Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 01 - Phần 1
Chương 1: Những bức thư - nước chanh ép
và những nỗi thất vọng lớn
Vào một buổi
sáng trong trẻo tháng Chín, khi hầu hết bọn trẻ cùng trang lứa ở trường nghiền
ngẫm môn phân số và các dấu phẩy thập phân thì cậu bé Reynie Muldoon lại đang
đi bộ dọc theo một con đường lớn đầy bụi bặm. Cậu là một đứa bé trai ưa nhìn -
với đôi mắt và mái tóc màu nâu trung bình, chiều cao trung bình, khoảng cách
giữa mũi và hai tai cũng chỉ ở mức trung bình. Và cậu bé hoàn toàn đơn độc.
Ngoài một con chim ưng đang tung cánh vút lên phía trên con đường quốc lộ và
vài chú chim chiền chiện đang cố giấu mình bay là là trên những cánh đồng bên
kia đường, Reynie là sinh vật sống duy nhất có mặt ở đây.
Thoạt nhìn,
Reynie trông có vẻ giống một đứa trẻ xa nhà đi lạc, nhưng chuyện đó chỉ đúng
một nửa thôi. Ít nhất Reynie cũng thấy thật thú vị khi nghĩ vậy, vì hoàn cảnh
hiện tại của cậu có thể miêu tả hoàn toàn bằng những từ “một nửa”: cậu đã đi xe
nửa ngày đường từ ngoại ô Thành phố Đá đến đây; cách thị trấn gần nhất nửa dặm
đường; và theo như người đàn ông chỉ đường thì hiện giờ cậu chỉ còn cách đích đến của mình một nửa dặm đường nữa thôi. Tuy nhiên
điều quan trọng nhất là đã nửa năm rồi cậu chưa được gặp ba đứa bạn thân nhất
của mình.
Reynie nheo mắt vì ánh mặt
trời. Cuối con đường làng bẩn thỉu cách đó không xa, leo lên một ngọn đồi dốc
đứng, như người đàn ông trong thị trấn đã nói, đó là đích đến của cậu. Trên
ngọn đồi xa xa ấy cậu thấy một trang trại. Và ở đó cậu sẽ tìm thấy Kate
Wetherall.
[Chúc bạn đọc
sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu
sách.]
Reynie cố rảo bước nhanh hơn,
đôi giày khua bụi tung mù mịt. Ôi, chỉ ít phút nữa thôi cậu sẽ được gặp Kate!
Và Sticky Washington
- Sticky cũng sẽ ở đây tối nay! Rồi ngày mai cả bọn sẽ lái xe về Thành phố Đá
để gặp... xem nào, để gặp Constance Contraire, nhưng thế cũng chẳng sao. Ngay
cả ý nghĩ Constance làm cậu bẽ mặt với những
câu thơ vần điệu nhịp nhàng cũng khiến Reynie sung sướng. Constance
có thể là một thiên tài thô-lỗ-trơ-tráo, nhưng cô bé là một trong số rất ít
người trên thế giới này mà Reynie có thể coi là bạn bè thật sự. Constance, Kate và Sticky giống như là gia đình của cậu
vậy. Cậu mới chỉ gặp bọn họ một năm trước thôi, nhưng có hề gì - tình bạn của
nhóm đã nảy nở trong những hoàn cảnh vô cùng khác thường.
Nghĩ vậy Reynie bắt đầu chạy
nhanh hơn.
Vài phút sau cậu đã đứng trên
đỉnh đồi, hai tay chống đầu gối, thở hổn hển như chú cún con. Cậu tự cười nhạo
mình. Rốt cuộc cậu đâu phải là Kate, người có thể chạy một mạch từ thị trấn đến
đây mà không đổ một giọt mồ hôi nào. (Có khi cô bé còn có thể chạy trong tư thế
trồng cây chuối nữa ấy chứ). Năng khiếu trời cho của Reynie chả liên quan gì
đến thể chất - trong lĩnh vực này cậu cũng chỉ ở mức trung bình thôi. Cậu đưa
tay quệt trán, vừa thở hổn hển vừa đưa mắt bao quát cả trang trại rộng thênh
thang trước mặt.
