lan rồi bỏ đi.
Con đường từ bảo tàng về
khách sạn là một con đường lớn, dài, thẳng tắp và khá nguy hiểm, nhưng để tránh
sự chú ý (cảnh sát có thể đang tìm chúng) bọn trẻ dừng lại bên đường. Chúng
đang ở trong một khu dân cư yên tĩnh. Bãi cỏ nơi các cậu bé nằm phịch xuống
thực ra là một công viên nhỏ - một công viên ảm đạm, thật không may, chỉ vừa
lớn hơn một chỗ đậu xe với một cái ghế đơn mục nát và một cây du tàn rụi.
“Tớ đang nghĩ,” Kate nói khi
các chàng trai lấy lại hơi. “Nếu ngài Benedict có ý muốn Thernbaakagen là điểm
đến cuối cùng của chúng ta thì sao? Nếu ngài ấy và Số Hai thực hiện một chuyến
đi nhanh tới hòn đảo và định quay về trước khi chúng ta đến khách sạn thì sao?
Rút cục, ông đã không biết về hòn đảo cho tới khi đến đây. Nó vốn không nằm trong
kế hoạch ban đầu.”
Reynie đã nghĩ về điều này
nhưng chỉ là đặt câu hỏi với bản thân thôi. Cậu không muốn làm Constance chán
nản. Bây giờ, Kate đã nhắc đến nó, như cậu nghĩ, biểu hiện phiền muộn của
Constance càng u ám hơn.
“Ông thật tuyệt khi đã đính hòn
đảo vào chuyến đi của chúng ta,” Reynie nói nhanh. “Trong trường hợp đó, ông sẽ
để lại một manh mối tại khách sạn. Nếu không, chúng ta có thể lần theo dấu Han
de Reizeger - bạn của ông bà Benedict. Ông ấy chắc rất già rồi, nhưng...”
“Ồ,” Sticky nói, trông khá lo
lắng, “Ừm, tiếc thật, Han thực sự đã rất già. Ông ấy đã chết lâu lắm rồi. Dì
của ông Benedict đã nhắc đến trong thư.”
“Bà ấy nói thế à?” Constance
hỏi, quay lại phía cậu ta. “Sao anh không nói sớm hơn hả?”
Sticky nghiến răng. “Bởi vì
ông Schuyler đi vào trước khi bọn anh kịp nói, Constance.”
“Cậu có thể kể lại nó viết gì
không?” Reynie hỏi.
“Chắc chắn rồi, nó được viết
bằng tiếng Anh,” Sticky nói. “Tớ sẽ trích dẫn nó nhé? Hay là cậu làm...?”
“Tất nhiên rồi,” Kate đáp “Cậu
nhắc lại đi.”
Và Sticky đọc thuộc lòng lá
thư.
Anki thân yêu,
Lần này em viết bằng tiếng
Anh, không chỉ để chứng tỏ em đã thành thục nó thế nào - bây giờ em đã là một
người Mỹ đúng nghĩa - mà còn để cổ vũ chị và Tiến sĩ Benedict tự luyện tập
nhiều hơn, điều đó luôn khiến em thấy buồn cười khi hai người có thể nói mười
thứ tiếng nhưng bù lại, tiếng Anh của hai người thật quá vụng.
Nhưng thứ lỗi cho em. Đầu
tiên, em muốn nói lời chia buồn với mất mát của bạn anh chị - Han de Reizeger.
Chị chắc thấy nhẹ nhõm hơn vì ông ấy cũng nhiều tuổi rồi. Và chẳng phải ông ấy
đã sống hết mình cho những chuyến phiêu lưu suốt cuộc đời sao? Ông ấy không
phải đã ra đi trên chuyến du lịch vòng quanh thế giới như ông luôn mong muốn ư?
Liệu ai có thể may mắn hơn!
