Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 13 - Phần 2

Reynie nhíu mày. Có cái gì đó cứ làm cậu bận lòng trong suốt bài tổng kết của Sticky, nhưng cậu không thể tóm được nó là gì mãi cho tới lúc này. Nếu vợ chồng Benedict thật sự tìm thấy cỏ đêm, không phải đó sẽ phải là khám phá khoa học của thế kỷ sao? Thế thì tại sao họ không xuất bản tài liệu về nó? Tại sao họ thậm chí không thông báo nó trên báo chí?

“Vậy thì cỏ đêm trông ra làm sao?” Kate hỏi.

“Tớ không biết,” Sticky nói.

Constance bật cười vẻ hoài nghi. “Anh không biết á? Nhưng em nghĩ anh biết mọi điều mà! Em thấy thật khó tin kinh khủng, George Washington ạ!”

“Anh không quan tâm em có tin hay không,” Sticky cấm cảu nói. “Anh thật sự không biết.”

“Mọi người bình tĩnh nào,” Reynie nói, vẫy tay ra hiệu về phía Sophie vẻ lo lắng. “Constance, cậu ấy đang nói thật đấy. Anh biết em đang buồn, nhưng nếu em bình tĩnh lại và nhìn cậu ấy, em sẽ biết điều đó.”

(Constance thật sự đang nhìn Sticky, trừng trừng không chớp mắt, và cái quắc mắt ấy có khuynh hướng làm mờ đi tầm nhìn sâu sắc hơn về mọi vật. Cô bé cố hết sức để thư giãn, đủ để nhìn thấy sự thật trong nét mặt giận dữ, thách thức của Sticky. Cậu ta thật sự không biết.)

“Cuối cùng nó cũng có ý nghĩa với mình,” Reynie nói. “Thực tế là Anki đã không nhắc đến chỗ họ tìm thấy các mẫu vật đầu tiên. Nhà Benedict không công bố những gì họ tìm thấy, cho dù đó là một phát hiện gây kinh ngạc. Các giấy tờ này được giấu đi. Tất cả đều ăn khớp lại. Họ đang giữ bí mật chuyện đó.”

“Không chỉ vợ chồng Benedict,” Sticky nói cùng với cánh nhìn sưng sỉa về phía Constance. “Các sử gia về thực vật học vẫn thường coi cỏ đêm là một trong những bí ẩn vĩ đại nhất. Trong vài văn bản cổ có nhắc đến nó, một số thường xuyên lược bỏ đi bất cứ miêu tả nào về loài thực vật này trông ra sao hay nơi nào tìm thấy nó.”

“Cũng như vợ chồng Benedict đã làm với lá thư cửa Han,” Reynie nói, chỉ ra khoảng trống bị cắt bỏ trên một trang giấy. “Tớ cho rằng đó là đoạn miêu tả về loài cỏ đêm đang bị khuyết, tớ đúng chứ?”

Sticky gật đầu.

“Nhưng tại sao lại phải giữ bí mật?” Kate hỏi. “Nếu nó không hề quan trọng...”

“Hãy nghĩ xem,” Reynie nghiêm trọng nói. “Chỉ một chút ít thứ cỏ này đã đưa toàn bộ ngôi làng vào giấc ngủ. Vậy cậu nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu nó rơi vào tay kẻ xấu? Như cậu nói, Kate, đây là một loài cây đầy sức mạnh. Không một ai muốn kẻ xấu tìm ra nó.”

“Tuy vậy, ông bà Benedict biết điều đó,” Sticky nói. “Họ chỉ chia sẻ thông tin với những người bạn tin tưởng nhất. Han đã gửi họ những tấm bản đồ, nhưng bằng cách nào đó, chúng không có ở đây. Tớ cho rằng ông bà Benedict cũng đã hủy chúng rồi.”

“Những tấm bản đồ của cái gì?” Kate hỏi.