Vậy đây là nhà của Kate: một
ngôi nhà bình thường với kho thóc nhỏ, cả hai đều được quét sơn mới tinh, một
cái xe tải cũ đỗ trong sân; một cái chuồng gà màu trắng bé tẹo; một bãi quây
đầy cừu và dê, phía xa xa là những đồng cỏ trải dài nối tiếp nhau. Phía bên kia
con đường nhỏ là một vườn cây ăn quả, một vài cây lấp ló những trái táo đỏ mập
mạp, còn những trái khác thì chưa lớn lắm và rất khó nhìn thấy. Ở trang trại có
rất nhiều việc phải làm, Kate đã nói vậy trong một lá thư. Và gần như đó là tất
cả những gì cô ấy nói. Những lá thư của cô bé chẳng bao giờ dài dòng, nhưng
luôn luôn vui vẻ. Thực ra là có hơi vui vẻ quá mức - đôi khi chúng làm Reynie
cảm thấy như mình là người duy nhất thấy nhớ bạn bè.
Ngay lúc Reynie bắt đầu đi
xuống đồi, một hồi chuông vang lên từ những trang trại phía dưới. Cậu đảo mắt
khắp nơi hy vọng nhìn thấy Kate, nhưng chỉ thấy lũ dê cừu đang ùa khỏi bãi đất
quây ra đồng cỏ. Reynie đờ người ra vì kinh ngạc. Cậu thề là đã nhìn thấy con
dê cuối cùng ra khỏi bãi quây tự quay lại húc đầu đóng cánh cổng ra vào.
Reynie cau mày thắc mắc. Con
dê có ý thức tự giác đó không phải là điều khác thường đầu tiên cậu trông thấy
vào sáng nay. Nó khiến cậu nhớ đến điều gì đó khác nữa - một điều thật lạ lùng
mà vì quá hào hứng nên cậu đã không để tâm mãi cho tới tận lúc này. Reynie đưa
tay lên che mắt cho khỏi chói và quan sát bầu trời. Kia rồi, con chim ưng lúc
nãy đang lượn tròn phía trên cao. Cậu có thể nhận ra nó, chỏm lông màu đen trên
đỉnh đầu ăn khớp với hai bên lông mai dài đen bóng. Reynie không định tìm hiểu
nhiều về chim chóc (dù thực tế cậu còn biết nhiều hơn khối người), nhưng cậu
chắc chắn đây là một con thuộc giống chim cắt - mà trong vùng này, vào thời
điểm này trong năm, chả mấy khi người ta nhìn thấy nó.
Reynie nhoẻn miệng cười rồi
hối hả lao xuống đồi vào sân trang trại. Có điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra và cậu
không thể đợi để khám phá xem đó là gì.
Cái kho nằm gần hơn so với
ngôi nhà nên Reynie đi tới và thò đầu vào qua hai cánh cửa mở để xem có Kate ở
đó không. Đôi mắt đã quen với mặt trời chói chang nên phải mất một lúc cậu mới
thích nghi được với bóng tối bên trong, nhưng khi đã quen rồi mắt cậu lập tức
thấy một hình ảnh đáng vui mừng hơn cả.
Đuôi tóc vàng óng quen thuộc,
đôi vai rộng và cái giỏ đồ đỏ như xe cứu hỏa kia. Không nghi ngờ gì nữa, cậu đã
tìm thấy Kate. Cô bé đứng quay lưng về phía cậu, tay chống nạnh, nhìn chằm chằm
lên bức tường phía xa. Reynie định hù cô bạn, nhưng nhanh chóng nghĩ lại. Có lẽ
hù dọa Kate là một ý tưởng rất tệ. Cậu vốn ghét quấy rầy cô bạn mà. Kate vẫn
chăm chú nhìn thẳng về phía trước, dường như đang mải mê tập trung vào đó.
Reynie chẳng thấy có gì trên bức tường nhà kho cả, cậu ngờ rằng cô bạn đang tập
trung vào một thứ gì đó trong tâm tưởng thì đúng hơn. Có lẽ cô bé đang mải
nghiền ngẫm về một loại dụng cụ mới hữu ích nào đó có thể mang trong cái giỏ của
mình.
Bất chợt Kate gập người lại
và bắt đầu ho. Cô bé thở khò khè rồi phát ra những tiếng nôn ọe thật kinh
khủng. Chẳng lẽ Kate đang bị nghẹn? Reynie vừa định lao tới giúp bạn thì Kate
kêu ré lên tuyệt vọng và giậm chân thình thịch. “Không phải nữa chứ!” Cô bé rên
rỉ đứng thẳng người lên, rồi quay lại và trông thấy Reynie đang đứng ngó trân
trân từ lối vào kho thóc.
“Mình không biết có chuyện
gì,” Reynie nói, “nhưng mình có cảm giác mọi thứ ở đây đều rất lạ.”
“Reynie!”
