Kỳ tích Chi Lăng - Chương 05 - 06

5 – ĐẤU ĐONG QUÂN


đã gáy canh tư rồi mà Thân Cảnh Phúc vẫn chưa hề chợp mắt được một khắc. Hình ảnh
của những ngày qua đang hiện lên dần làm ông nhớ lại hôm cùng Lưu Ký, Hoàng Kim
Mãn, Vi Thủ An, Lý Kế Nguyên… lục tục kéo về kinh đô hội kiến với Lý tướng
quân, bàn mưu chống giặc. Tư tưởng chiến lược của Lý tướng quân ngấm vào từng
đường gân thớ thịt của Cảnh Phúc, tỏa sáng trong đầu óc tâm can ông khi Phụ quốc
Thái úy kết luận: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi
nhọn của giặc”… Phòng hội kiến tưởng như muốn vỡ ra bởi những tràng pháo tay và
những tiếng hô hưởng ứng tài thao lược của Lý tướng quân. Duy có Thân Cảnh Phúc
vẫn ngồi đó như hóa đá, tai ông như ù lên bởi những tiếng ầm ào, chỉ có óc ông
đang sáng dần lên bởi những tiếng nói sang sảng mang âm hưởng như chuông bạc của
Lý tướng quân.


Phải chủ động, bất ngờ tiến sang đất giặc, phải bẻ gãy tan tành các mũi nhọn của
giặc đang cắm vào thân thể đất nước ta, phải làm cho lòng người của thần dân
bên ấy hiểu được mục đích cuộc tập kích của ta… Làm được điều này là khó đấy,
công đầu thuộc về các chủ tướng biên thùy của ta, thuộc về các sĩ tốt và thần
dân các dân tộc trên ải Bắc, những người lính biên thùy bẩm sinh, những người
hiểu giặc, biết mưu thâm của giặc, biết đánh và biết thắng giặc trước tiên để bảo
toàn xã tắc…

Đắm
chìm trong suy tư, Phúc thấy từ phía sau, có hai bàn tay nóng ấm bóp chặt hai
vai, ông giật mình quay lại. Lý tướng quân vẫn bóp chặt vai Phúc lắc mạnh và cười
vang như sấm:

-
Thân tướng quân nghĩ ngợi gì mà lao lung thế?

Cảnh
Phúc đứng bật dậy, chắp hai tay, mồ hôi lạnh toát ra, chạy dọc theo cột sống, cả
phòng hội kiến vừa mới đây còn ồn ào vui nhộn là thế mà bây giờ lặng ngắt như tờ…
những ánh mắt bạn hữu đưa về phía Phúc và Lý tướng quân đầy vẻ lo âu…

-
Dạ! Bẩm Phụ quốc Thái úy Lý tướng quân. Tôi
đang mải nghĩ một điều. Tôi không lo
đánh, nhổ phăng những mũi dao của giặc đang cắm vào mình thì không khó, kể cả bắt
những mũi dao đó phóng lại vào ngực kẻ thù, nhưng kẻ thù đang đứng giữa muôn
trùng dân đen vô tội, làm sao cho họ hiểu được là ta đang phóng dao trừng phạt
kẻ thù chứ không giết họ mà muốn họ không bị giết oan thì họ phải thấu được ý
ta, tách ra khỏi kẻ thù của ta, nghĩa là phải có kế sách làm cho lòng dân bên ấy
cũng sáng tỏ chính tà…

-
Đúng ý ta! Đúng ý ta! Xin ghi nhận lời bàn sâu xa của Thân tướng quân.


Thường Kiệt reo lên, ôm chặt lấy Cảnh Phúc, vỗ vỗ âu yếm vào sau lưng.

