Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 09
Chương 9: Các chỉ dẫn, những hồi tưởng,
và những món nợ chưa trả
Ý nghĩ đầu tiên
lướt qua đầu Reynie là cậu đang đói lắm. Cậu đã không ăn gì từ tối hôm trước,
và bây giờ - à, rốt cuộc mấy giờ rồi nhỉ? Cậu chẳng biết mình đã ngủ bao lâu
nữa. Ít nhất cơn ốm mệt cũng đã qua, Reynie sẽ lựa chọn những cơn đau quặn vì
đói còn hơn là say sóng. Reynie sẽ chọn hầu hết mọi điều còn hơn là say sóng.
Cậu, Sticky và Constance đã mất cả đêm đầu tiên trên con tàu Đường Tắt
này với cảm giác ốm yếu hơn bao giờ hết. (Kate, đã chỉ cho bọn bạn tới rất
nhiều phòng tắm, còn nàng thì ngủ ngon lành trong ca bin yên tĩnh.) Khi cơn nôn
nao của chúng cuối cùng cũng dịu đi vào sáng sớm, cả bọn đều lăn kềnh vào
giường và ngủ thiếp đi. Reynie có một ký ức mơ hồ - hay đó là một giấc mơ? - về
thuyền trưởng Noland đang nói chuyện với Kate bằng giọng thì thào ở cửa ca bin, nhưng rồi cậu lại hoàn toàn quên béng mất mãi cho tới
lúc này.
Tâm trí Reynie phút chốc
chuyển hướng tới ngài Benedict và Số Hai. Chỉ còn lại ba ngày, cậu nghĩ, và sự
khẩn cấp cậu cảm thấy từ buổi sáng hôm qua bám riết lấy cậu với cảm giác căng
thẳng mãnh liệt mới. Cậu mở choàng mắt ngồi dậy. Ca bin tối như bưng. Có lẽ
Kate đã che thứ gì đó lên ô cửa sổ để giúp họ ngủ yên chăng? Không, liếc mắt
nhìn ô cửa sổ cho thấy không có thứ gì như thế cả. Cậu gãi đầu và ngáp, để rồi
phải ngậm vội miệng lại - cắn cả vào lưỡi đau điếng - khi Kate nhảy chồm ra từ
bóng tối tót lên giường cậu. Cô bạn chiếu chiếc đèn trên bút máy vào mặt cậu.
“Có chuyện gì thế?” Kate hỏi.
“Tớ làm cậu sợ à?”
“Đừng bận tâm,” Reynie gắt
gỏng nói. “Chuyện gì đang diễn ra thế? Tớ đã bất tỉnh bao lâu rồi?”
“Quá lâu. Giờ là buổi tối
rồi. Thuyền trưởng sẽ đến đây sớm thôi.”
“Buổi tối á?”
“Phải, tớ đã chờ các cậu tỉnh
dậy đến phát điên đấy,” Kate nói. “Đạn Thần Công cho tớ đến thăm Madge ít phút
vào giờ ăn trưa, nhưng còn lại tớ bị giam chần ở đây cả ngày mà chẳng có ai để
nói chuyện cả. À tiện đây, cô bé đang khỏe lắm. Đạn Thần Công tặng cho cô nàng
ít thịt lấy từ nhà bếp - anh ấy gọi nó là ‘thức ăn của ếch’ - và tớ nghĩ cô bé
có lẽ đang phải lòng anh ấy mất rồi.”
“Thuyền trưởng đã đến rồi à?”
Reynie hỏi. “Hay tớ nằm mơ?”
“Không, ông đến vào sáng nay.
Cậu không nhớ à? Cậu đã ngồi dậy và nói gì đó như là ‘trứng bác’, rồi lại ngã
xuống ngủ.” Kate dúi cho cậu một mảnh giấy. “Ông ấy mang đến cái này. Ông không
chắc nó có nghĩa gì, nhưng nói là hôm nay ông đã nghĩ về nó.”
Reynie nhìn mảnh giấy, nhưng
tối quá không đọc được. “Thuyền trưởng đọc cái này à? Ông ấy không đợi chúng
mình xem trước à?”