“Của hòn đảo nơi Han đã tìm ra cỏ đêm. Ông ấy đã gửi một bản đồ xác định vị trí hòn đảo và bản đồ của hòn đảo đó - bao gồm địa điểm chính xác của cỏ đêm. Ông ấy có miêu tả một chút về hòn đảo trong bức thư, nhưng không hề đặt tên hay nói đến điều gì để định vị nơi đó. Tớ chắc chắn ông bà Benedict cũng đã cắt phần đó ra. Hòn đảo có thể là bất cứ nơi nào trên thế giới.”

“Và lão Curtain muốn tìm ra nó,” Constance tiếp. “Và hắn nghĩ ngài Benedict biết. Bức thư của lão nói vậy, không phải sao?”

“Nhiều hơn hoặc ít hơn,” Reynie đáp. “Và các cậu biết không? Bây giờ tớ nghĩ ngài Benedict thực sự có thể biết hòn đảo ở đâu. Nếu ông ấy biết, thì câu hỏi là có phải ông đã lên kế hoạch này để đến hòn đảo đó hay không. Chúng ta sẽ phải thấy...”

“Reynie,” Kate cắt ngang, “Làm sao ngài Benedict có thể biết hòn đảo ở đâu? Những tấm bản đồ đã mất rồi!”

Reynie đang định giải thích thì cửa thư viện mở ra và người đàn ông hói đầu, quấn băng mà chúng đã trông thấy ở sân bước vào phòng. Ông ấy liếc chúng không hề có vẻ thích thú gì và đi tới bàn quản lý, xì xầm trao đổi với Sophie. Bỗng nhiên, ông ta quay phắt lại, mắt lồi ra nhìn chằm chằm bọn trẻ và vội vàng tiến đến bàn của mấy đứa, theo sau là một Sophie đầy lo âu.

“Ta là Schuyler,” Người đàn ông nói bằng thứ tiếng Anh cộc lốc. “Và ta có thể hỏi các cháu là ai không?”

“Học sinh.” Sophie tiếp lời. “Chúng là học sinh trao đổi, thưa ông Schuyler.”

Ông Schuyler ra hiệu về tập san và những bức thư. “Tại sao các cháu lại xem những thứ này?”

“Chúng biết việc đó.” Sophie xen ngang. “Chúng chỉ đơn giản muốn tìm hiểu. Chúng chỉ là trẻ con, thưa ông.”

Ông Schuyler dường như nghi ngờ lời tuyên bố đó. Cuối cùng, ông ta cằn nhằn, gặm ống tẩu thuốc của mình và nói. “Ta nghĩ rằng ta có thể kể cho các cháu vài điều sau. Đó là một câu chuyện khá thú vị.” Ông kéo một cái ghế ra, khiến Sophie phải lùi lại để tránh bị va vào đầu gối và nặng nề ngồi xuống. “Ta sẽ bắt đầu ở đâu nhỉ?”

“Lúc đầu như thế nào ạ?” Reynie hỏi.

“À. Ban đầu rất rắc rối.” ông Schuyler nói. “Các cháu thấy đấy, chỗ giấy tờ này theo pháp luật thuộc về thư viện, nhưng một người đàn ông Mỹ - con trai của những người chủ ban đầu - tranh cãi rằng ông ta có quyền đòi chúng. Ta đã nói ông ấy được tự do theo đuổi vấn đề này ở tòa, và nếu tòa quyết định như vậy thì chỗ giấy tờ này sẽ thuộc về ông ấy. Mặt khác, ta không nghĩ tòa án sẽ chấp nhận điều đó. Nhưng cho đến khi phán quyết được thực hiện thì các giấy tờ này vẫn phải để ở thư viện! Thật dễ giải quyết.”

