Hai mươi năm sau - Chương 34 + 35
Chương 34
Xá tội
Việc ấy
diễn ra như thế nào?
Chúng ta đã thấy chẳng
phải do tự nguyện, mà trái hẳn lại, vì miễn cưỡng mà gã mục sư phải đi theo kẻ
bị thương được gửi gắm cho gã một cách đến là kỳ cục. Có lẽ hắn đã tìm cách
chạy trốn nếu có thể được; nhưng những lời dọa nạt của hai người quý tộc, đám tùy tùng ở ngay cạnh họ và
chắc đã được dặn là chẳng nên tỏ ra ác ý quá đã khiến gã mục sư đóng vai người
nghe xưng tội cho đến nơi đến chốn. Và khi đã vào buồng rồi, hắn đến bên giường
kẻ bị thương.
Bằng một cái nhìn mau
lẹ đặc biệt ở những kẻ sắp chết do đó không có thì giờ để mất, gã đao phủ ngắm
nghía khuôn mặt của kẻ sẽ là người an ủi mình; rồi tỏ vẻ kinh ngạc nói:
- Thưa cha, cha hãy còn
trẻ thế?
- Những người mặc chiếc
áo như của tôi không có tuổi, viên mục sư khô khan đáp.
- Chao ôi! - Kẻ bị
thương nói, - xin cha hãy nói năng với tôi nhẹ nhàng hơn một chút; tôi cần có
một người bạn trong lúc lâm chung này.
- Ông đau đớn lắm à? -
Mục sư hỏi.
- Vâng, nhưng đau đớn
linh hồn nhiều hơn thể xác.
- Ta sẽ cứu vớt linh
hồn cho ông, - người trẻ tuổi nói, - nhưng có thật ông là đao phủ xứ Béthune
như những người kia nói không?
Chắc hắn sợ rằng cái
tiếng đao phủ sẽ xua đi những việc giúp cuối cùng mà mình cầu xin, kẻ bị nạn
vội vàng nói:
- Nghĩa là tôi đã làm
nghề ấy, nhưng bây giờ thì không làm nữa tôi đã bỏ nghề mười lăm năm rồi. Tôi
vẫn còn dự những cuộc hành quyết, nhưng tự tôi không làm, ồ, không!
- Vậy là ông kinh sợ
cái nghề của ông à?
Gã đao phủ buông một
tiếng thở dài, rồi nói:
- Chừng nào mà tôi còn
hạ thủ nhân danh pháp luật và công lý thì cái nghề của tôi vẫn cho tôi ngủ yên
vì được núp dưới bóng công lý và luật pháp. Nhưng từ cái đêm khủng khiếp mà tôi
được dùng làm công cụ cho một cuộc trả thù riêng và tôi đã vung dao với lòng
căm ghét lên một tạo vật của Chúa, thì từ ngày ấy…
Gã đao phủ ngừng lời và
lắc đầu một cách tuyệt vọng.
Mục sư ngồi ở chân
giường kẻ bị thương bắt đầu quan tâm đến câu chuyện kể ra một cách thật lạ
lùng.
Với tất cả sức bật của
một nỗi đau khổ từ lâu dồn nén lại nay cuối cùng bộc lộ ra, kẻ sắp lìa đời kêu
lên:
- Ôi, tôi cũng đã cố
dập tắt nỗi hồi hận bằng hai mươi năm làm việc thiện; tôi đã lột bỏ tính tàn
bạo tự nhiên cho những kẻ đổ máu; trong mọi cơ hội, tôi đã liều thân để cứu
tính mạng của những kẻ lâm nguy và tôi đã giữ gìn cho cõi trần những kiếp người
để đổi lại những kiếp sống mà tôi đã cướp đi. Chưa phải đã hết: của cải thu
được trong việc hành nghề của tôi, tôi đem chia cho những kẻ nghèo. Tôi chăm đi
lễ nhà thờ, những người trước lẩn tránh tôi đã quen nhìn tôi. Mọi người đã tha
thứ cho tôi, vài người còn yêu mến tôi nữa. Nhưng tôi chắc rằng Chúa đã không
tha thứ cho tôi vì rằng cái kỉ niệm về cuộc hành quyết ấy cứ theo đuổi tôi mãi,
và dường như đêm nào tôi cũng thấy hiện lên trước mặt tôi quái tượng của người
đàn bà ấy.
