Ngón Tay Mình Còn Thơm Mùi Oải Hương - Chương 12
Thụy Sĩ:
Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương…
Chuyến đi Thụy Sĩ lần thứ ba vào tháng 5-2006 cũng là
chuyến đi châu Âu cuối cùng của tôi trước khi cuốn sách này ra đời. Tôi không
màng đi dạo Banhhofstrasse, hồ Zurich hay khu phố cổ như những lần
trước mà nằm lăn quay ra ngủ không biết trời đất sau những giờ bay mệt nhọc.
Trong
khi tôi ngủ li bì trong những cơn gió tháng năm tươi tắn và mát dịu thổi lùa
qua những tàn lá li ti xanh mượt nghiêng vào ban công phòng, Daniel tình nguyện
dẫn Alastair đi dạo quanh Zurich. Alastair cũng vừa bay từ Anh sang để gặp tôi
và cả ba chúng tôi ở chung căn phòng nhỏ xíu của Daniel trong một căn hộ sinh
viên yên tĩnh. Vài tiếng đồng hồ sau, hai người về kêu tôi dậy ăn trưa với kebab[8] mới mua. Trong khi
hai anh chàng bắt ghế ngồi ăn cạnh bên, tôi ngồi nguyên trên giường vừa nhai
kabab vừa uống nước, giống như một bệnh nhân được hai người đi thăm bệnh mua đồ
ăn cho. Ăn xong, Aly hào hứng khoe thành phố đẹp lắm rồi rủ tôi đi chung, nhưng
tôi xua tay rồi nằm lăn quay ra ngủ tiếp.
[8] kebab: món ăn Thổ Nhĩ Kỳ gồm bánh
mì kẹp thịt nướng và rau, rất phổ biến ở châu Âu.
Sau
giấc ngủ dài, tôi theo hai "chiến hữu" đi bộ ra khu phố cổ gần nhà,
một trong những nơi tôi thích nhất Zurich. Phố cổ Zurich là một điển hình
của châu Âu tươi đẹp mà những ai có truyền hình cáp thường trầm trồ mỗi khi xem
kênh Discovery Travel & Living, với những con đường lát đá cuội hẹp quanh
co, hai bên là nhà cổ duyên dáng treo cờ Thụy Sĩ chữ thập trắng trên nền đỏ, bay lất phất
trong cơn mưa phùn rây rây. Rất nhiều nhà ở đây được sơn những gam màu pastel -
vàng, hồng nhạt, xanh da trời tươi tắn nhưng không sặc sỡ với nhiều ô cửa sổ be
bé trồng hoa phong lữ. Mọi thứ ở đây đều hài hòa một cách khó tin, đến cả chiếc
xe tải nhỏ chuyên giao thức ăn đang đậu trước nhà hàng cũng được sơn vàng và vẽ
những hình tròn đủ kích cỡ màu nâu làm ta liên tưởng đến phô mai Thụy Sĩ, không biết vô tình
hay cố ý cũng thật hợp với những ngôi nhà ở đây. Những bục ximăng tròn làm ghế
đặt giữa quảng trường luôn đông người ngồi trong cái nắng cuối xuân ngòn ngọt,
nghỉ chân sau khi mua sắm ở những cửa hàng nhỏ xíu kê những chiếc bàn đặt rổ
mây đựng trái cây tươi hay những đồ trang trí cũng nhỏ xíu bên ngoài vỉa hè.
Lần nào
đến đây, tôi cũng không khỏi "A" lên khi gặp lại "cố nhân".