“À, không,” Kate nói. “Ông đã
xem nó. Tớ chắc ông ấy chỉ muốn giúp đỡ thôi.”
“Tớ cũng nghĩ thế,” Reynie
khó chịu nói. Rhonda đã để chúng mở phong bì trước, và chẳng hiểu sao cậu đã kỳ
vọng thuyền trưởng Noland cũng sẽ làm vậy. Nhưng các tình huống ở nhà ngài
Benedict thì khác, Reynie tự nhắc mình. Dù sao, chẳng lẽ cậu không vui khi
thuyền trưởng quan tâm sao?
“Tớ đã nhìn chòng chọc vào nó
suốt cả ngày,” Kate vẫn đang nói. “Nó không hẳn là một câu đố nữa - có phần
giống các chỉ dẫn hơn - nhưng tớ vẫn chẳng tiến triển được mấy với nó cả.”
“Cho tớ mượn cái đèn bút của
cậu nào,” Reynie nói rồi soi cái đèn lên mảnh giấy, cậu đọc:
Làm tốt lắm, các bạn nhỏ của
ta, và chúc chuyến vượt biển của các cháu thật vui vẻ! Vui lòng lần theo dấu
vết của các cháu lên chỗ những manh mối dẫn dắt các cháu - đó là nơi các cháu
sẽ tìm thấy chiếc phong bì tiếp theo! - Ngài Benedict.
Ở giữa trang giấy trống trơn
ngoại trừ một vết cháy sém lớn (“Không phải tin nhắn bằng nước chanh đâu,” Kate
thì thào.) Reynie rà xuống phía dưới cùng, chỗ đó ngài Benedict viết các dòng
tiếp:
Lâu đài trùng tên với Sticky
Dựa vào bức tường tận cùng
phía tây
Không nhìn thấy được
Cần dụng cụ
Gần những cây olive
Không nút bẩn hay gỗ thông
cho hai mét.
“Tớ đoán lâu đài này phải ở
trên một ngọn đồi,” Kate nói, “đó là lý do ông đã nhấn mạnh nói đi lên tới chỗ
các manh mối dẫn dắt đến. Nhưng tớ chưa bao giờ nghe nói đến một lâu đài nào
tên Sticky hay George hay Washington hay bất cứ gì đại loại thế cả, còn cậu?”
Reynie lắc đầu. “Dù vậy, tớ
sẽ đánh cuộc Sticky biết.”
“Tớ sẽ đánh thức cậu ấy dậy,”
Kate nói, lăn xuống khỏi giường.
Một lát sau Sticky la lên oai
oái trong bóng tối, và Reynie nghe thấy Kate hỏi, “Tớ làm cậu sợ à?”
Sticky vẫn còn đang cằn nhằn
với cô bạn thì thuyền trưởng Noland đến cùng với bữa tối của chúng. Ông mang
đến một cái khay chất đầy bánh kẹp bơ lạc, hoa quả, bánh quy và sữa. Tuy nhiên,
ông rất ngại ngùng vì không có cà phê.
“Bác e là đã để quên ấm cà
phê ở đây tối qua,” thuyền trưởng Noland nói, khi họ đã đánh thức Constance và
bật đèn lên. “Và ông Pressius yêu cầu phải để ấm cà phê của ông ta trong ca bin
riêng nên bác chẳng còn cái nào khác cả.” Lũ trẻ sốt sắng đảm bảo với thuyền
trưởng rằng chuyện này hoàn toàn ổn cả, rồi đói khát tấn công đồ ăn. (Constance
như thường lệ với tới món bánh quy trước tiên.)
“Bác mừng khi thấy các cháu
khỏe hơn,” thuyền trưởng Noland nói, còn bản thân ông lại có vẻ đang trong tình
trạng sức khỏe thật tồi tệ. Bộ quân phục nhăn nhúm nhầu nhĩ hơn bao giờ hết,
nhưng rõ ràng ông đã không ngủ được chút nào. Hai bờ vai ông chùng xuống, đôi
mắt vằn tia máu sưng húp, và ông đang kìm nén một cái ngáp khi hỏi, “Có may mắn
nào với lá thư không? Bác e là bác không có cơ hội để suy nghĩ về nó nhiều lắm.”