- Một người đàn bà! Thế
ra ông đã ám sát một người đàn bà? - Mục sư kêu lên.
- Thì ra ông cũng vậy?
- Gã đao phủ nói - Ông đã dùng một từ nó vang bên tai tôi: ám sát? Vậy là tôi
đã ám sát, chứ không phải hành quyết. Vậy tôi là một kẻ sát nhân, chứ không
phải là một kẻ xử tội!
Hắn nhắm mắt lại và
buông ra một tiếng rên rỉ. Hẳn là sợ hắn chết mà không nói thêm được gì, mục sư
vội vàng bảo:
- Tiếp tục đi, tôi
không biết gì về chuyện đó cả. Khi nào ông kể hết, Chúa và tôi sẽ phán xử.
Như sợ mở mắt ra là lại
trông thấy một vật gì đó hãi hùng, gã đao phủ vẫn nhắm mắt kể tiếp:
- Ôi thưa cha, nhất là
ban đêm mà tôi đi qua sông thì nỗi kinh hoàng mà tôi không thể thắng nổi lại
càng tăng gấp bội; lúc ấy bàn tay tôi nặng trĩu cứ như vẫn còn cầm thanh đao;
nước sông trở thành màu máu, và tất cả những tiếng nói của thiên nhiên, tiếng
cây cối xào xạc, tiếng gió thổi rì rào, tiếng sóng vỗ ì ộp, tất cả hòa thành
một tiếng khóc than, tuyệt vọng, kinh hồn thét vào tai tôi: "Hãy để cho
công lý của Thượng đế phán xử."
- Mê sảng? - Mục sư lẩm
bẩm và lắc đầu.
Đao phủ mở choàng mắt,
cố xoay mình về phía mục sư và nắm lấy cánh tay mà nói:
- Mê sảng, ông bảo thế
à? Ồ, không đâu, vì rằng đó là buổi tối, vì rằng tôi đã ném xác người ấy xuống
sông, vì rằng những lời lẽ mà niềm hối hận nhắc lại với tôi những lời lẽ ấy
chính tôi đã thốt ra trong niềm kiêu hãnh; sau khi là công cụ của công lý con
người, tôi tưởng rằng mình đã trở thành công cụ của công lý Thượng đế!
- Nhưng này, chuyện ấy
xảy ra thế nào nhỉ? - Mục sư hỏi.
- Vào một buổi tối một
người đàn ông đến tìm tôi, đưa cho tôi xem một tờ lệnh, tôi đi theo ông ta. Bốn
vị lãnh chúa khác chờ tôi. Họ che mặt tôi và dẫn tôi đến. Tôi vẫn dành quyền
phản đối, nếu như công việc mà họ bắt tôi làm tỏ ra không đúng. Chúng tôi đi
chửng năm sáu dặm đường, buồn thảm, lặng lẽ và hầu như chẳng nói một lời. Cuối
cùng qua cửa sổ một căn nhà tranh nhỏ, họ trỏ cho tôi trông thấy một người đàn
bà đang ngồi tì tay lên bàn và bảo tôi: "Đó là người cần phải hành
quyết."
- Kinh khủng! - Mục sư
nói. - Và ông đã tuân theo?
- Thưa cha, người đàn
bà ấy là một con quái vật: người ta nói mụ đã đầu độc người chồng thứ hai của
mình mưu toan ám sát anh chồng mình, ông này cũng có mặt trong số những người ở
đây; mụ vừa mới đầu độc chết một thiếu phụ trẻ là tình địch của mụ, và người ta
còn nói là trước khi rời nước Anh, mụ còn sai người đâm chết vị sủng thần của
vua.