Một chú bò bằng đá sơn màu xanh lơ nhạt có gương mặt rất sưng sỉa, cổ đeo
chuông đồng đứng gác hai chân trước lên ban công thấp của nhà hàng Bếp Thụy Sĩ (Swiss Chuchi). Sẵn
đây, chữ Chuchi là một điển hình của việc tiếng Đức của người Thụy Sĩ (Swiss German) khác
với tiếng Đức của người Đức đến mức nào. Để kiểm tra xem bạn có thật sự biết
Swiss German hay không, dân địa phương thường đố bạn đọc được chữ
Chuchichaschtli nghĩa là "tủ trong bếp" (trong khi tiếng Đức chính
thống phải là Kuchekasten). Lần nào tôi cũng thành công và được người ở đây
tròn mắt thán phục vì chữ "ch" ở đây được đọc bằng âm tương tự âm
"kh" trong tiếng Việt không phải ai cũng đọc được. Ngoài chú bò làm
tôi nhớ những cánh đồng xứ Alps xanh bạt ngàn nở hoa vàng hoa trắng li ti có
những đàn bò đeo lục lạc gặm cỏ thật êm đềm, nhà hàng Bếp Thụy Sĩ còn có một điểm ấn
tượng nữa là bộ bàn ghế sơn đủ màu kê xen kẽ vào nhau thật vui mắt bên ngoài.
Tên nhà hàng và logo có mình một nồi phô mai vàng ươm, khiến ai cũng liên tưởng
ngay đến fondue, món lẩu truyền thống với rất nhiều phô mai từ vùng nói tiếng
Pháp Neuchatel miền Tây Thụy
Sĩ, nấu với trứng và bơ, thêm ít rượu anh đào và vang trắng. Người ăn ngồi quây
quần bên nồi lẩu phô mai sôi lục bục, xiên bánh mì mềm vào que dài nhúng vào
thứ nước đặc quánh béo ngậy ăn ngon lành.
Aly
khều tôi: "Ê, sao Thụy
Sĩ là nước trung lập mà nãy giờ thấy cảnh sát quá trời luôn? Lúc sáng ở nhà ga
cũng vậy." Nhìn quanh thấy mấy anh chàng và cô nàng cảnh sát mặc đồng phục
đang bước chầm chậm trong khu phố cổ, tôi ra vẻ kẻ cả (dù gì đây cũng là lần
đến Zurich đầu tiên của Aly): "Nước trung lập đâu có nghĩa là
không có cảnh sát? Thụy
Sĩ không bao giờ có chiến tranh, nhưng quân đội họ rất mạnh. Không thấy con dao
đa năng mình hay dùng được gọi là dao quân đội Thụy Sĩ (Swiss army knife) à?" - Daniel gật đầu
xác nhận: "Đúng rồi, ở đây có một câu nói: 'Thụy Sĩ không có quân đội, bản thân Thuỵ Sĩ là một quân đội.' Nhìn mấy ngọn núi tuyết
phủ kia bình yên vậy chứ toàn là pháo đài giấu trên đó, còn đồng cỏ bạt ngàn êm
đềm cũng giấu bên dưới nhiều đường băng cho máy bay quân dụng mà mình không
thấy thôi."
Binh
lính của Thụy Sĩ được
gọi là "chiến binh sôcôla" như trong một bài báo của một cô phóng
viên sách du lịch Fodors. Một phần chocolate là đặc sản của đất nước xinh đẹp
này, một phần do binh lính ở đây được huấn luyện nhưng không bao giờ có dịp
chiến đấu. Ngay cả trong chiến tranh thế giới thứ hai khi cả châu Âu loạn lạc,
Thụy Sĩ không theo
phe nào nhưng quân phát xít cũng như quân đồng minh không ai động đến lãnh thổ
xứ Alps nhỏ bé diện tích chỉ bằng 1/8 Việt Nam. Tôi thích ví Thụy Sĩ như một con nhím, rất
hiền lành không tấn công ai những vẫn luôn sẵn sàng đáp trả nếu có ai tấn công
mình.
