Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 11 - Phần 2
Mấy đứa theo Sticky đi qua một cánh cửa và xuống một hành lang ngắn. Nếu chiếc chìa khóa này không mở được ngăn tủ khóa, thì bọn trẻ không thể biết được điểm đến kế tiếp, vậy nên với nỗi bồn chồn ghê gớm chúng quan sát Kate tra chìa khóa vào hộc tủ số 37. Cô bé xoay chìa. Khóa bật ra.
Bên trong hộc tủ là một cái phong bì và một xấp tiền giấy. Các tờ tiền có rất nhiều màu sắc, chẳng có gì giống với tiền bọn trẻ quen dùng cả, Constance liền quan sát chúng vẻ nghi ngờ. “Tiền giả à? Tại sao ông lại cho chúng mình tiền giả nhỉ?”
“Đó là giấy bạc đồng euro,” Sticky nói. “Chúng được lưu hành rộng rãi trong liên minh châu Âu.”
“Ok, vậy nó là tiền thật,” Constance nói. “Chúng mình sẽ mua gì bằng tiền này?”
“Vé tàu, anh nghĩ vậy,” Reynie nói, mở lá thư ra và đọc to:
Các cháu đã dùng những món quà của mình để đi xa được đến mức này
(Và làm được hết mức),
Bước tiếp theo cũng dùng đến những món quà đó...
Đặc biệt là của Constance.
“Em á?” Constance thốt lên. “Em sẽ phải làm gì? Trò tiên đoán thời tiết ngu ngốc à?”
Mấy đứa kia nhìn nhau lúng túng.
“Có lẽ em nên quan sát xung quanh,” Reynie gợi ý. “Có thể đáp án sẽ đến với em.”
“Để em nghĩ cái đã!” Constance nói, cảm thấy quá sức với phát hiện này. Cô bé liếc xuôi ngược cả hành lang. “Em thấy những hộc tủ khóa. Thế thôi.”
“Không có kiểu mẫu nào à?” Sticky hỏi.
“Hừm. Các tủ khóa có vẻ được sắp xếp theo trật tự đánh số,” Constance mỉa mai nói. “Em băn khoăn không biết điều đó có quan trọng không.”
Kate bắt đầu chuyển tiền từ hộc tủ vào trong cái giỏ của mình. “Em đang đùa,” cô bé nói, “nhưng có thể các con số quả thực quan trọng.” Cô bé gõ vào con số trên cửa hộc tủ. “Có thể ‘37’ có ý nghĩa nào đó.”
“Nó có thể có nghĩa là ba mươi sáu hộc tủ trước đã bị chiếm trước khi ngài Benedict tới thuê nó,” Constance nói.
“Đó không phải là một ý tưởng tồi đâu,” Reynie nói. “Hãy suy nghĩ về nó xem.”
Nhưng mặc dù cả bọn vất vả suy nghĩ thế nào đi nữa tụi nó vẫn không thấy con số này có gì quan trọng. Trong khi đó, Constance bắt đầu rảo bước đi đi lại lại. Với Constance thì đây là một thái độ không bình thường (hành động này giống kiểu của Reynie hơn), còn Reynie thì tỉ mỉ quan sát cô nhóc, cố gắng hình dung làm sao ngài Benedict lại kỳ vọng chúng khám phá ra manh mối này. Nếu có ai nhạy cảm hiểu tính khí thất thường của Constance thì người đó chính là ngài Benedict. Có vẻ không giống ông lắm khi đặt áp lực như vậy lên cô bé. Thật vậy, ông không dự đoán là cả bọn đi tới được manh mối này, nhưng dù vậy, ông có lẽ không định để Constance hoàn toàn tự mình phải tìm ra đáp án.
Constance giờ đã thôi quanh quẩn và Reynie đột nhiên nhận ra cô nhóc đang gắt gao nhìn cậu chằm chằm.
“Có chuyện gì thế?” cậu hỏi.
“Anh sắp tìm ra được đáp án rồi đấy,” Constance nói. “Em có thể biết được.”
“Anh ư?” Reynie hỏi. “Em có thể ư?”
Sticky và Kate đưa mắt nhìn nhau. Chúng biết điều gì đó quan trọng đang xảy ra.
“Có lẽ đó là ánh mắt của anh,” Constance nói, “hoặc có thể là nét mặt anh, hoặc cái cách anh thở, hoặc... em không biết. Em chỉ thấy thế. Anh sắp sửa nghĩ ra đáp án rồi.” Cô bé tiếp tục nhìn Reynie chăm chăm, bây giờ ánh mắt cô bé đang rà soát tìm kiếm, nửa hy vọng nửa sợ hãi.