- Buckingham? - Mục sư
kêu lên.
- Phải, Buckingham,
đúng thế.
- Người đàn bà ấy là
người Anh phải không?
- Không, là người Pháp,
nhưng lấy chồng ở Anh.
Mục sư tái mặt đi và
lau mồ hôi trán, rồi ra cài chốt cửa lại. Đao phủ tưởng gã bỏ rời mình lại nằm
vật ra giường mà rên rỉ.
- Không, không, tôi đây
- mục sư nói và vội vàng trở lại bên giường. - Kể tiếp đi, những người đàn ông
ấy là ai?
- Một là người ngoại
quốc, người Anh thì phải. Bốn người kia là người Pháp và mặc binh phục ngự lâm
quân.
- Tên họ là gì? - Mục
sư hỏi.
- Tôi không biết. Song
bốn vị công hầu kia gọi người Anh là Milordr.
- Người đàn bà ấy có
đẹp không?
- Trẻ và đẹp! À phải,
nhất là đẹp. Tôi vẫn còn như trông thấy bà ta lúc quỳ dưới chân tôi, bà ta cầu
nguyện, đầu ngửa ra đằng sau. Từ đấy tôi không bao giờ hiểu nổi làm sao mà tôi
lại chém một cái đầu xinh đẹp và tái xanh đến thế.
Mục sư như bị một nỗi
xúc động lạ lùng: chân tay run lên bần bật; miệng muốn hỏi một câu mà không
dám.
Cuối cùng sau một cố
gắng mãnh liệt, gã nói:
- Tên người đàn bà ấy
là gì?
- Tôi không biết. Như
tôi đã nói, bà ta lấy chồng hai lần. Một lần ở Pháp, một lần ở Anh.
- Ông bảo bà ta còn trẻ
à?
- Hai mươi lăm tuổi.
- Xinh đẹp à?
- Mê hồn.
- Tóc hoe vàng?
- Phải.
- Tóc rậm phải không,
và xõa xuống ngang vai?
- Phải.
- Mắt có nét biểu hiện
tuyệt vời phải không?
- Khi nào bà ta muốn.
Ồ, phải đúng như thế.
- Giọng nói dịu dàng kỳ
lạ.
- Làm thế nào mà ông
biết được.
Đao phủ chống tay lên
giường và đưa mắt kinh hãi nhìn chằm chằm vào mục sư đang tái nhợt đi.
- Và ông đã giết bà ta?
- Mục sư nói - Ông đã làm công cụ cho những kẻ hèn nhát ấy, chứng không dám tự
mình giết bà ta! Ông đã không thương hại cái tuổi trẻ ấy, cái nhan sắc ấy, cái
sự yếu đuối ấy!
- Ông đã giết người đàn
bà ấy!
- Than ôi! - Đao phủ lại nói, - Thưa
cha, tôi đã nói rằng người đàn bà ấy, dưới cái vỏ thiên thần ấy, che giấu một
linh hồn địa ngục, và khi tôi trông thấy mụ ấy, khi tôi nhớ lại tất cả những
tội ác mà mụ ta đã gây ra với bản thân tôi…
- Với ông à? Thế bà ta
đã có thể làm gì với ông? Nào!
Mụ ta đã quyến rũ và
làm hại em tôi là một linh mục mụ cùng với hắn trốn khỏi tu viện.
- Với em ông à?
- Phải. Em trai tôi là
tình nhân đầu tiên của mụ, mụ là nguyên nhân cái chết của em tôi. Ôi, thưa cha,
xin cha đừng nhìn tôi như vậy! Ôi! Vậy tôi là kẻ phạm tội ư? Ôi! Cha không tha
thứ cho tôi ư?