Vừa đi
vừa mải suy nghĩ, tôi không nhận ra mình đã băng qua Schipfe, một trong những
góc xưa nhất thành phố, đã có từ trước thới Trung cổ và từng là trung tâm ngành
công nghiệp lụa Thụy
Sĩ. Giữa một nơi hiện đại và tấp nập như Zurich, thật sảng khoái khi được dạo
quanh góc phố mang đạm chất bôhêmiêng với những shop đồ thủ công xinh xẻo và
lãng mạn nghiêng bóng xuống dòng sông Limmat xanh màu ngọc lục bảo. Chúng tôi
đi ngang mái vòm cầu, bước ra lại những con đường nhộn nhịp. Daniel cắt ngang
nguồn suy nghĩ của tôi: "Có nhớ nhà hàng này không?". Làm sao không
nhớ được khi cách đây chưa đầy hai năm tôi đã được tổ chức sinh nhật lần thứ hai mươi ba bất ngờ ở đây,
một buổi tối cuối tháng 7 ấm áp và đầy sao. Đó là ngày cuối cùng khóa học quốc
tế về môi trường và phát triển bền vững ở Braunwald, cả khóa
lên Zurich ăn bữa tối chuẩn bị hôm sau ai về nước nấy. Tôi đang vừa
ăn vừa buồn rầu nhìn thành phố lần cuối cùng thì giật nảy mình vì đội ngũ phục
vụ bàn đang vừa hát một cách nồng nhiệt vừa bưng bánh kem có cả nến ra đứng bên
bàn tôi từ lúc nào. Lần duy nhất sinh nhật tôi có người phục vụ cầm bánh trong
khay ra hát Happy birthday ấy là "tác phẩm" của Karin, cô gái người
Zurich tóc xoăn tít có gương mặt vui vẻ trong ban tổ chức chương trình học của
chúng tôi năm đó.
Hai
ngọn tháp tròn của nhà thờ Grossmunter đã hiện ra trước mắt. Huyền thoại kể
rằng Charlemagne cho xây nhà thờ này ngay tại nơi tìm thấy mộ của hai vị thánh
tử vì đạo của thành phố. Tôi hào hứng rủ hai anh chàng trèo lên đỉnh tháp chơi
ngắm toàn cảnh Zurich. Chỉ với hai franc mỗi người, bạn sẽ có được những
phút giây thư giãn tuyệt đối trên đỉnh thành phố, nhìn hồ Zurich nước
trong như lọc với những con thuyền thuôn dài rẽ nước bơi. Thành phố được quy
hoạch tuyệt vời, với những mái nhà màu nâu xinh xắn như trong truyện cổ tích
xen lẫn cây cối xanh um. Phía xa, rặng núi Alps quanh năm tuyết phủ
trắng xóa nổi bật trên nền trời xanh biếc, nhấp nhô những ngôi nhà nhỏ trên thung
lũng nhìn xuống bao la. Trông nhỏ nhắn, giản dị vậy thôi, chứ rất nhiều khả
năng đó là ngôi nhà của các triệu phú qua Thụy Sĩ rửa tiền.
Nhắc
đến chuyện xài tiền, tôi quên không tả cho bạn nghe con đường Bahnhofstrasse
hào nhoáng và xa hoa với những cửa hiệu thời trang sang trọng. Ở đó người ta
thản nhiên bước vào rút thẻ tín dụng ra mua một chiếc đồng hồ Rolex trị giá vài
trăm ngàn Swiss franc như ta đi mua một cây kem. Tiếng Anh có câu "Đường
phố được lát bằng vàng" (The streets are paved with gold) với nghĩa bóng
chỉ những nơi dễ kiếm ra tiền. Những ở đây, câu nói đó gần đúng nghĩa đen vì
phía bên dưới con đương Bahnhofstrasse là những hầm vàng nặng trĩu vàng đúc,
vàng thỏi, vàng lá... của hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ. Vì vậy khi bước trên Bahnhofstrasse bạn xem
như đang bước trên đống vàng. Đất nước nhỏ bé này có trữ lượng vàng nhiều nhất
thế giới, với ngành dịch vụ ngân hàng nổi tiếng khắp hành tinh. Gần như toàn bộ
những ngân hàng lớn đều có mặt ở Zurich. Lấy ví dụ một ngân hàng UBS thôi (tôi
nhắc đến UBS - United Bank of Switzerland - vì đây là một trong nhà tài trợ lớn
nhất cho chương trình hội nghị tôi tham gia năm nay) đã có tài sản trị giá 600
tỉ đô la, bằng GDP của cả nước Thụy Sĩ. Lần đầu tiên đến đây, lòng tôi còn phơi phới chẳng thèm để
ý dưới chân mình là vàng, chỉ thích thú nhìn những cửa hàng bán hoa tươi rất có
duyên trên con phố, say sưa ngắm những chậu hoa xứ lạnh lạ lẫm đặt trên vỉa hè
lốm đốm nắng lọc qua tàn lá xanh. Từ ngày ấy đến này không biết có phải do mấy
năm đi làm lo lắng cơm áo gạo tiền hay do đã quen nhìn hoa xứ lạnh, đến Zurich
tôi không buồn nhìn những bông hoa tươi thắm nữa mà chăm chăm nhìn xuống dưới
chân mình ao ước có được một phần số vàng bên dưới đó. Vậy ra thành phố không
thay đổi chút nào, chỉ có tôi là thay đổi.