Sau
đó, Phụ quốc Thái úy tươi cười nhanh nhẹn bước lên Đài giảng võ, giảng tiếp về
quân kỷ trong những ngày đánh giặc trên đất giặc và cung cách đối xử với thần
dân bên ấy. Trên đài giảng, một tờ lộ bố rộng bằng nửa chiếc chiếu cạp điều được
mở ra. Ông giảng kỹ từng chữ, từng câu trong đó, để rồi đây nó được dán khắp dọc
đường quân ta tiếng công trên đất Tống, công bố cho nhân dân Trung Hoa biết rõ
mục đích cuộc tiến công tự vệ của ta…

Nghĩ
đến đây, Thân Cảnh Phúc mỉm cười vui sướng. Những ngày tung hoành trên đất Tống
vừa qua còn in đậm trong tâm trí ông. Những sự việc làm xúc động lòng người và
những chiến thắng oanh liệt bước đầu trên đất giặc chứng tỏ tài thao lược của
Lý tướng quân thật là tuyệt vời.

Thân
Cảnh Phúc khẽ cựa mình, xoa hai bàn tay trên đệm da thú. Ông cảm biết rất rõ
làn lông hươu mượt mà lướt qua làn da tay của ông. Mấy chục đêm ròng gối đất nằm
sương sau mỗi trận đánh trên đất giặc, đêm nay, đêm đầu tiên trở về trên mảnh đất
ông cha, những người lính cận vệ thân tín của ông lại trải cho ông chiếc đệm da
thú quen thuộc. Họ biết chủ tướng của mình suốt mấy chục đêm ròng chưa được hưởng
một giấc ngủ ngon, kể từ lúc đặt chân lên mảnh đất tổ quốc, từ nơi biên thùy về
đến quê hương, dọc đường ở đâu bà con các dân tộc, bạn bè, anh em dòng tộc của
ông đều đổ ra đường đón mừng ông và sĩ tốt của ông. Ở đâu ông cũng phải dừng
chân, dù chỉ vài khắc cảm ơn và nhận lễ vật biếu tặng của mọi người. Vì vậy,
đêm nay họ muốn ông được ngủ ngon dưỡng sức để ngày mai, lại lao vào công việc
vô cùng bận rộn, đè nặng lên hai vai ông. Những người cận vệ gác đêm đi rón rén
từng bước nhẹ, êm ru quanh lều chiến của vị chủ tướng thân thiết của họ. Họ
không muốn lỡ chân làm kinh động giấc ngủ của ông.

Họ
có hay đâu Thân Cảnh Phúc vẫn chưa hề chợp mắt. Tâm hồn ông lâng lâng, đầu óc
hoàn toàn tỉnh táo. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô cửa nhỏ của chiếc lều chiến, mắt
đăm đăm nhìn về phương Bắc, những vì sao đêm tháng tư đang mờ dần và tắt biến
trong đám mây đen đang đùn lên ở chân trời phía bắc. Trong óc ông lại hiện lên
hình ảnh đám lão trượng bên ấy, hôm hạ thành Ung Châu…

Ông
còn nhớ rõ lắm, đúng hôm mồng một tháng ba, khi quân ta tràn vào Tướng phủ Tô
Giám, cắm ngọn cờ đại thắng lên thành Ung Châu giữa tiếng hò reo vang dậy, phá
tan tành các kho tàng chuẩn bị xâm lược của vương triều Tống, lấy đá lấp sông
ngăn chặn bước tiến của quân thù, rồi thu quân xong, chờ lệnh của Lý tướng quân
thì vệ sĩ vào cấp báo:

-
Bẩm chủ tướng: Có một đoàn già lão, râu bạc, tóc bạc, ăn mặc đủ sắc tộc, Hán
có, Mông có, Dao có, Nùng có… nằng nặc đòi bằng được vào yết kiến, để tạ ơn chủ
tướng, đằng sau là một đám tiểu đồng gánh gánh, gồng gồng nhiều lắm…

-
Cho họ vào. - Thân Cảnh Phúc truyền lệnh.