Reynie cố gắng giữ điềm tĩnh. Cậu biết Constance cần cậu duy trì bình tĩnh, nhưng thực tế tim cậu đang chạy đua lúc này. Quả thực việc ý nghĩ của cậu bị tiết lộ ra như thế thật hết sức kỳ lạ. Vì các suy nghĩ của cậu trong vấn đề này mới chỉ thay đổi có một chút, không phải vậy sao? Cậu bắt đầu mở rộng thêm tầm bao quát của manh mối này, để suy xét làm thế nào nhìn nó theo một phương cách khác...
“Đó!” Constance kêu lên, đúng lúc Reynie mắt mở lớn miệng há ra định nói. “Anh tìm ra rổi đấy!”
Miệng Reynie liền ngậm ngay lại. Cậu hít vào một hơi thật sâu. “Được rồi, cái đó không được ổn lắm, Constance ạ.”
“Nói cho em nghe xem nào,” Constance nói. “Nghĩ xem với em nó thế nào.”
Kate không thể giữ im lặng lâu hơn nữa. “Vậy cái gì thế? Đáp án là gì? Nói cho bọn tớ đi, nói to lên!”
“Đó là cái mặt dây chuyền,” Reynie nói, chỉ vào chiếc vòng cổ mới của Constance. “Ngài Benedict không ám chỉ ‘món quà’ như là ‘tài năng’, ông ấy có ý nói ‘món quà’ trong nghĩa ‘quà cáp’!”
Kate bật cười. “Vậy thì em biết gì không? Món quà của em là một manh mối trá hình đấy! Thôi nào, Constance, chúng mình cùng xem nào!”
Constance tháo cái vòng ra và cầm mặt dây chuyền đưa ra trước mặt, xoay trái địa cầu thu nhỏ lộn vòng vòng trong mấy ngón tay. Cô bé đăm đăm nhìn nó buồn bã, lại một lần nữa ngưỡng mộ màu xanh lá và nước biển xanh sẫm đó với viên pha lê nhỏ sáng lấp lánh. “Thế giới là con sò của cháu,” ngài Benedict đã viết thế trong tấm thiệp sinh nhật của cô bé và lúc này cả bọn hiểu rằng ông đã dụng tâm vào đó nhiều hơn vẻ bề ngoài ban đầu của nó. Ông đã lên kế hoạch cho chuyến đi vòng quanh thế giới hào hứng này - trong chuyến đi ấy Constance và mấy đứa sẽ bám theo sau ông.
Constance dúi cái mặt dây chuyền về phía Kate. “Đây,” cô bé nói bằng một giọng nghèn nghẹn. “Cứ xem nó như các anh chị muốn.” Cô bé quay người và đi vài bước xuôi theo hành lang, vẻ buồn bã thấy rõ.
Mấy đứa còn lại nhìn theo cô bé ái ngại, nhưng chúng chẳng thể làm gì để an ủi Constance vào lúc này. Chúng vẫn phải tìm hiểu để biết nơi sẽ đến tiếp theo, điều đó đang được chứng minh là không dễ dàng như chúng hy vọng. Các châu lục và đại dương trên quả cầu mặt dây chuyền được mô tả rõ ràng, nhưng chẳng có dấu hiệu nào đánh dấu đích đến cả, viên pha lê được đặt ở chính giữa Thái Bình Dương - chẳng có vẻ giúp ích được gì.
“Có nghĩ ra điều gì không?” Kate hỏi.
Reynie đang vò đầu. “Ngài Benedict đã viết rằng thế giới là con sò của cô bé, đúng không? Tớ nghĩ con sò này chắc phải có ngọc ở bên trong. Câu hỏi là làm thế nào để chúng mình lấy được nó. Có thể có một cơ cấu vận hành nào đó ở bên trong. Thử ấn lên viên pha lê xem.”
Kate ấn lên viên pha lê. Chẳng có gì xảy ra cả. Cô bé cố thử di chuyển nó lên xuống như một cái công tắc, rồi vặn nó giống một cái đĩa quay. Mặc dù vậy, viên pha lê được gắn chắc chắn, không hề nhúc nhích. Cô bé xoay quả cầu, cẩn thận xem xét nó từng tí một. Kate liếc xuống lối hành lang nhìn Constance và thì thầm, “Các cậu nghĩ chúng mình có nên đập vỡ nó ra không?”