Mặc dù
diện tích lớn nhất nước nhưng Zurich vẫn chỉ là một thành phố nhỏ bé với mọi
con đường gần như đều dẫn về hồ Zurich có những cây thích (maple trê) cao lớn
tán tròn như được Mẹ Thiên nhiên cắt tỉa cẩn thận, rợp bóng khoảng sân đá sạch
như li như lau. Hôm ấy là một ngày nắng ấm, chúng tôi nghỉ chân, ăn xúc xích
mới nướng thơm phức kẹp bánh mì giòn trên những bậc thềm ximăng cạnh hồ. Đàn
thiên nga trắng muốt yểu điệu bơi xung quanh những chú vịt trời cổ xanh biếc rẽ
nước lười biếng. Tôi bẻ một ít vụn bánh mì ném xuống nước, tức thì lũ thiên nga
không còn duyên dáng điệu đà mà xô lại đớp bánh trông rất "phàm phu",
không có vẻ gì là những cô hoa khôi hồ Zurich nữa.
Chiếc
đồng hồ Thụy Sĩ to
gấp mấy lần người thật trên thảm cỏ trồng hoa sặc sỡ bên hồ đã chỉ 3 giờ chiều.
Tôi ngồi bệt ra bãi cỏ êm mượt ven hồ nhìn ra phía xa xa, nơi vòi phun nước như
dải lụa mềm mại rũ xuống hồ, thỉnh thoảng lại ánh lên bảy sắc cầu vồng. Tự
nhiên tôi nhớ lần đầu tiền ra thẳng hồ Zurich khi vừa đến sân bay.
Lúc ấy mặt tôi ủ dột vì vừa bị lạc ở "ma trận" Charles De Gaulle ở
Pháp, phải chờ chuyến sau hết mấy tiếng đồng hồ. Những đứa trẻ địa phương theo
cô giáo ra đây chơi, vừa ăn kem vừa nhìn tôi, rụt rè nói "Hello,
Hello" rồi cười khúc khích nấp sau lưng nhau. Những đứa trẻ ấy bây giờ
chắc đã thành thiếu niên, có nhớ chúng đã làm cô gái châu Á mệt mỏi đứng tựa
lưng trên lan can hồ Zurich mỉm cười vì sự hồn nhiên đáng yêu của
chúng?
Ngày
cuối cùng của chúng tôi ở đây, Daniel phải đi làm nên chỉ có Aly và tôi lang
thang ra khu phố cổ sáng sớm đầu tuần im vắng. Chúng tôi dừng lại ở một shop
nhỏ bán hoa, có một xô đầy hoa oải hương tim tím đặt bên ngoài, đứng ngắm rồi
kê mũi vào hoa hít hà. Bà chủ đang lúi húi dọn hàng ra, ngừng tay cười và giải
thích phải lấy tay xát nhẹ trên hoa rồi ngửi mới thấy thơm. Chúng tôi làm theo
và thấy quả thật hoa tươi tỏa mùi hương nhẹ nhàng rất dễ chịu.