Kate nhảy bổ vào cậu bạn, đôi
mắt xanh biếc sáng rực lên vui sướng. Reynie dang rộng hai cánh tay và lập tức
cảm thấy hối hận. Kate vì quá mừng rỡ nên lao thẳng tới giống một cú phá bóng
hơn là một cái ôm, và thế là cả hai đứa ngã bổ chửng xuống đất. Reynie cảm thấy
như oxi bật hết ra khỏi lồng ngực.
“Cậu đã đến rồi à?” Kate nhỏm
dậy trên hai đầu gối, hồ hởi nói liến thoắng. “Cô Perumal và mẹ cô ấy đâu rồi?
Sao mãi giờ cậu mới đến hả? Đáng lẽ cậu phải ở đây từ hôm qua rồi chứ? Tớ đã
phải đọc đi đọc lại lá thư đến hai lần để biết chắc đấy!”
Reynie đang choáng váng vì
đột ngột bị hạ nốc ao nhưng vẫn gắng gượng nhoẻn miệng cười - chắc lúc này
trông cậu giống một con cá mắc câu lắm đây - nhưng cậu chỉ mấp máy được môi
thôi chứ chẳng thốt ra nổi tiếng nào.
“Sao thế, Reynie, cậu bị mất
tiếng rồi à?” Kate vừa nói vừa cười như nắc nẻ. Cô bé kéo Reynie đứng dậy và
bắt đầu phủi bụi cho cậu bằng những cú đập vào người rõ đau. “Tớ biết, tớ cũng
háo hức lắm. Và không chỉ vui về điều ngạc nhiên lớn của ông Benedict đâu, tớ
mừng rơn vì được gặp lại bọn con trai các cậu! Cậu không biết tối qua không
thấy cậu đến tớ thất vọng thế nào đâu.”
Lấy lại được hơi, Reynie bước
ra tránh những cái vỗ đập của Kate rồi nói, “Cậu không phải người duy nhất cảm
thấy thế đâu. Xe của bọn tớ bị hỏng, chúng tớ phải đẩy xe vào thị trấn và qua
đêm trong quán trọ đấy.”
“Quán trọ trong thị trấn á?”
Kate gào lên. “Thế mà nhà tớ không biết! Nhà tớ có thể đến đón cậu bằng xe tải.”
“Xin lỗi, tớ định gọi điện,
nhưng vì cậu không có điện thoại nên...”
Kate rên rỉ. “Ôi, Milligan và
những nguyên tắc của ông! Tớ yêu bố lắm nhưng trong một số chuyện ông cứ khăng
khăng...”
“Dù sao thì,” Reynie vừa cười
vừa nói, “tớ không thể ở yên chờ cái xe sửa xong nên đã xin phép Amma đi trước.”
Amma là cách Reynie gọi cô Perumal, mẹ nuôi của cậu. “Sau đó tớ hỏi đường người
thợ sửa xe và giờ tớ đang ở đây rồi. Amma và Pati sẽ đi thẳng tới đây ngay khi
cái xe chạy được.”
Kate tóm lấy cánh tay Reynie,
gương mặt nhăn lại vì lo lắng (lạ thật, Kate vốn đâu phải là kiểu người hay lo
âu nhỉ). “Xe có đủ chỗ cho cả ba người bọn tớ đi cùng không? Ý tớ là đi cùng
với cô Perumal, mẹ cô ấy và cả đống hành lý nữa? Bố mẹ của Sticky cũng sẽ đến,
nhưng cậu biết đấy, xe của họ nhỏ xíu. Không thể hình dung nổi việc một đứa
trong bọn mình lại bị tách ra sáu tiếng đồng hồ trên hai cái xe khác nhau -
nhất là khi chúng mình đã xa nhau cả sáu tháng trời rồi!”
“Chúng tớ thuê hẳn một chiếc
xe bán tải nên còn vô khối chỗ để ngồi. Giờ nghe này,” Reynie nói, giơ tay lên
chặn Kate lại khi cô bé bắt đầu định nói nữa, “trước khi chúng ta lạc đề quá
xa, bây giờ cậu sẽ nói cho tớ biết cậu đang làm gì chứ? Lần cuối cùng tớ nghe
thấy một tiếng kêu như thế là khi con mèo ở Trại tế bần nôn ra một cuộn len.”
“Ồ, cái đó à?” Kate nhún vai.
“Tớ đang tập luyện để có thể nôn ọe ra mọi thứ, nhưng khó hơn là tớ nghĩ.” Thấy
vẻ mặt kinh hoàng của Reynie, cô bé vội giải thích. “Đó là một nghệ thuật để
tẩu thoát xưa cũ ấy mà. Houdini và tất cả mấy gã đó đều có thể làm thế cả.