Sticky nhăn mặt. “Tớ hy vọng là không. Con bé đủ buồn rầu rồi.”
“Ngài Benedict sẽ không làm thế với Constance đâu,” Reynie nói. “Chắc chắn phải có cách nào đó.”
“Tớ có thể cậy viên pha lê ra bằng con dao của mình,” Kate nói. “Có thể nó giấu thứ gì bên dưới. Tụi mình có thể đặt viên pha lên lại chỗ cũ sau.” Cô bé nhún vai. “Buồn cười thật, các cậu biết đấy, chúng mình sống sót cũng đủ lâu rồi mà.”
Sticky che mặt. “Tớ ghét khi cậu nói kiểu ấy.”
“Cậu có thể làm thế mà không làm vỡ hay xước mặt dây chuyền không?” Reynie hỏi.
“Tớ nghĩ vậy,” Kate nói. Cô bé ngắm nghía thật gần các mép viên pha lê để xem chính xác nó được đặt vào đó thế nào. “Chờ một phút, hình như có gì đó...” Cô bé đưa viên pha lê lên cao để nhìn bằng một mắt. “Oa!”
Constance vội vàng quay trở lại với chúng. “Gì thế? Nó là cái gì thế?”
Cười toe toét, Kate đưa cô bé cái mặt dây chuyền. “Viên pha lê đó không như bề ngoài chúng ta tưởng. Đừng chỉ nhìn ngắm nó. Hãy thử nhìn xuyên qua nó đi.”
Constance che một bên mắt và giơ cái mặt dây chuyền lên thật gần mắt bên kia. Cô bé giật mình. “Oa!” Cô bé kéo mặt dây chuyền xuống nhìn nó như thể chưa bao giờ trông thấy nó trước đây, rồi lại đưa nó tới gần nhìn vào viên pha lê lần nữa.
Viên pha lê này, theo như lũ con trai vừa tự mình phát hiện, thì nó chính là một cái kính lúp. Nhìn qua đó sẽ thấy được một tấm bản đồ Hà Lan được giấu bên trong mặt đây chuyền. Tấm bản đồ này nhỏ hơn cả một con tem thư nhưng hoàn toàn thấy được khi nhìn qua viên pha lê. Một giấu X màu đỏ đánh dấu thành phố có tên Thernbaakagen, và ở phía dưới tấm bản đồ có tên một khách sạn và địa chỉ một con phố.
“Tớ trông thấy thành phố đó trên bảng lịch trình,” Sticky nói. “Có một chuyến tàu sẽ khởi hành đến đó trong mười phút nữa!”
“Vậy thì đến lúc bắt tàu rồi,” Reynie nói.
***
Khi các thành viên của Hội Benedict Thần Bí vội vã bắt chuyến tàu của chúng thì Jackson và Jillson - có phần ít vội vã hơn nhưng rất có chủ đích - bước vào nhà ga. Với gương mặt cau có, chúng rà soát trong đám đông. Cả hai đều không có phương pháp đặc biệt nào, ban đầu việc tìm kiếm của chúng bừa bãi, lung tung. Tuy nhiên, sau vài phút quan sát không có kết quả, Jackson nảy ra ý tưởng bắt đầu ở một sân ga và từ từ đi dọc theo tất cả các sân ga cho tới khi chúng tới đầu kia của nhà ga. Hắn nói với Jillson sẽ làm thế.
“Tao không thích bị bảo phải làm gì đâu nhé,” Jillson nói.
“Có lẽ là không,” Jackson đáp. “Nhưng mày cũng không thích phải quyết định cơ mà.”
“Đúng thế,” Jillson nói, cô ta bắt đầu đi bộ, sượt qua một doanh nhân trẻ, người này đánh rơi tờ báo và suýt ngã. “Vậy nói tao biết phải làm gì đi, Jackson, nhưng mày không nói với tao lý do tại sao. Lần cuối cùng, tại sao chúng ta lại có mặt ở ga tàu hỏa hả?”
Jackson phớt lờ cô ta. Chúng vừa đến sân ga đầu tiên. “Mày nhìn hướng đó đi, thẳng vào trong ga,” hắn nói, tự hài lòng vì đã nghĩ ra một phương pháp có hệ thống, “còn tao sẽ xem lối này, về phía các sân ga chờ.”