Em rất tiếc về vấn đề tài
chính chị đề cập trong bức thư trước, Anki, nhưng em không thể giúp chị. Em
biết chị không đề cập rõ yêu cầu giúp đỡ, nhưng em nghĩ điều đó ẩn trong bức
thư của chị và em xin lỗi đã khước từ nó. Chị biết đấy, hoàn cảnh không ổn định
hiện nay khiến em không giúp gì được cho chị. Em chỉ kiếm vừa đủ để trả tiền
thuê nhà mà cũng không hẳn vậy, từ khi Thiedric mất nhiều năm trước. Nhưng anh
chị mong muốn thực hiện chuyến đi đó bằng mọi cách ư? Nếu nó không quá nghiêm
trọng, chị có buộc phải giữ kín nó bí mật với cả em gái mình không? Việc yêu
cầu tài chính cho chuyến đi này phải kèm theo một lời giải thích rõ ràng thì
mới hợp lý.
Bất chấp việc em cầu xin hai
người đừng thử trải nghiệm những điều mà chị đã đề cập. Chắc chắn, chính phủ sẽ
trả một số tiền kha khá nếu hai người đạt được thành công, nhưng anh chị có
nghĩ đến khả năng xảy ra tai nạn không? Đấy chẳng phải là lý do những người
khác từ chối chuyến đi này sao? Chị có thể nói rằng phần lớn họ thiếu khả năng
chuyên môn như hai người, nhưng chắc chắn trên cả đất nước Hà Lan có nhiều nhà
khoa học khác nhau có thể cùng thử làm một việc.
Về cá nhân, em tin vấn đề này
dễ gây ra tranh cãi, nhưng em chẳng thấy cách nào khác để nói điều đó. Dù “mục
đích cao cả” thế nào đi nữa, như chị đã nói trong bức thư của mình, dù bao
nhiêu mạng sống sẽ được cứu chăng nữa, em đảm bảo với chị, không một ai có thể
xui em thử làm việc như thế! Em tin rằng, đó là nguyên nhân, em không muốn trở
thành một nhà khoa học. (Vì lý do đó và mặt khác vì khoa học là một công việc
ngu đần - quá nhiều tiếng Latinh và quá nhiều các ký tự.)
Ít nhất, em cũng được an ủi
khi anh chị dự định đợi tới lúc đứa bé chào đời. Nhưng vội vàng gì? Đứa trẻ đó,
trải nghiệm đó, chuyến đi huyền bí đó nữa - chị viết như thể tất cả tới rất
nhanh vậy! Hãy cho mình chút thời gian, Anki! Nghe lời em không bao giờ sai cả,
em phải thừa nhận rằng, cách chị luôn viết thư với hai bàn tay cùng di chuyển
như thể chị không muốn để mất một khoảnh khắc nào. Vẻ hấp tấp như vậy không hề
thích hợp để một phụ nữ thể hiện ra ngoài, dẫu sao theo khoa học cô ấy có thể
nghĩ mình là ai.
Bọn trẻ mất hết tinh thần.
Bức thư này chẳng thú vị tẹo nào, và khi Sticky kết thúc việc đọc thuộc lòng
của mình - thời gian nghỉ ngơi của chúng bị tiếng ồn ào của khu dân cư quấy
nhiễu - Reynie băn khoăn liệu ngài Benedict nghĩ thế nào về bức thư này. Cậu
hiểu ông ấy, ông chắc đã nhận thấy giọng điệu chế nhạo vẻ bề trên của dì mình;
ngài Benedict không phải kiểu người thèm để tâm căm phẫn. Nhưng một lần nữa,
Reynie nghĩ, ông hẳn rất thất vọng khi tìm thấy một ví dụ khác cho tính khó
chịu của gia đình mình.
“Tớ tin rằng,” Kate nói khi
Sticky kết thúc, “Họ giấu bức thư của bà ấy vì nó đề cập đến Han và chuyến đi
bí mật mà họ dự kiến. Họ thực sự rất cẩn thận.”
“Vậy tại sao không hủy nó đi?”