“Thực ra, bọn cháu cũng thế,”
Reynie nói. “Cháu mới chỉ liếc qua được nó, còn Constance và Sticky thì chưa
nhìn thấy nó nữa.” Cậu cố đưa lá thư cho Constance, nhưng cô bé vẫn còn rất lảo
đảo (quá lảo đảo nghiêng ngả đến nỗi cô nhóc quên mất cứ vơ lấy phần bánh bích
quy nhiều hơn phần ăn của mình), và cô nhóc từ chối đón lấy nó. “Em sẽ xem nó
sau,” cô bé con lúng búng nói.
Vậy nên Reynie chuyển lá thư
cho Sticky, cậu này vừa mới liếc nhìn một cái đã reo lên, “Này, cái này dễ quá!
Đó là một lâu đài ở Lisbon!”
Lời vừa ra khỏi mồm Sticky là
Kate đã vỗ lấy vỗ để vào lưng cậu ta (mạnh đến nỗi cậu bạn gần như mắc nghẹn
miếng bánh kẹp), còn Reynie thì nhắc đi nhắc lại mãi câu, “Tớ đã biết là cậu
biết đáp án mà,” mặt cậu ta đỏ bừng vì phấn khích. Ngay cả Constance cũng thể
hiện sự tán thưởng bằng cách không chôm bánh quy của Sticky trong khi cậu ta
đang bị làm cho xao lãng. Bọn chúng đã cần hy vọng đến nhức nhối, và Sticky đã
cho chúng điều đó.
Sau khi yên tĩnh trở lại,
thuyền trưởng Noland nói, “Jorge là họ của cháu hả, Sticky?”
“Là Geogre ạ,” Sticky đáp.
“Ồ, dĩ nhiên!” thuyền trưởng
Noland, trông khá bị ấn tượng. (Sticky, đang tươi tỉnh rạng rỡ, giờ rõ ràng
được soi sáng).
“Có ai trong các vị vui lòng
giải thích cho những người còn lại chúng cháu được không?” Constance nói.
“Lâu đài Thánh George,”
thuyền trưởng Noland nói. “Ở Bồ Đào Nha được gọi là Castelo de São Jorge và vì
nó ở Bồ Đào Nha, nên ta luôn nghĩ đến nó như thế. Cháu học nói tiếng Bồ Đào Nha
ở đâu thế, Sticky? Hay bác nên gọi cháu là Jorge?”
Sticky cười giòn - có hơi bồn
chồn, dường như hướng tới Reynie - nói, “Cháu biết rất nhiều ngôn ngữ. Đó chẳng
phải việc gì to tát, thật đấy.” (Reynie nhận thấy đây không thật chính xác là
câu trả lời cho cầu hỏi của thuyền trưởng Noland, nhưng ông ấy không nhận ra
hoặc cũng không để ý.)
“Bác có thể tưởng tượng được
lý do Nicholas chọn để cử các cháu lên trên đó,” thuyền trưởng Noland nói. “Ông
ấy rất thích quang cảnh từ trên tòa lâu đài đó nhìn xuống mặt đất. Có lẽ ông
muốn chia sẻ nó với các cháu.”
“Vậy là lâu đài đó ở trên một
ngọn đồi,” Kate góp lời. “Cháu nghĩ thế.”
“Ngọn đồi cao nhất ở Lisbon
đấy.” Đôi mắt mệt mỏi của thuyền trưởng Noland bất chợt trông có vẻ trầm tư và
u uất, như thể ông đang đăm đăm nhìn qua chúng tới một thời điểm khác. “Nicholas
và bác đã lên trên đó cùng nhau một lần nhiều năm trước đây. Ông ấy đã rất xúc
động trước khung cảnh đó đến nỗi rơi vào giấc ngủ và gần như ngã lộn qua tường
lâu đài. Ôi, bác sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân nếu ông ấy ngã! Bác đang
mải ngắm một cái phà dưới dòng sông và không để mắt đến ông ấy. Đáng ra bác nên
chú ý hơn.”
“Chuyện gì đã xảy ra ạ?”