Jillson cằn nhằn và làm theo Jackson bảo, nhưng sau khi đi qua hai sân ga đầu tiên cô ta vẫn chẳng thấy tăm hơi đứa con gái cận lòi có mái tóc hoang dã mà chúng đã thấy ở lâu đài, con bé đó có lối cư xử khiến người ta phải tò mò và trông quá quen thuộc. Rồi cô ta nhớ ra Jackson chưa hề trả lời câu hỏi. “Này,” cô ta nói, “nói tao biết tại sao chúng ta ở đây hoặc không tao sẽ nện mày một trận đấy.”
Lần này Jackson hạ cố trả lời. “Bởi vì Benedict đã đến đây, Jillson. Mày không nhớ à? Lão và cái ả đàn bà trông lo lắng bồn chồn đó đã đến đây vào cùng buổi sáng hôm bọn chúng tới lâu đài.”
“Dĩ nhiên tao nhớ chứ. Nhưng vậy thì sao?”
“Vậy thì chúng đến và lại rời đi mà không bắt chuyến tàu nào. Và chúng chưa hề bắt tàu. Chúng rời đi bằng máy bay. Điều đó có nghĩa chúng đến đây vì thứ gì đó ở sân ga này, Jillson ạ, thứ gì đó quan trọng hơn là bắt một chuyến tàu.”
Jillson ngây ngẩn ra nhìn hắn. “Là thế à?”
“Phải, đúng thế,” Jackson khinh khỉnh đáp. “Ngoài lâu đài đó, đây là nơi duy nhất trong thành phố này chúng ta biết có liên quan tới Benedict. Nếu chúng ta thấy kẻ nào đó khả nghi vội vã rời khỏi địa điểm đầu tiên, và rồi chúng ta không tìm thấy nó trên đường phố, mày không nghĩ chúng ta nên tìm kiếm quanh...”
Khi Jackson nói đến đó bọn chúng đang đi tới sân ga kế tiếp, ở đấy một đoàn tàu đang chuẩn bị rời đi. Sân ga bây giờ vắng tanh - tất cả hành khách đã lên tàu - ngoại trừ một đứa con gái vọt lên toa tàu cuối cùng ngay khi tàu bắt đầu chuyển bánh.
Một đứa con gái tóc vàng với một cái giỏ.
Jackson dừng cuộc truy tìm. “Tao vừa trông thấy Kate Wetherall lên chuyến tàu kia!”
“Tao cũng vậy,” Jillson nói, cô ta đã quên bẵng mất công việc của mình, rời mắt khỏi chuyến tàu đó rồi lại nhìn vào đám đông ở ga. Và vì cô ta không nhìn theo hướng kia, nên không thấy một doanh nhân đã hiện ra từ đám đông và đi đến đứng sau cô ta và Jackson.
Doanh nhân này không phải gã đàn ông trẻ tuổi mà Jillson va phải lúc trước. Gã này xách một cái cặp táp, mặc một bộ vét đắt tiền, nước hoa đắt tiền và đeo hai chiếc đồng hồ đắt tiền - mỗi cổ tay một chiếc. Jillson đã thấy gã đàn ông này lúc trước thì sẽ không bao giờ có chuyện cô ta vô tình va vào hắn.
“Kate Wetherall,” Jillson vẫn đang nói, “à, à, trông giống con bé đó đây. Nhưng làm sao chúng ta biết chắc? Tao không muốn báo cáo nếu chúng ta không chắc chắn. Ông ấy không thích ai mắc sai lầm đâu, mày biết đấy.”
“Chúng ta có thể chắc chắn không à?” Jackson nhại lại cười khinh bỉ. “Trên đời này còn có đứa con gái nào mang theo một cái giỏ đi khắp mọi nơi hả, Jillson? Đó là Kate Wetherall, không nghi ngờ gì cả. Hãy tìm hiểu xem chuyến tàu đó đi tới đâu, và sau đó...”
Jackson ngừng nói. Hắn cứng đờ người. Hắn đã ngửi thấy mùi hương của thứ nước hoa đàn ông đắt tiền. Jillson, nhận thấy hành vi kỳ quặc của Jackson, cũng cứng người lại. Chúng quay lại và phát hiện ra gã doanh nhân kia đang đứng phía sau mình. Gã đàn ông trông nghiêm túc, nhưng ánh mắt thì biểu lộ một sự thỏa mãn rành rành thậm chí là khoái trá. Đặt chiếc cặp táp xuống đất, gã dặt một bàn tay lên vai Jackson, tay kia trên vai Jillson.
“Làm việc tốt lắm,” hắn nói. “Giờ đi với ta.”