Constance nói. “Một bức thư xấu xa như thế! Chuyện gì khiến bà Anki giữ nó lại?”
Kate bật cười. Trong những
bức thư ít ỏi mà Constance gửi cho cô, không một bức nào có vẻ thân mật, dịu
dàng. “Chắc chắn giống lý do chị giữ các bức thư của em, nhóc Connie.”
Constance nhăn mặt, không
biết câu nói của Kate là một lời xúc phạm hay lời tự thú trìu mến. Thực tế, cô
bé nghĩ nó có thể là cả hai.
***
Nói đúng ra, Thernbaakagen
không nằm trên bờ biển mà xa hơn một chút. Như nhiều thị trấn khác ở Hà Lan, nó
nằm trên phần đất mà những người Hà Lan thông minh đã lấn biển. Tiếp giáp với
Biển Bắc và bị chia nhỏ ra bởi vô số các kênh đào, thị trấn dường như nhiều
nước hơn đất liền, và phần lớn nền thương mại của nó phụ thuộc vào đặc điểm
này. Nghề cá, nghề đóng tàu, và giao thông đường thủy đã tạo nên Thernbaakagen,
nếu không phải một thành phố rộng lớn thì ít nhất nó cũng là một thành phố
thịnh vượng và tất bật, và khách sạn Regaal nằm ở trái tim khu buôn bán của thị
trấn.
Reynie, Sticky và Constance
có thể nhìn thấy tấm biển của khách sạn từ góc phố tấp nập cách đó hai khu nhà -
nhưng chúng không nhìn tấm biển đó. Khi bọn trẻ đợi Kate chạy đi dò la, chúng
đứng gần một xe bán thức ăn nhanh và nhìn chằm chằm vào tất cả thức ăn mà chảy
nước miếng. Đặc biệt, mùi của những miếng khoai tây chiên khiến Reynie choáng
váng một lúc lâu. Nhưng chúng đã tiêu những đồng tiền cuối cùng cho mấy chiếc
xe đạp.
Một trong những chiếc xe đạp
đó đang tiến tới thanh chắn, ngồi trên xe là một cô bé đeo kính với mái tóc
hoang dại, cô đang cố gắng phanh xe lại và cẩn thận để không va vào xe thức ăn
nhanh. Người bán hàng nhảy qua một bên để tránh và lo lắng nhìn những ngón chân
mình, ông ta nói một câu tiếng Hà Lan cộc lốc, đầy bất bình.
“Người phụ nữ nhiều tuổi với
con chó xù cũng nói như thế,” Constance thì thầm một mình và Reynie nghe thấy,
cậu nhận ra cô bé nói đúng.
“Tớ đã nhìn thấy rất nhiều
người ăn mặc bảnh bao, mang cặp táp,” Kate báo cáo, trả lại Sticky cặp kính và
lấy lại cái giỏ của mình, “Nhưng không có Martina hay S. Q. Tớ nghĩ chúng ta
đều không có lựa chọn nào khác, phải không nào?”
“Tớ tin là vậy,” Reynie nói,
nhận thấy người chủ xe thức ăn nhanh đang để ý, cậu hỏi ông ta xem có thể trông
hộ chúng mấy cái xe đạp không.
Sau khi nghe Reynie nói bằng
tiếng Anh, thái độ khó chịu của ông ta nhạt dần - như thể vì một vài lý do, ông
ta không thích trẻ con Hà Lan nhưng những đứa trẻ Mỹ thì có thể tha thứ được -
và ông ta nói cộc lốc rằng sẽ làm thế nhưng bọn trẻ phải nhanh lên; ông ta
không thể dùng cả buổi chiều của mình để trông xe cho chúng được. Reynie cám ơn
ông ta, và với một cái gật đầu cụt lủn, ông ta đưa cho Reynie một túi tròn đầy
những lát khoai tây nóng - chúng dày như những con cá hồi Pháp - và được bọc
một lớp nước sốt như mayonnaise. “Ta thấy các cháu có vẻ đói,” ông ấy nói. “Nào,
đi đi và nhanh lên.”