Tôi
chia tay Zurich cũng thật nhẹ nhàng và dễ chịu. Lần đến đầu tiên cách
đây đúng ba năm, thành phố đón tôi bên ngoài sân bay bằng tấm bảng quảng cáo to
tướng "Trông bạn thật tuyệt, bạn mới bay hãng hàng không Thuỵ Sĩ đúng
không?" (Yoi look great! Did you fly Swiss?) Tôi nhìn lại mình sau mười
mấy tiếng đồng hồ bay "đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long lên
sòng sọc"[9], nghĩ bụng lần sau nhất quyết phải
bay hàng không Thụy
Sĩ cho bằng được, không bay hãng nào khác nữa. (Bạn thấy chưa, dân làm
marketing như tôi cũng bị quảng cáo dụ như thường). Lần đi cuối cùng này, thành
phố tạm biệt tôi bằng cơn mưa phùn lất phất khi chúng tôi tay xách nách mang
băng qua những con đường xe điện ngang dọc rồi tạm biệt nhau ở nhà ga trung
tâm.
[9] Trích "Lão Hạc"
của Nam
Cao.
Tôi
ngồi chống cằm trên tàu, nhìn non xanh nước biếc Zurich lùi lại phía
sau. Trước mắt tôi dần hiện ra những cánh đồng ngoại thành có đàn bò đen trắng
đeo chuông leng keng nhìn con tàu xé gió lao vun vút. Tự nhiên nghe xung quanh
thoang thoảng một mùi hương quen quen, theo phản xạ tôi đưa tay lên mũi. Thì ra
từ sáng sớm đến chiều, ngón tay mình còn thơm mùi oải hương...
Lucerne, phố cổ muôn màu
Những ngày theo học khóa học về môi
trường ở Thụy Sĩ, tôi
quyết tâm phải đến Lucerne (Luzern hoặc Lucerne theo cách viết của dân địa
phương, thành phố nằm ở trung tâm Thụy Sĩ) bằng được, vì bị mê hoặc bởi những tấm ảnh phố cổ Lucerne
trên Internet và trong những brochure về du lịch châu Âu. Nghe lời dụ dỗ của
tôi, anh bạn thân người Áo từ chối tất cả những lời rủ rê đi leo núi, đi bộ đến
hồ hay đi Zurich của những sinh viên khác. Thứ bảy, ngày nghỉ duy nhất trong
chương trình, hai chúng tôi vác balô đáp xe lửa đến thành phố xinh đẹp này.
Phố
cổ Lucerne nằm không xa trạm xe lửa là bao. Chỉ cần đi dọc
hồ Lucerne xanh thẫm (có cái tên tiếng Đức dài ngoằng là Vierwaldstattersee),
với những đàn thiên nga trắng muốt chậm rãi bơi. Băng qua cây cầu gỗ
dài Chapel Bridge được xây từ đầu thế kỷ 14 trồng đầy hoa tươi
đủ màu sắc, đi bộ thêm một đoạn ngắn, những ngôi nhà cổ nằm im lìm dưới ánh
nắng đã hiện ra trước mắt chúng tôi.
Nhà
ở Lucerne khác với những thành phố khác ở Thụy Sĩ mà tôi từng ghé thăm ở chỗ ngoài mặt
thường có những hình vẽ công phu trông như những ngôi nhà trong truyện cổ tích.
Đặc biệt những ngôi nhà có mặt tiền hướng ra quảng trường, đều có những tầng
lầu dùng để ở và tầng trệt là shop thời trang rất thanh lịch, hướng ra những
bồn nước ngọt mát chảy từ dãy núi Alps, có thể uống ngay được mà không cần đun
sôi. Chúng tôi rót đầy thứ nước tinh khiết đó vào chai mang theo rồi đi bộ đến
bờ hồ, ngồi trên bậc thềm dẫn xuống mặt nước có những con thuyền nằm lười
biếng, mở bánh sandwich ra ăn trưa. Bên cạnh chúng tôi là nhà hàng kiểu
alfresco rất đặc trưng châu Âu dưới những tán dù trắng tinh. Nhà hàng đông
khách, nhưng có lẽ mọi người đang say sưa uống bầu không khí trong lành của một
buổi trưa cuối hè ấm áp nên xung quanh chúng tôi rất tĩnh lặng, có thể nghe
tiếng mấy chú thiên nga lạc đàn rẽ nước bơi cạnh bên.