Mục sư sửa lại nét mặt
cho nghiêm và nói:
- Có chứ, có chứ! Tôi
sẽ tha thứ cho ông, nếu ông kể cho tôi nghe tất cả!
- Ôi! - Đao phủ kêu. -
Tất cả! Tất cả! Tất cả!
- Thế thì hãy trả lời.
Nếu như bà ta đã quyến rũ em ông… ông nói là bà ta quyến rũ em ông chứ gì?
- Vâng.
- Thể thì ông phải biết
rõ tên thời con gái của bà ta chứ?
- Ôi lạy Chúa! - gã đao
phủ kêu lên! - Hình như tội sắp chết đến nơi rồi. Xá tội, cha ơi! Xá tội!
- Hãy nói tên bà ta! -
Mục sư bảo. - Và ta sẽ xá tội cho.
- Bà ta tên là… lạy
Chúa hãy thương con? - Đao
phủ lầm bầm. Và hắn nằm vật ra giường, tải mét, rùng mình như người sắp chết
hẳn.
Gã mục sư cúi mình
xuống tên đao phủ như muốn dứt ra cái tên ấy từ lưỡi hắn nếu hắn không muốn
nói.
Gã bảo:
- Tên bà ta là gì? Tên
bà ta!… Nói đi nếu không thì không có xá tội gì hết.
Kẻ sắp chết như gom hết
sức mình lại.
Cặp mắt mục sư lóe
sáng.
- Anne de Bueil? - Kẻ bị thương lẩm bẩm.
- Anne de Bueil! - Mục
sư kêu lên và vừa đứng bật dậy vừa giơ hai tay lên trời, - Anne de Bueil? Mi
nói đúng Anne de Bueil phải không?
- Phải, phải, chính tên
bà ta, và bây giờ hãy xá tội cho tôi, vì tôi đang chết đây.
- Ta xá tội cho mi! -
Gã mục sư kêu lên với một cái cười ghê rợn làm dựng đứng tóc gáy kẻ sắp chết. -
Ta xá tội cho mi ư? Ta không phải là linh mục?
- Ông không phải là
linh mục ư? - Tên đao phủ kêu lên - Thế ông là vậy?
- Ta sẽ nói cho mi
biết, tên khốn kiếp!
- Ôi, lạy Chúa! Lạy
chúa!
- Ta là John Francis de
Winter!
- Tôi không biết ông? -
Đao phủ nói.
- Đợi đấy, đợi đấy mi
sẽ biết về ta: ta là John Francis de Winter; còn người đàn bà ấy….
- Sao! Người đàn bà
ấy…?
- Là mẹ của ta.
Tên đao phủ thét lên
tiếng kêu thứ nhất, tiếng kêu khủng khiếp mà người ta nghe thấy trước tiên.
- Ôi! Hãy tha thứ cho
tôi, hãy tha thứ cho tôi - hắn lẩm bẩm, - nếu không phải là nhân danh Chúa thì
ít ra là nhân danh ông, nếu không phải là với tư cách linh mục thì ít ra với tư
cách con trai bà.
- Tha thứ cho mi ư? -
Gã mục sư quát - Tha thứ cho mi ư? Chúa có lẽ làm như vậy, nhưng ta thì không
bao giờ?
- Vì lòng thương, - tên
đao phủ vừa nói vừa giơ tay về phía gã.
- Không có lòng thương
đối với kẻ đã không có lòng thương. Mi hãy chết mà không được sám hối, chết
tuyệt vọng và bị đày xuống địa ngục!
Rồi rút từ trong áo dài
ra một con dao găm, hắn đâm vào ngực tên đao phủ mà nói:
- Này, xá tội của ta
đây!
Đó là lúc người ta nghe
tiếng kêu thứ hai yếu ớt hơn tiếng kêu thứ nhất và kèm theo một tiếng rên rỉ
dài.