Ông
sửa mũ áo cho chỉnh tề hơn, lòng băn khoăn chợt nghĩ: “Thâm kế giặc chăng? Mưu
ma chước quỷ gì đây? Có lẽ chúng định cho người trá hàng theo ta về nước nằm
vùng để do thám tin tức, đánh ta trận tới chăng? Được!” Ông chậc lưỡi và vung
tay nói lớn:

-
Thực hư thế nào, lát nữa ta sẽ xử!

Ngoài
kia, mười hai ông già còn khỏe mạnh dẫn một đám tiểu đồng gồng gánh đi giữa hai
hàng vệ sĩ, đang tiến vào. Vừa trông thấy Thân Cảnh Phúc, tất cả già trẻ đều quỳ
xuống, cúi rạp người hai tay chắp lại, cung kính vái chào ông. Cảnh Phúc đáp lễ
rồi nhanh nhẹn nâng từng ông già Tàu dậy và cho phép đám tiểu đồng đứng lên miễn
lạy.

Cảnh
Phúc truyền cho các vệ sĩ đưa ghế mời các ông già ngồi.

Một
ông già Hán, vóc dáng to lớn, dam sạm nắng, vẻ phong trần, tự xưng là đấng trượng
phu của đất Tống, nói tiếng Việt rất sõi, đứng dậy chắp hai tay cung kính nói:

- Bẩm
thưa tướng công, chúng tôi đây những môn đệ của đức Khổng Tử, đã từng sang Đại
Việt, từ lâu đã biết danh tiếng của tướng công và cả Lý Phụ quốc Thái úy. Các đệ
đây đã đọc kỹ từng chữ trong lộ bố của các đại nhân. Dĩ nhiên người Tống không
tin những điều nói trong ấy. Bởi vậy, chúng tôi đã chia nhau đi theo sau khắp
các ngả đường tiến quân của các tướng lĩnh Đại Việt về đây. Sự thật về quân kỷ
nghiêm minh, tinh thần thượng võ và tài cầm quân của các đại nhân Đại Việt khiến
chúng tôi kinh hoàng, thần dân đất Tống kính phục, nhà nhà đội ơn. Các đại nhân
đã thắng và sẽ thắng. Vương An Thạch và nhà Tống hùng cường của chúng tôi khó
mà nuốt trôi Đại Việt. Bởi thế, thể theo lòng thần dân, các đệ đến đây để tạ ơn
tướng công và xin dâng chút lễ mọn này – xin chúc tướng công vạn tuế, vạn vạn
tuế! Mong rằng trên đường về nước, thần dân vẫn được đội ơn tướng công như lúc
ngài tiến quân sang hạ thành Tô Giám…

Những
mâm đồng sáng loáng phủ nhiễu đỏ, những quả sơn son thiếp vàng chất có ngọn, những
lụa, gấm, vàng, bạc, ngọc châu… được dâng lên.

Thân
Cảnh Phúc từ tốn đưa tay ngăn lại. Ông cảm ơn và nói rõ cho họ biết quân ta tiếng
sang với quân kỷ nghiêm ngặt thế nào thì khi về nước, sĩ tốt Đại Việt cũng làm
như vậy, không hề tơ hào đến cái kim sợi chỉ của thần dân Tống. Cảnh Phúc tiễn
đoàn người dâng lễ vật ra tận cổng trại đóng quân, những chú tiểu đồng gánh lễ
vật lặc lè quay ra và cả những ông già nữa. Những đôi mắt trẻ già kia đều ánh
lên nỗi kinh ngạc trước đức thanh liêm của người Đại Việt…

Cảnh
Phúc thiếp đi được một khắc, bỗng lại nghe tiếng những đoàn quân rầm rập bước
đi… Tỉnh hay mơ, ông tự hỏi và lại lắng nghe, đấy, những bước đi rầm rập… đúng
là bước chân đi. Ông vùng dậy gọi người vệ sĩ:

-
Có phải bước quân đi hay sao mà rầm rập vậy?