Chúng nó nuốt một cái chìa khóa hay thứ gì đó, sau đấy dùng các múi cơ trong
cuống họng để đẩy nó ra. Cậu có thể luyện tập với một sợi dây buộc vào thứ cậu
sắp nuốt vào, như vậy cậu có thể kéo nó trở ra. Tớ lúc đầu cũng làm như thế,
nhưng sau tớ nghĩ mình có thể xoay xở mà không cần dây. Nhưng tớ chả may mắn
tẹo nào.”
“Vậy là tớ đã đúng,” Reynie
nói. “Trò này thật buồn cười. Nhưng nó không nguy hiểm đấy chứ?”
Kate bặm môi nghĩ ngợi. Rõ
ràng cô bé chưa bao giờ cân nhắc đến chuyện này. Kate không phải là kiểu người
để tâm lo lắng đến mấy chuyện nguy với chả hiểm. “Tớ nghĩ đây không phải là trò
an toàn nhất trên đời đâu,” Kate thừa nhận, rồi ánh mắt trở nên nghiêm nghị, cô
bé nói, “cậu đừng nên thử nhé.”
Reynie cười ngặt nghẽo (vì
chẳng điều gì có thể xui khiến cậu thử cái trò kỳ cục như thế), rồi đáp lại
bằng một cái nhìn nghiêm túc không kém, cậu nói. “Được rồi, Kate, tớ hứa không
bao giờ nuốt - à mà cậu nuốt cái quái gì thế hả?”
Kate đảo mắt phẩy tay. “Tớ
không muốn nói.”
“Này này, giờ có chuyện gì
xảy ra đâu chứ?” Reynie phản đối, trông càng kinh hãi. “Ý tớ là dù sao cậu đã
không thể...?”
“Tớ không muốn nói về nó,”
Kate kiên quyết.
Dù sao chăng nữa họ cũng có
đủ thứ hằm bà lằng khác để nói rồi.
Kate không chỉ muốn đưa
Reynie đi xem một vòng trang trại, cô bé còn quyết liệt muốn khai thác xem cậu
nghĩ sao về kế hoạch của ngài Benedict dành cho cả bọn. Tròn một năm đã qua kể
từ hồi ngài Benedict tuyển chọn bốn đứa cho một nhiệm vụ khấn cấp - nhiệm vụ mà
chỉ những đứa trẻ xuất sắc nhất mới có thể đảm đương được - bây giờ chính là
dịp kỷ niệm một năm lần đầu tiên cả bọn gặp nhau, ông đã sắp xếp một cuộc sum
họp tổ chức ở nhà ông tại Thành phố Đá. Trong một lá thư ông giải thích, “Đến
đây các cháu sẽ có một ngạc nhiên mà ta hy vọng tất cả các cháu sẽ hài lòng -
sự ngạc nhiên này tuy không thể hiện hết được lòng biết ơn và tình cảm yêu mến
vô bờ bến mãi mãi của ta dành cho các cháu, nhưng cũng cho thấy được sự coi
trọng...” Và ông ấy cứ tiếp tục nói liền tù tì như thế một lúc, nói rõ tỉ mỉ về
việc ông đánh giá cao những phẩm chất độc nhất vô nhị của bọn trẻ như thế nào
và ông háo hức được gặp lại tất cả.” Kate vui sướng chỉ đọc lướt qua lá thư rồi
cất đi. Reynie thì đọc đi đọc lại bức thư vài lần đến mức học thuộc lòng nó
luôn.
“Cậu ghi nhớ tất cả à?” Kate
vừa nói vừa dẫn Reynie leo lên một cái thang để chỉ cho cậu vựa chứa cỏ khô. “Cậu
bắt đầu có vẻ giống Sticky rồi đấy nhé.”
“Sticky thì chỉ cần đọc nó
mỗi một lần thôi,” Reynie đáp, đó hoàn toàn là sự thật, nhưng Reynie chủ yếu
nhắc đến Sticky hòng đánh lạc hướng sự chú ý. Thực ra cậu ghi nhớ từng lá thư
nhận được suốt sáu tháng qua - không chỉ là thư từ ngài Benedict, mà còn cả
những mẩu tin nhắn vui vẻ Kate gửi, những báo cáo có phần hơi tẻ ngắt nhưng lúc
nào cũng chi tiết của Sticky, và thậm chí cả bài thơ loằng tà là ngoằng
Constance viết về bất cứ thứ gì từ nụ hoa chúm chím, đến con thỏ cáu bẩn, hay mẩu
giấy vụn nào đó đánh trúng cảm hứng sáng tạo của cô nàng trên đường đi kiếm một
con tem. Reynie cảm thấy hơi tủi thân khi cậu cứ luôn bấu víu vào từng từ từng
chữ trong những lá thư của bọn bạn, trong khi chẳng ai trong số tụi nó đả động
đến việc nhớ nhung cậu.