Tên đao phủ nhổm người
lên, rồi ngã vật xuống giường. Còn gã mục sư chẳng rút con dao ra khỏi vết
thương, chạy tới cửa sổ, mở ra, nhảy xuống vườn hoa, tuồn ra chuồng ngựa, chộp
lấy con la, chuồn ra cổng sau, phóng một mạch cho đến một khóm rừng, cởi bỏ cái
áo mục sư, lấy ở va-li ra một bộ đồ kỵ sĩ mặc vào, đi bộ đến bưu trạm gần nhất,
lấy một con ngựa và dong cương phóng thẳng trên con đường về Paris.
Chương 35
Grimaud nói
Grimaud đứng một mình
bên cạnh người đao phủ. Chủ quán đi gọi cấp cứu; vợ bác cầu nguyện.
Một lát sau kẻ bị
thương mở mắt.
- Cứu giúp tôi với? Cứu
giúp tôi với! - Hắn
lẩm bẩm.
- Ôi, lạy Chúa? Lạy
Chúa! Thế là tôi chẳng tìm được ở trên đời này một người bạn đã giúp tôi sống
hoặc giúp tôi chết hay sao?
Và hắn cố đưa bàn tay
lên ngực; bàn tay đụng phải cái đốc dao găm.
- A! - Hắn nói như một
người chợt nhớ ra. Và lại để cánh tay rơi xuống bên mình.
- Hãy cố gắng nhé -
Grimaud bảo - đang cho đi gọi cấp cứu.
- Ông là ai thế? - Kẻ
bị nạn giương trừng trừng đôi mắt nhìn Grimaud và hỏi:
- Một người quen cũ, -
Grimaud đáp.
- Ông ư?
Kẻ bị nạn đang cố nhớ
lại nét mặt người đang nói với mình và hỏi:
- Chúng ta đã gặp nhau
trong hoàn cảnh nào nhỉ?
- Một đêm cách đây hai
mươi năm; ông chú tôi đã đến tìm ông ở Béthune và dẫn ông đến Armentières.
- Tôi nhận ra ông rồi,
- đao phủ nói, - ông
là một trong số bốn người hầu.
- Phải rồi.
- Ông từ đâu đến đây?
- Tôi đi qua đường và
dừng lại ở quán này để cho ngựa nghỉ ngơi. Người ta kể cho tôi nghe rằng người
đao phủ xứ Béthune bị thương đang nằm ở đây, thì ông thét lên hai tiếng. Nghe
tiếng đầu tiên chúng tôi chạy lại, nghe tiếng thứ hai chúng tôi phá cửa vào.
- Thế còn mục sư - đao
phủ hỏi, - Ông có trông thấy mục sư không?
- Mục sư nào?
- Mục sư ngồi trong
buồng này với tôi ấy.
- Không, hắn không còn
đây nữa? Hình như nó đã trốn qua cửa sổ. Phải chăng chính hắn đã đâm ông?
- Phải.
Grimaud toan đi ra.
- Ông định làm gì thế?
- Kẻ bị nạn hỏi.
- Phải đuổi theo nó.
- Phải đề phòng cẩn
thận đấy, - đao phủ nói.
- Tại sao vậy?
- Hắn trả thù và hắn đã
làm được. Giờ đây tôi hi vọng Chúa sẽ tha thứ cho tôi, bởi vì đã có sự chuộc
tội.
- Ông cắt nghĩa xem
nào, - Grimaud nói.
- Người đàn bà kia mà
các ông và chủ của các ông sai tôi giết…
- Milady?
- Phải rồi, Milady,
đúng thế, các ông gọi như vậy mà.
- Có liên quan gì giữa
Milady và gã mục sư.
- Mẹ của nó đấy.
Grimaud lảo đảo và nhìn
kẻ sắp chết bằng con mắt mờ xỉn và ngậy dại.
- Mẹ của nó đấy! - Bác
nhắc lại. - Phải, chính mẹ nó.
- Thế nó biết điều bí
mật ấy à?
- Tôi ngỡ nó là mục sư,
nên khi xưng tội đã bộc lộ ra chuyện ấy.