Constance hỏi, hơi thở gấp gáp hơn một chút, như thể ngay lúc đó ngài Benedict
sắp ngã xuống từ vách núi dựng đứng.
“Ông ấy ngã ngửa ra sau. Đơn
giản thế thôi. Ông ấy đã bị đụng mạnh vào đầu, nhưng khi bác nghĩ tới khả năng
thay thế kia...” Thuyền trưởng Noland rùng mình. “Chỉ thế thôi,” ông nói, bật
ngón tay đánh tách, “và bác đáng lẽ đã mất người bạn của mình mãi mãi - không
kể đến tất cả những cuộc đời đã được ông ấy cứu năm đó. Và đó sẽ hoàn toàn là
lỗi của một mình bác.”
“Bức tường tận cùng phía Tây
có gần chỗ ông ngã không?” Reynie hỏi. Cậu có nhiều câu hỏi hay ho muốn hỏi -
ví dụ như, chuyện ngài Benedict đang cứu sống những cuộc đời là sao? Thuyền
trưởng muốn nói đến mạng sống của những ai? Nhưng việc cấp thiết hơn ngay bây
giờ là hiểu rõ manh mối này và bọn họ sẽ làm gì với nó.
“Quả là thế,” thuyền trưởng
Noland nói. Ông ngáp dài và chỉ về phía cái rương vẫn được buộc với chiếc
giường ở dưới. “Bác không nghĩ có còn lại chút cà phê nào trong ấm đó. Các cháu
đã uống hết tối qua rồi à?”
“Chúng cháu, uhm - chúng cháu
không thể uống ạ,” Reynie nói. “Chúng cháu bị say sóng ngay sau khi bác rời
khỏi.”
Thuyền trưởng Noland luồn qua
cậu và mở cái rương ra. “Sao, vẫn còn đến nửa ấm này! May quá!” Ông lau qua cái
tách của mình từ tối hôm qua rồi đổ đầy vào nó thứ chất lỏng đen xì phát ngấy
kia. Có lẽ vì trời lạnh và để lâu nên hương vị của thứ cà phê đó đã được cải
thiện hơn, Reynie thầm nghĩ; chắc chắn không thể khiến nó tệ hơn được nữa. Dù
sao ngài thuyền trưởng cũng đã quên mời chúng uống một ít, và bọn chúng thấy
vui mừng vì điều đó.
Thuyền trưởng Noland một hớp uống
hết nửa tách cà phê, rồi lại đổ đầy nó, sau đó đóng nắp chiếc rương và ngồi lên
trên. “Tốt hơn nhiều rồi,” ông nói. “Bác chẳng có ích gì cho các cháu cả nếu
bác ngủ. Giờ thì, theo như các chỉ dẫn của Nicholas, tất cả chúng đều có ý
nghĩa đối với bác. Mọi chuyện có lẽ sẽ thuận lợi hơn khi chúng ta lên tới lâu
đài ấy.”
“Là thế nào vậy ạ?” Reynie
hỏi.
“À, như các cháu có thể hình
dung, ở lâu đài đó không có cây olive nào cả,” ngài thuyền trưởng nói, “vậy nên
Nicholas hẳn phải ám chỉ tới khu vực bên ngoài lâu đài, đó là một nơi khá giống
một cái công viên lớn. Bác còn nhớ một bức tường trải dài trên mặt phía tây,
nhưng bác chắc chắn các manh mối khác - theo miêu tả ở gần chỗ những cái cây và
- sẽ thu hẹp khu vực xuống một cách chính xác. Không nghi ngờ gì việc chúng ta
sẽ thấy ngay chỗ ông ấy chôn cái phong bì đó. Chúng ta sẽ tìm một vùng đất mới.”
“Bác nghĩ nó được chôn dưới
đất ạ?” Sticky hỏi.
“Chắc chắn đó là điều
Nicholas ám chỉ bằng cụm từ ‘không nhìn thấy’ và ‘cần dụng cụ’. Ông ấy ám chỉ
cho chúng ta đào nó. Bác sẽ nhờ Joe kiếm một cái xẻng ngay khi chúng ta cập
cảng.”