-
Dạ, bẩm đúng là bước quân đi đấy ạ!

Đúng
lúc đó, người giúp việc quân cơ chạy vào thưa:

-
Bẩm chủ tướng: Các hoàng nam từ khắp các bản, châu, làng, xã vâng mệnh của Phụ
quốc Thái úy đang kéo về đây như trẩy hội xin được đăng lính theo chủ tướng chống
giặc. Nhiều đoàn đi suốt đêm vừa mới đến, họ đòi vào đội ngũ ngay, các đệ ghi mỏi
tay mà không sao xuể, hoàng nam vẫn đang đổ về như nước lũ đầu mùa đông vô kể.
Bây giờ làm thế nào giải quyết nhanh cho anh em được nghỉ ngơi, xin chờ mệnh chủ
tướng.

-
Hãy bình tâm! - Thân Cảnh Phúc mỉm cười, nhấc bầu rượu lên, rót ra ba chén,
trao cho viên quan giúp việc quân và người vệ sĩ, tự mình nâng một chén, nhìn đỉnh
núi phía đông đỏ lựng những áng mây và nói:

-
Nào ta mừng buổi mai đầu tiên trên giang sơn gấm vóc của ta sau gần hai tuần
trăng xa cách, mừng các hoàng nam giàu tâm huyết và tràn đầy khí phách Đại Việt
của ta…

-
Còn việc tuyển quân, ghi không kịp sao? Lấy đấu mà đong, mỗi đấu một tốt. Các
trưởng tốt và trưởng ngũ đến đấu mà nhận quân, cho hoàng nam nghỉ ngơi ăn uống
rồi vào sổ sách, tách ra như vậy vừa nhanh việc vừa đỡ nhọc quan quân, vài ba đấu
vẫn chậm thì dùng nhiều đấu cứ thế mà đong…

-
A! - Viên quan giúp việc thông minh của Thân Cảnh Phúc vui sướng reo lên. Ông vội
vã chào chủ tướng rồi lao đi…

Những
cái “đấu đong quân” đó là những vòng tròn được vạch bằng vôi trên thảm đỏ, có lối
vào phía nam, lối ra phía bắc. Trong vòng tròn là một hình vuông cũng kẻ bằng
vôi, trong hình vuông là mười hàng thẳng tắp đều đặn, mỗi hàng có mười vạch
ngang đều đặn, đó là vị trí đứng vào Ngũ của mỗi hoàng nam. Cứ mỗi khắc, mỗi đấu
đong được năm tốt. Sự tích ra đời của các ngũ – tốt là như thế. Nhằm thể hiện ý
chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, các sĩ tốt của ta đã đắp đấu đong
quân thành chiến lũy hình tròn, có hầm ngầm bên trong thông giữa đấu đong quân
này sang đấu khác. Đấu chỉ huy ở giữa có hai đường hầm bí mật, một thông vào rừng
đại ngàn, một thông lên điệp trùng núi đá qua các hang động.

Chính
những “đấu đong quân” này đã làm cho chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết
nổi danh tài ba xuất quỷ nhập thần của nhà Tống phải vỡ mật, giập gan chạy
thoát thân về đến quê cha đất tổ rồi mà bảy ngày sau, trong cơn mê hoảng, vẫn
không tin là mình còn sống.