- Khốn khổ chưa? -
Grimaud kêu lên, tóc bác đẫm mồ hôi khi nghĩ đến việc bộc lộ ấy có thể gây ra
những hậu Pomme-de-Pin như thế nào. – Khốn khổ chưa! Ông không nói ra tên ai
chứ?
- Không, vì tôi chẳng
biết một tên nào cả, trừ cái tên thời con gái của mẹ hắn, và cũng vì cái tên ấy
mà hắn đã nhận ra mẹ mình nhưng hắn biết rằng ông bác của hắn ở trong số những
người xử tội.
Và kẻ bị nạn lại xỉu đi
vì kiệt sức. Grimaud muốn giúp và đưa bàn tay đến cán con dao.
- Đừng có đụng vào -
đao phủ nói, - nếu rút con dao ra là tôi sẽ chết ngay.
Grimaud vẫn giơ ra, rồi
bỗng nhiên đập vào trán mình mà nói:
- A! Nếu như bây giờ mà
kẻ ấy biết những người kia là ai, thì chủ mình nguy to.
- Gấp lên, gấp lên nào!
- Người đao phủ kêu lên, - hãy báo gấp cho ông chủ biết nếu ông ấy còn sống;
hãy bảo cho các bạn của ông ấy nữa. Hãy tin rẳng cái chết của tôi sẽ không phải
là sự kết thúc của câu chuyện phiêu lưu khủng khiếp ấy đâu.
- Hắn đi đâu? - Grimaud
hỏi.
- Về phía Paris.
- Ai đã ngăn hắn lại?
Hai nhà quý tộc trẻ
đang đi tới quân đội. Một người được bạn kia gọi là tử tước de Bragelonne.
- Và chính người thanh
niên ấy đã dẫn gã mục sư đến cho ông à?
- Phải.
Grimaud ngước mắt lên
nhìn trời nói:
- Phải chăng đó là ý
Chúa?
- Tất nhiên rồi, - kẻ
bị thương nói.
- Thế thì kinh hãi
thật, - Grimaud lẩm bẩm. - Tuy nhiên mụ đàn bà ấy cũng đáng kiếp. Ý kiến ông
không phải thế nữa sao?
- Vào lúc chết, - gã
đao phủ lại nói, - người ta thấy tội ác của các kẻ khác chẳng thấm vào đâu so
với những tội ác của mình.
Và hắn kiệt sức, nhắm
mắt lại.
Grimaud đang bị giằng
co giữa lòng thương hại không cho bác để mặc người đó không được cứu chữa và
nỗi lo sợ giục giã bác phải đi ngay để mang cái tin mới mẻ này đến cho bá tước
de La Fère thì nghe có tiếng động ở hành lang và trông thấy chủ quán trở về
cùng với nhà phẫu thuật mà cuối cùng người ta đã tìm được Nhiều người tò mò đi
theo sau; tin đồn về sự biến lạ lùng này bắt đầu lan rộng.
Nhà phẫu thuật đến gần
kẻ bị nạn hình như đã ngất.
- Trước hết phải rút
con dao ra khỏi ngực đã. - Ông ta vừa nói vừa lắc đầu một cách đầy ý nghĩa.
Grimaud nhớ đến điều
tiên đoán mà kẻ bị thương vừa mới nói lúc nãy và quay mặt đi.
Nhà phẫu thuật phanh
chiếc áo chẽn ngoài, xé áo sơ-mi và để lộ ngực trần của nạn nhân ra.
- Chúng tôi đã nói là
lưỡi dao cắm ngập đến tận cán.
Nhả phẫu thuật cầm mỏm
chuôi dao; ông từ từ rút ra và kẻ bị nạn mở mắt ra trừng trừng trông đến thật
kinh hãi. Khi lưỡi dao rút ra hẳn, một đám bọt hồng hồng trào ra quanh miệng kẻ
bị thương, rồi lúc người ấy thở, một dòng máu từ vết thương vọt ra. Kẻ bị
thương nhìn chằm chằm vào Grimaud với một vẻ biểu hiện rất lạ lùng, buông ra
rnột tiếng rên bị tắc nghẹn và tắt thở ngay lập tức.