Phố cổ
Lucerne có rất nhiều khách du lịch, nhiều khi còn hơn cả quảng trường Trafalgar
ở London không chừng, có lẽ do chúng tôi đến đây vào dịp cuối tuần và đúng ngày
nắng ấm. Anh bạn đi cùng bảo đến Lucerne cả ngày trời chưa gặp một ai
nói một câu tiếng Đức kiểu Thụy
Sĩ nào. Chúng tôi nghe tiếng Anh kiểu Anh, kiểu Mỹ, kiểu Úc, tiếng Tây Ban Nha,
Nhật, Pháp, Ý..., thậm chí cả tiếng Hy Lạp, nhưng ngoại trừ những cô bán hàng trong shop, tất cả những
người chúng tôi gặp đều không phải là dân địa phương, nhất là trên những đường
phố chính như thế này. Phải chăng họ cũng bị Lucerne cám dỗ như tôi
và quả thật Lucerne đẹp hơn những gì bạn trông đợi. Ngay cả cửa hiệu bán
thức ăn đóng hộp với màu sơn và hình vẽ gợi nhớ đến món phó mát Thụy Sĩ béo
ngậy ngon lành này cũng làm bạn khó cưỡng lại ý định đưa máy ảnh lên.
Tại một
đường phố chính, tôi bắt gặp Manor - một chuỗi cửa hiệu rất nổi tiếng của Thụy Sĩ bán
đủ mọi thứ từ quần áo thời trang, túi xách, giày dép đến thức ăn, phần mềm máy
tình, máy ảnh... và nằng nặc đòi vào, mặc cho anh bạn tôi cố cản vì còn rất ít
thời gian. Trong khi say mê chọn đồ, tôi tình cờ phát hiện ra cửa sau của shop
mở ra con đường nhỏ có một ngôi nhà sơn xanh vàng rất đẹp nên nhất quyết đòi ra
ngoài, khiến cho anh bạn phải kêu trời vì sự thay đổi như chong chóng đó của
tôi. Nhưng khi thấy ngôi nhà với ánh nắng chiếu xiên in bóng tòa nhà đối diện,
làm nổi bật màu sơn như tranh vẽ, anh thôi không càu nhàu nữa mà khen tôi tinh
mắt.
Chúng
tôi chỉ có vài tiếng đồng hồ ở Lucerne để thăm những góc phố muôn màu
thường làm tốn khá nhiều phim ảnh của du khách. Đó còn là tháp Lucerne với bức
tường phủ đầy cây xanh, núi Pilatus tuyết phủ trắng xóa ngay giữa mùa hè, những
ngôi nhà trầm mặc nối dài với những bồn hoa đỏ thắm trên bệ cửa sổ, hay bậc lan
can mở ra hồ nước trong vắt xanh như ngọc. Chiều tối, ngồi gà gật ngủ trên
chuyến xe lửa trở về, những hình ảnh tươi đẹp đó vẫn khiến tôi mỉm cười...
Braunwald, phố núi đầy sương
Phố núi Braunwald - cách trung tâm
thành phố Zurich (Thụy Sĩ) không xa - là một trong những thành phố hiếm hoi
ở châu Âu hoàn toàn không có xe hơi hay bất cứ một phương tiện cơ giới nào
khác. Còn gì bằng được sống ở đây ba tuần bên dãy núi Alps quanh năm tuyết phủ,
khi Sài Gòn đang vào mùa nắng cháy da, lúc nào cũng ồn ào tiếng động cơ xe.