Ghi chú: Lịch sử Việt Nam (tập I):

(1) Mỗi tốt có 100 người

(2) Mỗi ngũ có 10 người

Mười ngũ là một tốt – 10 tốt là một
lữ - 10 lữ thành một quân – 10 quân thành một đạo…

6 – VỰC BƠI

Nếu
như thượng nguồn sông Thương là một dải lụa mềm của người thiếu nữ, làm mát
lòng những “Chàng trai núi đá”, đứng sừng sững uy nghiêm với tất cả sức mạnh
huyền bí của mình, thì đến cửa Biệt Thự xứ, dải lụa mềm ấy lại kín đáo làm
duyên bao thành một vòng tròn ngang lưng người thiếu nữ đất này. Vòng tròn đó
chính là Vực Bơi. Vực Bơi giống như một chiếc gương khổng lồ sáng trong màu ngọc
bích, bốn mùa đựng trong lòng nó hình ảnh kỳ vĩ của dãy núi cai Kinh, một phần
của vòng cung Bắc Sơn huyền diệu.

Về
mùa hạ, Vực Bơi giống như trái tim của người thiếu nữ sôi sục một tình yêu cuồng
nhiệt, dữ dội như ngọn nước lũ xoáy tròn ôm trọn trong đáy sâu của Vực mối tình
chung thủy với chàng trai “Rừng núi” thân thương, để rồi, sau đó lại êm ả như
mùa thu. Mùa hạ Vực Bơi để lại những đứa con “phù sa” màu mỡ làm nên vựa lúa
Chi Lăng với hai mùa vàng thắm và ngọt ngào của lúa, hai mùa xanh của đậu, ngô,
khoai, và hương thơm say người của thuốc lá sợi vàng.

Tương
truyền rằng:

Năm
1076, trên đường đi kinh lý phương Bắc, Lý Thường Kiệt đã nghỉ lại ở Biệt Thự xứ.
Buổi chiều, Thân Cảnh Phúc, một thủ lĩnh nổi tiếng của đội quân dân binh người
Quang Lang đã mời Lý Thường Kiệt ra Vực Bơi thăm cảnh, hóng gió nồm nam. Cảnh đẹp
dòng nước trong mát như chào mời vị tướng quân. Ông đã cởi áo chiến, cùng Thân
Cảnh Phúc và những nghĩa binh nổi tiếng của mình vẫy vùng trong hồ nước bạc mát
ngọt.

Tắm
xong, ông vỗ vai Thân Cảnh Phúc dặn dò:

-
“Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa!”(3)
Người lính trấn ải và người lính dân binh không những tinh thông về
võ nghệ, giỏi đánh tượng binh, kỵ binh mà còn phải tài ba trong thủy chiến. Vực
Bơi này là lò luyện tài nghệ của người dân binh đấy. Hiền đệ nên cho tập cả thủy
chiến. Ở đây cũng là trận địa thủy chiến chống quân kỵ lợi hại.

(3) Quân quý nhờ giỏi chứ không quý
nhờ nhiều.

Tuân
theo lời căn dặn của vị tướng tài thân thiết, Thân Cảnh Phúc đã dùng Vực Bơi
đào tạo những chiến sĩ thủy binh ngay trên quê hương rừng núi của mình.

Vài
tháng sau, mùa hạ năm 1076, Lý Thường Kiệt ngồi trên tảng đá cao bên bờ Vực
Bơi, trực tiếp duyệt một trận diễn tập thủy chiến giữa rừng núi do Thân Cảnh
Phúc đứng đầu.

Giữa
Vực Bơi là hai chiến thuyền buông neo cách nhau mười thước, giả làm thuyền của
địch. Từ mỗi chiến thuyền chăng hai dải nhiễu điều chạy suốt vào bờ làm Vòng Cấm.
Trên mỗi chiến thuyền, có mười hình người rơm cắp kiếm đứng ngang tàng, tượng
trưng cho thủy binh của địch.