- Thế là Grimaud nhặt
lấy con dao găm đầy máu me nó làm cho tất cả mọi người kinh sợ rồi bác ra hiệu
gọi chủ quán đến, trả tiền với sự hào phóng thật xứng đáng với chủ mình và lên
ngựa.
Lúc đầu Grimaud toan
quay trở lại Paris ngay; nhưng rồi bác nghĩ Raoul sẽ lo lắng về sự vắng mặt kéo
dài của bác; bác nhớ là Raoul ở cách chỗ bác lúc này có hai dặm, trong mười lăm
phút là bác sẽ tới, rồi vừa đi vừa trở lại vừa giải thích cũng chẳng đến một
tiếng đồng hồ; thế là bác cho ngựa phi nước đại và mười phút sau bác đã đến
quán Con la đội miện(1), cái quán duy nhất ở Mazingarbe.
(1)Con la đội miện=
Mulet-Couronné.
Mới trao đổi mấy câu
với chủ quán, bác đã biết chắc là đã theo kịp người mình đang tìm.
Raoul đang ngồi bàn ăn
cùng với bá tước de Guise và viên quản lý nhưng câu chuyện phiêu lưu buồn thảm
ban sớm vẫn để lại trên hai vầng trán trẻ một nét ưu sầu mà sự vui nhộn của ông Arminges vững vàng
hơn họ do đã quen nhìn thấy những cảnh tượng như vậy, cũng không xua tan nổi.
Bỗng nhiên cửa mở và
Grimaud xuất hiện, mặt tái xanh, người đầy bụi bậm và vẫn áo còn nhuốm máu của
kẻ bị thương khốn khổ.
- Grimaud, bác Grimaud
hiền lành của tôi ơi, - Raoul reo lên, - cuối cùng, bác đến đây rồi. Xin lỗi
các ông nhé, đây không phải người hầu mà là một người bạn.
Rồi đứng lên và chạy
tới bác, anh nói tiếp:
- Bá tước thế nào? Ông
có nhớ tôi chút nào không? Bác có gặp bá tước từ sau khi chúng tôi chia tay
nhau không? Bác trả lời đi. Về phần tôi cũng có rất nhiều điều nói với bác đấy.
Này chỉ mới ba ngày thôi mà đã xảy đến với chúng tôi bao nhiêu là chuyện rắc
rối. Ơ, nhưng mà bác làm sao thế? Trông bác tái mét đi? Lại máu nữa kìa! Máu ở
đâu ra?
- Pomme-de-Pin thật là
có máu! - Bá tước de Guise nói và đứng dậy. – Bác có bị thương không, ông bạn
của tôi?
- Không đâu, ông ạ, -
Grimaud đáp, - đây không phải là máu của tôi:
- Thế máu của ai? -
Raoul hỏi.
- Đó là máu của kẻ khốn
khổ mà ông đã để lại ở quán hàng và hẳn đã chết ở trong tay tôi.
- Ở trong tay bác? Cái
người ấy à! Nhưng bác có biết đó là ai không?
- Có. - Grimaud đáp.
- Đấy là đao phủ cũ ở
Béthune.
- Tôi biết.
- Bác quen hắn à?
- Tôi quen hắn.
- Hắn chết rồi ư?
- Rồi.
Hai thanh niên nhìn
nhau.
- Biết làm thế nào, các
ông ơi, - Arminges nói, - đó là quy luật chung, và đã làm đao phủ người ta
chẳng vì thế mà được miễn bị đao phủ giết. Cái lúc tôi trông thấy vết thương
của hắn, tôi đã có ý nghĩ không hay về nó rồi, và các ông biết đấy, đó là quan
niệm riêng của hắn bởi vì hắn cứ nằng nặc đòi một mục sư.