“Người đàn ông đó đến gặp ta vào một buổi sáng và hỏi xem những giấy tờ này. Đây là một thư viện công cộng miễn phí, nên tất nhiên ông ta được phép làm thế. Sau đấy ông ta kể mình là ai và hỏi ta đã từng gặp ông ta trước đó chưa. Ta nói chưa từng và đó là sự thật. Ông ấy kể thỉnh thoảng mình phải dùng xe lăn. Không một ai trong thư viện từng biết ông ấy trước đó phải không nào? Ta cam đoan là chưa từng, và Sophie cũng cam đoan cô ấy chưa từng gặp. Cô có đồng ý với tôi đó là điều đã xảy ra không, Sophie?”

Sophie vừa mở miệng định nói thì ông Schuyler tiếp tục. “Đúng vậy, đó là điều đã xảy ra. Và cuối cùng khi chúng ta thuyết phục rằng ông ấy không nổi tiếng như mình tưởng, thì ông ấy và bạn mình - một người phụ nữ da vàng với mái tóc đỏ khiến ta nghĩ tới cây bút chì - Cô không cho rằng đó là một so sánh thông minh sao, Sophie? Rằng cô ta trông giống một cây bút chì? Tôi tin tôi đã nói vậy lúc đó - Ta đang kể đến đâu nhỉ? Ồ phải rồi. Ông ấy và bạn mình bỏ đi. Nhưng năm phút sau ta nhận được một cú điện thoại từ người đàn ông đó, và ông ta nói đã lấy đi thứ đáng lẽ thuộc về mình. Đó là điều ông ta nói và ông ta cúp máy.”

“Có thể các cháu không biết điều ông ta ám chỉ nhưng ta thì biết,” ông Schuyler tiếp. “Ta đã đi thẳng đến chỗ để cuốn nhật ký và giấy tờ, ngay lập tức ta phát hiện ra ông ta đã lấy đi hai tài liệu thuộc về những bức thư và ông ta còn cắt đi một phần trang giấy! Ông ta đã ăn cắp và hủy hoại tài sản của thư viện!”

Reynie bắt lấy chi tiết đó đầy thích thú, những điều ông Schuyler vừa nói đã khẳng định nghi ngờ của Reynie rằng ngài Benedict đã biết vị trí hòn đảo. Chính là ông ấy - không phải bố mẹ ông - đã lấy đi hai tấm bản đồ. Hơn nữa ông còn cắt đi phần bị mất của bức thư từ Han. Bố mẹ ngài Benedict đã cất giấu những tài liệu này ở một nơi bí mật. Họ chắc không nghĩ cần phải hủy những thông tin nhạy cảm chứa trong chúng.

“Ông ta đã thực hiện hành vi phạm tội,” ông Schuyler nói tiếp, “Và ta có thể chứng minh điều đó. Ông ta không thông minh như ông ta tưởng đâu!” Ông ấy chỉ vào máy quay an ninh treo trên bức tường đằng sau bàn quản lý. “Các cháu thấy không? Ta có bằng chứng. Và các cháu có tin không? Ông ta trở lại thư viện vào cùng một ngày! Tuyệt! Các cháu nghĩ điều gì đã xảy ra?”

“Ông đã gọi cảnh sát,” Reynie nói, thầm khâm phục sự khéo léo của ngài Benedict, những việc ông đã làm thật dễ hiểu. Đầu tiên ông xác định rõ liệu lão Curtain đã từng trông thấy chỗ giấy tờ này chưa (đó là lý do tại sao ông hỏi các nhân viên thư viện có nhận ra mình không). Sau đó ông cố gắng đảm bảo nếu người em sinh đôi của mình có đến thư viện này, thì hắn sẽ bị bắt giữ.

“Thực vậy,” ông Schuyler nói. “Ta đã gọi cảnh sát. Nhưng không phải lần đầu tiên ta gọi cảnh sát ngày hôm đó, trước đấy những người đàn ông mang cặp táp đến. Các cháu đã nghe về họ chưa?”

“Những Gã Số Mười?” Constance hỏi, và những đứa trẻ khác cố không để lộ vẻ lo lắng khẩn trương của mình. Constance ngay lập tức nhận ra mình lỡ lời, nhưng đã quá muộn.