Lũ trẻ nhìn nhau với những
biểu cảm nhẹ nhõm và ngạc nhiên.
“Thế đấy, cái đó thật dễ
dàng,” Kate nói, đút lá thư vào cái giỏ của mình. “Giờ tất cả những gì chúng ta
phải làm là đến đó!”
“Các cháu cứ để việc đó cho
bác,” thuyền trưởng Noland nói. “Bác sẽ gọi điện đàm đi trước để đặt một chiếc
taxi chờ ở bến cảng. Chúng ta sẽ không phải lãng phí chút thời gian nào. Joe và
bác sẽ thay thường phục - tốt hơn hết là tránh bị để ý - và đồng hành với các
cháu tới lâu đài.”
“Ý bác là gì khi nói thường
phục ạ?” Constance hỏi “Bác không phải một dân thường ạ?”
“Ha!” thuyền trưởng Noland
reo lên, gãi gãi râu. “Một thói quen cũ thôi, Constance ạ. Bác ở trong hải quân
quá lâu, bác quên là mọi thứ đã thay đổi. Bác chỉ định nói bọn bác sẽ không mặc
đồng phục này.”
“Cái đó nhắc cháu nhớ ra,”
Kate nói. “Có phải bác nói bác và ngài Benedict gặp nhau trong hải quân không
ạ?”
“Đúng thế,” thuyền trưởng
Noland đáp. “Bọn bác ở trong cơ quan tình báo của hải quân cùng nhau. Dĩ nhiên,
đấy là chuyện rất lâu rồi... Nicholas chưa từng kể cho các cháu à?” Thấy những
khuôn mặt ngơ ngác, thuyền trưởng nén cười lắc lắc đầu. “Cái đó không làm bác
ngạc nhiên. Ông ấy không thể kể cho các cháu nhiều mà không khoe khoang khoác
lác - và Nicholas lại không phải kẻ khoe khoang. Dù vậy, bác rất vui được khoe
khoang về ông ấy. Bác từng đùa rằng ông ấy đã cứu cả trăm mạng người mỗi buổi
sáng trước bữa ăn sáng, và sự thật cũng không khác là mấy. Chúng ta khi đó đang
trong một cuộc chiến khủng khiếp - một cuộc chiến dài đã bị lãng quên nên giờ
không có ai thích nói về nó nữa - và Nicholas là người giải mã giỏi nhất của
chúng ta. Bất cứ khi nào đường truyền tin của quân địch bị chặn lại, chúng ta
lại mang nó đến thẳng chỗ ông ấy. Ông ấy thường giải mã chỉ trong vòng có vài
phút, có khi còn nhanh hơn ấy. Binh lính của chúng ta đã tránh được cuộc tấn
công bất ngờ đều nhờ có Nicholas.”
Lũ trẻ cười tươi rói, vui
sướng được nghe những điều tốt đẹp về ngài Benedict. Trong khi vắng ông, chúng
nhận ra là chúng đặc biệt háo hức đón nhận mọi chi tiết liên quan tới ông - như
thể bằng việc gom góp những chi tiết đó lại chúng có thể, bằng cách nhỏ bé nào
đó, mang ông quay trở lại.
“Không phải bác đã nói ông
cũng đã từng cứu sống bác một lần sao?” Reynie hỏi.
Thuyền trưởng Noland uống nốt
phần cà phê còn lại trong tách và đứng dậy mở rương ra. Ông lấy ra cái ấm cà
phê và lại đổ đầy tách. “Thực ra, Nicholas cứu sống bác hơn một lần cơ. Lần đầu
là khi chúng ta đang thực thi một nhiệm vụ bí mật - một nhiệm vụ quan trọng
khác thường - ban đầu họ không cử Nicholas đi, ông ấy không bao giờ làm nhiệm
vụ bên ngoài. Chứng ngủ rũ có thể khiến ông ấy gặp nguy hiểm, các cháu biết
đấy. Thế là, chúng ta xoay xở tìm cách hoàn thành nhiệm vụ ấy, nhưng rồi chúng
ta đã bị quân địch bắt. Bác nên nói là bác bị bắt thì đúng hơn. Nicholas thì
không. Nhưng để cứu bác, ông ấy đã giao nộp bản thân cho những kẻ bắt giữ bác.”