Nghĩa
binh tham gia diễn tập thủy chiến, cầm cung, đeo kiếm, thắt bao tên độc quanh
mình. Mỗi thủy binh ngồi trên mộc chiếc thuyền độc mộc, từ thượng nguồn như mũi
tên theo dòng thác lao xuống bằng tay chèo tuyệt diệu của mình. Họ đã điều khiển
con “thủy mã” của mình lao vào hai chiến thuyền giặc, nhảy phắt lên chiến thuyền
bên phải, rút gươm xỉa mười mũi trúng cả mười vào tim mười tên địch. Từ thuyền
đó, họ giương cung bắn liền mười phát, mười mũi tên rung lên, cắm phập vào giữa
trán mười tên giặc ở chiến thuyền bên cạnh rồi người thủy binh nhảy ào xuống
dòng thác theo con “thủy mã” giữa tiếng reo hò vang dậy của đồng đội đứng dày đặc
quanh Vực Bơi.

Giữa
tiếng reo hò vang dậy của quân sĩ, Lý Thường Kiệt, với đôi mắt sáng ngời, đưa
vòng tay ôm chặt những nghĩa binh ướt đầm từ cuối vực đi lên, người còn lảo đảo
vì sóng nước và chiến công trong diễn tập của mình.

Những
cuộc diễn tập tuyệt vời giữa dòng nước xiết ấy, không chỉ đòi hỏi lòng dũng cảm,
sức khỏe dồi dào dạn dày sóng nước mà còn đòi hỏi tài nghệ, cung kiếm, điêu luyện
tuyệt vời của người nghĩa sĩ dân binh! Nhờ dày công luyện tập và được vũ trang
bằng lòng yêu nước sáng ngời, những nghĩa sĩ dân binh ở đây, đã giáng những đòn
quyết liệt, hết sức bất ngờ vào sườn quân địch.

Khi
hùng hổ dẫn quân ào ạt vượt qua mảnh đất thiêng này, Quách Quỳ chỉ ra lệnh cho
quân sĩ lấy khiên che những luồng tên như mưa, từ vách núi cao rừng sâu bắn ra.

Hắn
có ngờ đâu, từ những lùm cây dày đặc ven sông, hàng loạt tên tẩm độc bắn tới tấp
vào mạng sườn không khiên che của chúng.

Bộ
binh, kỵ binh đổ nhào, đè xác lên nhau, giãy chết. Số kỵ binh thoát chết, quất
ngựa chạy ào lên. Nhưng tuấn mã của bọn chúng nhanh làm sao bằng những con “thủy
mã” độc mộc xuôi dòng thác đón đường quật tiếp.

Từ
đó, Vực Bơi đi vào trái tim nhân dân miền Thượng, đi vào những trang sử chiến
công chói lọi của dân tộc ta.

Với
cách khổ luyện đó, năm 1285, thủ lĩnh du binh miền biên cương của tổ quốc ta là
Nguyễn Địa Lô đã lập một chiến công lớn được ghi vào sử sách.

Đó
là chiến công bắn chết tên phản quốc Trần Kiện ở đất thiêng Chi Lăng. Tên Việt
gian vừa đến trại Ma Lục, đã bị ghìm đầu xuống đất bằng một trận mưa tên bão kiếm.
Hàng nghìn xác người ngựa nằm chồng chất lên nhau suốt từ trại Ma Lục đến Đồng
Bành, dài đến 8 cây số.

Giữa
lúc hỗn quân, hỗn quan, Trần Kiện quất ngựa lồng lên hòng tẩu thoát. Nguyễn Địa
Lô đã băng mình trên dòng thác, bằng con “thủy mã” của mình đến Vực Bơi rồi nhảy
phắt lên bờ. Vừa đến, mũi tên căng và thẳng như kẻ chỉ của Nguyễn Địa Lô đã hất
xác tên phản quốc Trần Kiện lăn nhào xuống đất.

Người
Chi Lăng, đất Chi Lăng, một mảnh đất thiêng của đất nước, đã không cho kẻ thù
xâm lược thoát thân thì dễ gì lại để cho bọn bán nước sống sót?

Vực
Bơi sôi sục chiến công vào mùa hạ, lại trong mát, yên lành với mùa thu thanh
bình, mùa xuân hi vọng và mùa đông ngọt nước cho nương xanh.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3