May thay ông Schuyler quá hào hứng kể chuyện nên không chú ý đến lời cô bé nói. “Mười người?” ông ấy lơ đãng lặp lại. “Không, cháu nghe nhầm rồi. Chỉ có hai thôi. Mặc dù chúng còn nguy hiểm hơn mười người, thậm chí nhiều hơn. Chúng đến ngay sau khi ông người Mỹ và cô Bút Chì bỏ đi. Lúc đó, ta đang ở sân sau - các cháu thấy đấy, vị trí của ta buộc phải ra vào bảo tàng nhiều hơn...” (Bọn trẻ hiểu điều đó có nghĩa là ông Schuyler thường đi ra sân sau để hút tẩu và đọc báo.) “... và ta trông thấy chúng đi vào từ cổng, nhưng ta không nghĩ gì cho đến khi nghe thấy tiếng la hét.”

Cùng lúc đó, ông Schuyler quay lại định vỗ nhẹ vào tay Sophie nhưng Sophie đã nhanh chóng rút lại, nên ông Schuyler vỗ vào tay ghế như thể đó là điều hoàn toàn bình thường và ông ấy có ý định làm vậy.

“Những người đàn ông đó yêu cầu được xem các tài liệu có liên quan tới cái tên ‘Benedict’,” Sophie xen vào. “Cũng chính là điều được yêu cầu bởi vị khách trước. Cô biết họ đang tìm kiếm thứ gì đó, nhưng cô đã kể với các cháu rồi, lần đầu tiên cô quá sợ hãi mà không nói nên lời. Và sau đó...”

“Phải, tiếng la hét rất tồi tệ,” ông Schuyler tiếp tục khi Sophie còn chưa nói hết, “nhưng chúng đã cảnh báo ta tình hình lúc đó và khi họ trở ra, ta đã tấn công từ sau ghế dài...” (Theo lời kể này, bọn trẻ hiểu rằng ông Schuyler đã nhìn trộm từ sau thành ghế, nơi ông ấy đang co lại vì khiếp sợ.) “... nhưng một trong số chúng chĩa thứ vũ khí chết chóc vào ta. Phản xạ của ta thật tuyệt vời, ta cúi đầu xuống, nhưng vẫn không đủ nhanh để tránh bị thương.” Thật cẩn thận ông ấy chạm vào chỗ quấn băng quanh đầu mình. “Ta đã mất nhiều máu và tất nhiên, toàn bộ tóc của ta nữa.”

Bọn trẻ nhướng lông mày, và Kate cố không phì cười. Đánh giá theo kích cỡ và vị trí quấn băng, không thể có nhiều hơn nửa tá tóc trên đầu ông Schuyler. Nhưng chúng đã xuất hiện thêm khi ông Schuyler bị thương.

“Chúng nói rằng ta nên vui mừng vì ta không cao lắm,” ông Schuyler phản ứng lại. “Sau đó chúng bật cười và bỏ đi, ta đã gọi cảnh sát.”

“Chính xác hơn Eda đã gọi cảnh sát, ông Schuyler.” Sophie nói nhanh. “Ông đã gọi cấp cứu. Vì vết thương của mình.”

Ông Schuyler làm một cử chỉ tức tối với cái tẩu của mình. “Chi tiết ấy không quan trọng. Và điều chắc chắn là tôi đã gọi cảnh sát vào lần sau, các cháu, khi ông người Mỹ quay trở lại. Lúc đó ông ta đã dùng xe lăn, giống như lời ông ta kể, ông ta đi cùng một người đàn ông trẻ vụng về có bàn chân to, và một con nhóc có mái tóc dài màu đen sáng với thái độ rất hỗn xược. Cực kì hỗn láo! Ta không muốn nhắc lại từ mà nó gọi ta trước khi bỏ đi.”

Reynie và mấy đứa khác liếc trộm nhau. Chúng khá chắc ông Schuyler đang miêu tả S. Q. Pedalian và Martina Crowe - những tay Điều hành viên khác đã cùng bỏ trốn khỏi Học viện với lão Curtain. Và tất nhiên người ngồi trên xe lăn chính là lão Curtain.