Thuyền trưởng Noland lại an
vị trên cái rương. “Bác chắc các cháu đang nghĩ chính điều bác nghĩ lúc đó. Làm
thế quái nào mà ông ấy hy vọng cứu bác bằng cách hy sinh mình chứ? Thế là, đó
chính là lúc bác phát hiện ra Nicholas là người đàn ông thuyết phục nhất trên
thế giới này. Kỳ diệu vậy đấy. Qua hai ngày kế tiếp, ông ấy nói chuyện với mọi
sĩ quan trong trụ sở đầu não của địch. Nếu ông ấy không thể thuyết phục được
một sĩ quan tin những gì ông nói, thì ông sẽ đổi chiến thuật, tranh cãi rằng
một sĩ quan khác nên được cử đến để nói chuyện với ông. Cách này hay cách khác,
ông luôn thành công, đến cuối ngày thứ hai ông ấy đã tìm được những điều đúng
đắn cần nói với đúng người, và đã thuyết phục được kẻ địch rằng chúng ta nên
được thả đi. Tới hôm nay, bác vẫn không thể tin được điều đó.”
“Thật kinh ngạc,” Kate thốt
lên. “Làm sao ông có thể làm được thế nhỉ?”
“Bác không biết chắc nhưng
bác nghĩ một phần lời giải đáp là người ta cảm thấy có điều gì đó ở Nicholas
khiến họ tin cậy ông ấy. Và dĩ nhiên đó là lý do thật hay. So với Nicholas,
ngay cả người đàn ông giỏi nhất cũng không đáng tin cậy.”
Reynie cảm thấy một nỗi nghi
ngờ bất chợt nhói lên. Lời cuối cùng này của thuyền trưởng nghe khá giống một
lời bào chữa, như thể một người có thể không đáng tin cậy nhưng vẫn có thể được
cho là “người đàn ông tốt nhất”. Còn hơn thế là biểu cảm của ngài thuyền trưởng
đã thoáng biến đổi tinh vi theo cái cách mà Reynie không thể lý giải được. Có
lẽ ông chỉ đơn thuần cảm thấy ghen tỵ với cá tính đáng tin cậy của ngài
Benedict - hoặc của những con người sáng suốt am hiểu khác. Đó có thể là một
xúc cảm tự nhiên với một người đàn ông tốt mong muốn được tin tưởng hơn. Nhưng
ý nghĩ này vẫn khiến Reynie thấy không thoải mái.
Trong khi đó, Sticky đang hỏi
thuyền trưởng Noland lần khác nữa ngài Benedict cứu sống thuyền trưởng thế nào.
Reynie cố gạt sang một bên những nghi ngờ của mình để lắng nghe. Dù sao thì cậu
thật lòng thích thuyền trưởng Noland. Và nếu ngài Benedict tin tưởng ông ấy,
không phải Reynie cũng nên thế sao?
“Ồng ấy đã cứu bác một lần
nữa bằng cách nói những điều cần nói với đúng người cần biết,” thuyền trưởng
Noland nói. “Lần này, người đó chính là bác. Chiến tranh vừa kết thúc và
Nicholas sắp rời khỏi hải quân để trở về với công việc nghiên cứu của mình. Bác
cũng đang nghĩ đến việc rời khỏi lực lượng hải quân vì một nửa thời gian ở đó
bác thấy cực kỳ khổ sở. Bác lớn lên trên những con tàu - bố bác là một thủy thủ
buôn bán - nhưng cuối cuộc chiến bác cảm thấy đã để lỡ mất hướng đi của mình.
Có cách nào khác để bác giải thích cảm xúc chán nản của mình trong thời gian đó
nhỉ?
Khi bác nói với ông ấy điều
này, Nicholas cười nhiều đến nỗi ông ấy chìm luôn vào giấc ngủ. Bác có thể nói
với các cháu là bác hơi bực bội. Nhưng quả là ông ấy luôn thích cười, khi tỉnh
dậy ông ấy chân thành xin lỗi và nói, “Phil, không phải việc ở trên những con
tàu khiến cho cậu khốn khổ đâu mà là việc phải xuống khỏi tàu. Cậu luôn buồn bã
khi đến cảng, và suốt khoảng thời gian ở trên đất liền - ngoại trừ ngày cậu lại
ra khơi một lần nữa. Điều tồi tệ nhất cậu có thể làm là ở lại trên bờ.”