“Nói đến Sticky,” Kate bắt
đầu khi kéo Reynie đi qua cánh cửa lật vào vựa cỏ, “gần đây cậu có nghe ngóng
được gì nhiều từ cậu ấy không? Sticky nói hai đứa các cậu viết thư cho nhau
thường xuyên hơn là mình và cậu ấy. Lại còn nói rằng cậu thực sự chịu khó trả
lời các câu hỏi của cậu ấy, không giống như mấy đứa bạn khác. Tớ không nghĩ là
cậu ấy hiểu hoàn cảnh của tớ. À mà đây là vựa cỏ đấy nhá.”
Reynie nhìn quanh. Cái vựa cỏ
giống như mọi vựa cỏ khác mà cậu từng thấy - mặc dù thực ra cậu chỉ mới nhìn
thấy chúng trên tranh ảnh và tivi - nhưng Kate có vẻ hết sức tự hào về nó, vậy
nên cậu gật lấy gật để vẻ tán thưởng trước khi nói.
“À, chuyện là,” Kate vừa nói
vừa mở toang cánh cửa dẫn ra bên ngoài, nó trông ra bãi đất quây cho bầy gia
súc, “tớ bận bịu khủng khiếp, vừa phải đi học lại vừa phải cố gắng thu vén
trang trại và điều hành nó. Cậu biết đấy, bố Milligan thường xuyên vắng nhà làm
nhiệm vụ, nên tớ phải phụ giúp mọi việc.”
Reynie biết chuyện này.
Milligan là cha Kate, đồng thời cũng là một đặc vụ mật. Tất cả những chuyện đó
không ai biết mãi cho tới gần đây, ngay cả Kate cũng không được biết. Khi
Milligan bị bắt trong khi thực thi một nhiệm vụ thì cô bé mới chỉ chập chững
biết đi, ông bị mất trí nhớ và không quay trở về được. Vì mẹ mất và cha thì bỏ
đi (như mọi người đã tin như vậy), nên Kate bị gửi vào trại trẻ mồ côi, rồi
cuối cùng lưu lạc đến một gánh xiếc. Về phần Milligan, ông đã trốn thoát khỏi
những kẻ bắt giữ mình và đến làm việc cho ông Benedict. Mãi cho tới khi ông
Benedict tập hợp họ lại với nhau, chính xác là vào tháng này một năm trước, thì
Kate và Milligan mới khám phá ra sự thật.
“Trang trại tan hoang suốt
bao nhiêu năm trời,” Kate nói. “Thế đã đủ khiến tớ bận tối tăm mặt mũi rồi. Tất
nhiên, tớ không ngại việc đâu. Việc tớ thấy khó nhất là ngồi yên một chỗ đủ lâu
để viết một lá thư mùi mẫn. Đáng lẽ Sticky nên biết điều đó chứ, phải không?”
“Đáng lẽ cậu ấy nên thế,”
Reynie công nhận. Cậu bước đến cửa, Kate đang lấy thứ gì đó từ chỗ cái giỏ
(Reynie để ý thấy bây giờ nó đã lật ngửa lên) và đưa nó lên môi. Đó là một loại
còi. Cô bé lại với vào cái giỏ lần nữa.
“Nhưng vấn đề thật sự với
chuyện viết thư,” Kate tiếp tục nói qua đôi môi đang ngậm chặt cái còi trong
khi xỏ tay vào một chiếc găng tay da dày dặn, “là chính phủ kiểm soát tất cả
thư của tớ. Con gái của một đặc vụ hàng đầu, cậu biết rồi đấy. Họ phải chắc
chắn là tớ không tiết lộ bất cứ bí mật nào. Mọi chuyện liên quan đến nhiệm vụ
của chúng mình bị bưng bít kín mít đã đủ tệ rồi - vì lẽ ra bọn mình có quyền
nổi tiếng sau tất cả những gì đã làm - nhưng tớ thậm chí còn không thể gửi
những lá thư riêng tư cho bạn bè thân? Thật là quá đáng!”