“Ông người Mỹ,” ông Schuyler kể tiếp, “muốn xem lại tất cả tài liệu đã nghiên cứu ban sáng. Ông ta nói mình hiểu rằng có một việc không may đã bất ngờ xảy ra với thư viện và mong rằng các tài liệu đó vẫn ở đây. Như thể ông ta không thực hiện hành vi phạm tội vậy! Như thể ông ta chưa bao giờ gọi cú điện thoại thú nhận đó! Lão già trơ tráo!”

Lão Curtain chắc không thiếu tính trơ tráo, Reynie nghĩ, nhưng điều này là một thí dụ cho việc xảo quyệt vẫn còn hơn ra vẻ anh hùng. Rõ ràng là lão Curtain muốn tìm hiểu tại sao ngài Benedict lại thăm thư viện bảo tàng, và khi những Gã Số Mười thất bại trong việc tìm câu trả lời, lão đành phải diễn trò đến thăm lần hai.

“Đúng vậy, như các cháu tin tưởng, ta khá thông minh,” ông Schuyler nói. “Ta đã không biểu hiện chút đau đớn nào, tuyệt hơn ta đã sắp đặt cái bẫy của mình. Ông ta có vẻ vội vã và muốn sao lại toàn bộ - tất cả những trang đơn lẻ của nhật ký và các lá thư - để mang theo. Ta đã nói rằng với những tài liệu dễ hư hỏng chúng ta phải sử dụng máy móc đặc biệt, và một nhân viên thư viện phải thực hiện việc sao chép. Đó là sự thật, việc đó không khiến kế hoạch của ta bớt thông minh chút nào. Khi các cháu nghĩ Sophie thực hiện việc sao chép thì ta đã bí mật gọi cảnh sát và bảo họ đến cùng lúc, nhưng không dùng còi báo động. Các cháu có hiểu điều ta dự định không? Cách đó không báo động họ! Khi những bản sao hoàn tất, và ông ta cùng cộng sự của mình bắt thang máy xuống tiền sảnh, họ đã chạm trán cảnh sát. Tất cả kế hoạch đều thông minh, ta cam đoan với các cháu.”

“Vậy nó gặp vấn đề gì?” Reynie hỏi, vì chúng đều biết hết sức chắc chắn là lão Curtain đã trốn thoát.

Ông Schuyler lắp bắp vẻ phẫn nộ. “Không kể việc ta đã làm, cảnh sát lại để chúng trốn thoát. Ông ta thình lình biến đổi từ xe lăn của mình - chắc chắn nó khiến cảnh sát ngạc nhiên - và làm điều gì đó... ta cũng không biết chính xác ông ta đã làm gì. Ông ta chỉ đơn giản chạm nhẹ vào các nhân viên cảnh sát, và họ gục xuống sàn, nằm bất tỉnh trong nhiều phút. Kẻ hung ác đã bỏ trốn cùng đồng sự của mình, ta không gặp lại lần nào.” Ông ta lắc đầu, nhìn xuống cái tẩu và bọn trẻ.

“Bài báo cáo này thật xuất sắc, ông Schuyler.” Reynie nói khi cậu biết rõ ông Schuyler mong chờ lời nhận xét. “Việc đó thật kinh khủng và cũng gây tò mò đấy. Cháu có thể hỏi ông một câu nữa về họ được không ạ?”

Ông Schuyler giả vờ kiểm tra đồng hồ, sau đó thở dài vẻ khoan dung, trong khi ông ta đã không hề quan tâm thời gian mà cứ nói và nói mãi, nhưng lại hành động như thế khi bọn trẻ hỏi. “Được thôi, chàng trai trẻ. Điều gì nào?”

“Những văn bản bị mất cắp. Chúng là cái gì ạ?”

“Những văn bản? Ổ, chúng là những tấm bản đồ của thứ gì đó.”