Từ
Zurich đến Braunwald phải đổi hai trạm xe lửa và một trạm cáp treo. Lôi theo
mình một vali to tướng và một balô cũng nặng không kém từ trạm này đến trạm
khác, nhưng tôi cảm thấy thật nhẹ lòng khi nhìn cảnh quan xung quanh. Những ngôi nhà gỗ nhỏ
xinh, dãy núi Alps tuyết phủ trắng xóa, những em bé địa phương đáng yêu đạp xe đi ngang và đặc biệt
ngộ nghĩnh là những que diêm gỗ khổng lồ sơn đủ màu như bộ đồ chơi xếp hình của
trẻ con, kế những chậu hoa tươi bên thềm một ngôi nhà gần khách sạn Alpenblick,
nơi chúng tôi lưu trú.
Từ tòa
nhà bốn tầng xây bằng đá ấy, chúng tôi bước xuống những bậc thềm dẫn lên lan
can nở đầy hoa tươi có những bộ bàn ăn trải khăn sặc sỡ rất "hội hè"
hướng ra dãy Alps hùng vĩ và thung lũng với những ngôi nhà ngói nâu
đỏ nhấp nhô. Những ngày nắng ấm, lúc sương tan, vào giờ giải lao hay lúc ăn
trưa chúng tôi thường ra đó ngồi uống cà phê hay thưởng thức món xúc xích Thụy Sĩ
ngon lành.
Braunwald
thu hút du khách vào cả mùa đông lẫn mùa hè. Mùa đông, đây là địa điểm lý tưởng
để trượt tuyết vì những sườn núi thoai thoải dường như được thiên nhiên cố ý
tạo ra cho mục đích này. Mùa hè, còn gì bằng đi bộ trên núi, hít thở không khí
trong lành, ngắm sương mù bảng lảng như phố núi Pleiku trong bài thơ của Vũ Hữu
Định và hoa dại nở đầy trên những lối đi dọc theo triền núi. Ngay cả giữa mùa
hè cũng dễ bắt gặp những vũng tuyết trắng xoá. Dọc đường, chúng tôi nghỉ chân ở
túp lều mọc cheo leo trên đỉnh núi, uống thứ nước ngọt mát chảy từ
rặng Alps và nhấm nháp món phó mát béo ngậy làm từ sữa bò và sữa dê
theo cách truyền thống vùng Glarus.
Và khi
hồ Oberblegi trong như lọc hiện ra, tôi chỉ muốn nằm lăn ra bãi cỏ xanh rờn cho
gió núi vờn qua tóc. Hồ Oberblegi được hình thành từ băng trên núi tan chảy
xuống nên nước trong vắt thấy cả đáy với những hòn cuội trơn nhẵn, nhưng chớ
dại dột nhảy xuống tắm vì nước lạnh buốt da. Ở những thành phố khác, với chất
thải công nghiệp, rác và khói bụi ô nhiễm, lấy đâu ra hồ nước tinh khiết như ở
Braunwald.
Braunwald
đối với tôi thân thương hơn những nơi khác tôi từng đi qua, dù đó là những
thành phố nổi tiếng hơn gấp nhiều lần. Rời xa phố núi, tôi cứ nhớ mãi chiếc ghế
gỗ dài hướng ra rặng Alps tuyết phủ và thung lũng đầy hoa, nơi tôi thường ngồi
với các bạn cùng khóa học bàn luận cho bài giáo trình cuối khoá. Nhớ ngôi nhà
có shop Keissler và những luống hồng tươi tắn với những cánh hoa khép nở rung
rinh trong gió. Nhớ bậc thềm bằng đá dẫn lên khách sạn, nơi chúng tôi thường
ngồi co ro và thỉnh thoảng sương từ những giỏ hoa mọc trên đầu nhỏ xuống vai
lạnh buốt. Nhớ ngày cuối khóa thật lạ lùng đúng vào sinh nhật tôi, cả lớp ngồi
buồn thiu trên lối đi rải đá vì sắp phải xa phố núi thật nhiều kỉ niệm này...