Bọn trẻ đi bộ chầm chậm về
khách sạn, chia nhau ngấu nghiến khoai tây và để mắt đề phòng với những người
đi ngang qua chúng. Lề đường ngập tràn khách bộ hành, nhiều người trong số họ
trông thật thanh lịch, trang điểm rất chuyên nghiệp và mỗi khi có một doanh
nhân mặc vét nhìn bọn trẻ khiến chúng thót tim. Chưa bao giờ đi bộ xuống phố
lại căng thẳng đến vậy. Chúng chỉ yên tâm hoàn toàn khi đến khách sạn.
Khách sạn Regaal đã từng có
những ngày tươi đẹp hơn bây giờ - nội thất đặt nơi tiền sảnh thì lung lay, sàn
các tầng thì mòn vẹt, và mùi ẩm mốc phảng phất trong không khí - nhưng dù xếp
phía sau các khách sạn hiện đại, nó vẫn đang làm tốt nhất công việc của mình để
giữ vẻ bề ngoài của một thời hoàng kim đã qua. Những món đồ nội thất ọp ẹp được
đánh sáng bóng, sàn nhà đã mòn được quét sạch sẽ tinh tươm, và nhân viên tiếp
tân chuyên nghiệp luôn ăn mặc chỉnh tề. Một trong số họ, một người đàn ông
nhiều tuổi với mái tóc xám bóng mượt, nói vài điều bằng tiếng Hà Lan khi bọn
trẻ bước vào. Người lễ tân khác, một phụ nữ yếu đuối, vàng vọt, trông khá
nghiêm khắc với những vòng thâm quanh mắt, gật đầu tán thành.
“Đấy lại một lần nữa,”
Constance nói khó chịu.
Lần này Reynie cũng nhận ra
nó - cụm từ được thốt ra lần đầu bởi người phụ nữ chó xù, và sau đó là người
bán thức ăn nhanh. Sự trùng hợp ngẫu nhiên này quá quan trọng nên không thể cho
qua được. Với các bạn mình ở phía sau, Reynie đến gần mấy nhân viên lễ tân và
hỏi họ có thể nói được tiếng Anh không. Ngay lập tức, một ánh nhìn hiểu chuyện
xuất hiện trên cả hai gương mặt.
“Tất nhiên chúng tôi nói
tiếng Anh,” người đàn ông tóc xám nói lịch thiệp. Ông ta có cặp má đỏ lựng, một
chòm rầu mỏng và nhỏ trông như một dấu vân tay trên cằm vậy. “Và chúng tôi có
thể giúp các cháu việc gì?
“Cháu có thể hỏi hai người
vừa nói gì về bọn cháu không?” Reynie hỏi. “Chúng cháu đã nghe nhiều người khác
nói như vậy và chúng cháu muốn biết.”
“Các cháu là những đứa trẻ
tinh ý đó!” người đàn ông nói, nghe vừa thích thú vừa ấn tượng. “Tôi đã nói các
cháu đáng lẽ phải ở trường! Những người cháu nhắc đến chắc nghĩ như tôi rằng
các cháu là trẻ em Hà Lan, và các cháu là mấy đứa trốn học. Nhưng các cháu là
người Mỹ phải không? Đang tham quan theo trường hay thế nào vậy?”
“Cũng gần như vậy ạ,” Kate
nói.
Reynie cảm thấy thật ngu ngốc
và có một chút lo lắng. Đi du lịch ngang qua thị trấn, bốn đứa bọn chúng gây
chú ý nhiều hơn mong muốn. Chẳng có cách gì giúp được lúc này, nhưng lại càng
có nhiều lý do để tìm ra manh mối và rời khỏi đây nhanh nhất có thể. “Có một
tin nhắn ở đây cho bọn cháu, phải không ạ?” cậu hỏi. “Một tin nhắn từ người tên
là Nicholas Benedict?”