“Những tấm bản đồ?” Reynie lặp lại, mặc dù tất nhiên cậu đã biết là gì. Cậu đang mong ông Schuyler có thể cung cấp manh mối địa điểm của hòn đảo đó. “Chính xác là tấm bản đồ của cái gì ạ?”

Ông Schuyler dường như không thích câu hỏi này. Khó chịu, ông ấy sốt ruột gõ cái tẩu thuốc lên mặt bàn. “Chúng ta không biết. Những tài liệu đó được sắp xếp và ghi chép hơn một năm trước và không ai xem xét lại chúng.”

“Ai đã sắp xếp và ghi chép chúng ạ?” Reynie khăng khăng, nhìn ông Schuyler và Sophie. “Chúng cháu có thể nói chuyện với người đó không ạ?”

Sophie nhìn ông Schuyler, và Reynie đã hiểu ra. Hiển nhiên ông Schuyler là người đó. Và rõ ràng ông ấy không kiểm tra những tấm bản đồ.

“Ta không thể ghi nhớ mọi điều ta nhìn thấy!” Ông Schuyler giận điên lên. “Ta khá bận bịu với công việc ở đây, các cháu.” Ông ta bật dậy khỏi ghế. “Mặt khác, ta có những việc cần chú tâm mọi lúc. Chúc một ngày tốt lành, các cháu. Ta hy vọng các cháu sẽ hợp tác với cảnh sát. Làm ơn cư xử đúng chừng mực.”

“Cảnh sát?” bọn trẻ khóc thét.

Ông Schuyler mỉm cười. “Ổ, phải, tất nhiên, các cháu phải đợi họ ở đây. Cảnh sát muốn hỏi tất cả những người có liên quan tới vụ tấn công. Các cháu đã hỏi xem những giấy tờ này, nên các cháu phải bị thẩm vấn. Sophie, tôi cho rằng cô đã gọi cảnh sát.”

Sophie đáp lại. “Vẫn chưa, thưa ông,” cô nhìn bọn trẻ vẻ xin lỗi.

“Vẫn chưa!” Ông Schuyler la lên phẫn nộ. “Tuyệt thật, nếu cô không phiền gọi...”

“Tôi sẽ làm ngay,” Sophie nói, nhanh chóng chạy đến bàn mình.

Reynie nhảy đến bên chân ông ta. “Làm ơn, ông Schuyler, ông có thể nghĩ...”

Nhưng ông Schuyler không để cậu nói hết. “Không,” ông ta kiên quyết đáp. “Ta sẽ không.” Ông ta quay người và oai vệ đi ngang qua bàn quản lý vào một căn phòng phía sau.

Với điện thoại trên tay, Sophie nhìn ông ta đi qua. Cô lắng nghe một lúc, sau đó quay lại chỗ bọn trẻ. “Có vấn đề với cái điện thoại này,” cô nói nhanh. “Nó không hoạt động. Cô sẽ cố gọi lần nữa trong một hoặc hai phút tới. Các cháu có muốn sử dụng phòng tắm không? Nó ở tầng dưới.”

“Phòng tắm ư?” Sticky nói.

Kate tóm lấy cậu và thì thầm. “Cô ấy để chúng ta đi, Sticky. Đi nào.”

Chúng nhanh chóng đi ra cửa, chỉ đừng lại đủ để gửi cái nhìn biết ơn đến người thủ thư trẻ.

“Cám ơn, Sophie.” Reynie thì thầm.

“Chúc các cháu may mắn,” Sophie thì thầm đáp trả. Cô nhìn chúng rời khỏi với mối lo lắng lớn, không nghi ngờ gì, cô ấy đã làm đúng khi để chúng đi. Sau tất cả, chúng chỉ là trẻ con. Cho dù chúng đang làm điều gì, cho dù chúng đi đâu bây giờ - chúng có an toàn không?

Đó là một câu hỏi chỉ được chia sẻ giữa bọn trẻ.

Và câu trả lời là không.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3