Thế đấy, điều này thật quá rõ
ràng đến một đứa trẻ đáng lẽ cũng phải thấy, và bác ghét phải nói, bác gần như
bực tức với Nicholas vì đã khiến bác có vẻ quá ngớ ngẩn. Chừng nào còn ở trên
biển, bác đều hạnh phúc - đó là lý do vì sao chuyến vượt biển đầu tiên này lại
quan trọng đến thế. Bác không thể nào đánh mất danh tiếng của mình với tư cách
là một thuyền trưởng được. Việc cho bác lên bờ sẽ đồng nghĩa với việc tuyên án
kết thúc số phận của bác.”
“Thế tại sao bác lại rời khỏi
hải quân?” Constance hỏi.
“Bác cảm thấy không còn lựa
chọn nào khác. Họ đã muốn thăng chức cho bác từ lâu, điều đó dường như thật tử
tế cho tới khi cháu nhận ra là việc thăng cấp sẽ là cử bác đến một vị trí cao
thoải mái dễ chịu và được tôn trọng - trên đất liền. Thật là cực hình! Bác luôn
tìm cách thoái thác nó, nhưng cuối cùng họ khăng khăng làm như vậy. Đó là khi
bác rời lực lượng hải quân và ứng tuyển vào vị trí hiện tại, điều đó dường như
thật hoàn hảo. Đường Tắt sẽ ở trên biển gần như thường xuyên liên tục - nó chất
hàng và dỡ hàng nhanh hơn các con tàu khác, vậy nên sẽ tốn ít thời gian ở cảng
hơn - và khi bác kể cho các ông chủ...”
Thuyền trưởng Noland giọng
nhỏ dần đi, nhìn ngượng ngùng. “Bác lại nói dòng dài quá về lão thuyền trưởng
già tội nghiệp của các cháu rồi. Các cháu muốn nghe kể về Nicholas cơ mà. Một
người đàn ông tốt hơn cả mà ta chưa bao giờ biết - và bất chấp tất cả những
điều không may hẳn các cháu cũng biết. Mất cha mẹ khi còn quá nhỏ, và rồi đấu
tranh dữ dội với căn bệnh ngủ rũ của ông... Bác không định nói chỉ là cái bệnh
ngủ gục kỳ quái đó, mà, ừm, là những cơn ác mộng ấy!”
Thuyền trưởng Noland dụi đôi
mắt đỏ vằn của ông. Trông như chính ông đã phải chịu đựng một đêm ác mộng tồi
tệ. “Nhiều lần Nicholas và bác đã cùng chia sẻ một ca bin,” ông nói, “và tiếng
kêu la kinh hoàng ông ấy bật ra trong giấc ngủ cũng đủ khiến bác phải mở mắt
chong chong và run rẩy hàng giờ. Ông ấy chịu đựng chuyến viếng thăm của những
sinh vật chết chóc hầu như hàng đêm - Mụ Phù Thủy Già, bác còn nhớ, là ảo giác
kinh khủng tồi tệ nhất mà bác ghét nghe nói đến - nhưng các cháu sẽ không bao
giờ đoán được ông ấy đã phải trải qua những gì trong một ngày. Luôn luôn hăm
hở, luôn luôn can đảm kiên cường. Đó là Nicholas. Nhưng ông ấy hy vọng rằng một
ngày - đợi đã!”
Thuyền trưởng Noland đột ngột
cứng đờ người ông làm đổ cả cà phê vào người mình. “Nghĩ xem!” ông reo lên. “Ồ,
đầu óc bác đi đâu rồi? Bác gần như quên mất!” Và vừa nhìn bọn trẻ ông vừa nói, “Thứ
lỗi cho bác. Bác không nhận ra mãi cho tới lúc này, nhưng chúng ta có một manh
mối khác rồi!”