Nghe tiếng mục sư,
Grimaud tái mặt.
Giống như mọi người ở
thời ấy và nhất là ở lứa tuổi như mình, Arminges không chấp nhận sự mẫn cảm
giữa hai công việc, ông nói:
- Thôi, thôi, ta vào
bàn ăn đi!
- Vâng, ông nói phải
đấy! - Raoul đáp. - Nào Grimaud, bác bảo họ dọn cho bác ăn đi; cứ đặt, cứ gọi
và sau khi bác đã nghỉ ngơi, ta sẽ nói chuyện.
- Không, ông ạ, không,
- Grimaud nói - tôi không thể dừng lại đây một lát nào cả, tôi cần phải trở lại
Paris.
- Thế nào, bác trở lại
Paris ư? Bác lầm rồi, chính Olivain mới trở về, còn bác, bác ở lại.
- Trái lại, chính
Olivain mới ở lại còn tôi đi về. Tôi đến đây chỉ cốt để báo cho ông biết điều
đó.
- Nhưng do đâu mà có sự
thay đổi ấy.
- Tôi không thể nói với
ông được.
- Bác hãy nói rõ đi.
- Tôi không thể nói rõ
được.
- Này, bác đùa đấy ư?
- Ông Tử tước biết rằng
tôi không đùa bao giờ.
- Ừ, nhưng tôi cũng
biết rằng Bá tước de La Fère đã nói là bác sẽ ở lại với tôi, còn Olivain sẽ trở
lại Paris. Tôi sẽ theo lệnh của bá tước.
- Trong trường hợp này
thì không, ông ạ.
- Tại sao mà bác không
tuân lời tôi ư?
- Vâng, thưa ông, cần
phải như thế.
- Vậy là bác vẫn khăng
khăng?
- Vậy là tôi cứ đi;
chúc ông Tử tước may mắn.
Grimaud chào và quay ra
cửa. Raoul vừa tức giận vừa lo lắng, chạy theo và nắm tay giữ bác lại.
- Grimaud, - Raoul kêu
lên - Hãy ở lại, tôi muốn vậy.
- Thế là, - Grimaud
nói, - Ông muốn tôi để mặc bá tước bị giết hay sao?
Grimaud chào và sắp sửa
đi ra, Tử tước vội nói:
- Grimaud, bạn của tôi
ơi, bác sẽ không ra đi như vậy, bác sẽ không để mặc tôi trong một nỗi lo lắng
dường này. Grimaud, nói đi, nói đi nào, nhân danh Chúa trời! - và Raoul lảo đảo
rơi mình xuống chiếc ghế bành.
- Ông ơi, tôi có thể
nói với ông một điều thôi, bởi vì bí mật mà ông hỏi không thuộc về tôi. Ông đã
gặp mục sư phải không?
- Phải.
Hai chàng thanh niên
nhìn nhau hoảng hốt.
- Ông dẫn hắn đến bên
người bị thương?
- Phải.
- Ông có thì giờ để
nhìn hắn chứ?
- Phải.
- Và nếu có bao giờ gặp
lại hắn, có thể ông sẽ nhận ra hắn chứ?
- Ồ, có chứ, tôi xin
thề như vậy, - Raoul đáp.
- Cả tôi nữa, - de
Guise nói.
- Vậy thì nếu có bao
giờ gặp hắn, - Grimaud nói, - dù bất cứ ở đâu, trên đường cái, trong phố xá,
tại nhà thờ, ở chỗ nào có hắn và có các ông, thì hãy giẫm chân lên xéo nát hắn,
không thương hại, không dung tha, như ông sẽ làm đối với một con rắn, một con
rắn hổ mang một con rắn độc; hãy nghiền nát nó ra và chỉ bỏ đi khi nào nó chết
hẳn. Chừng nào nó còn sống thì tôi thấy tính mạng của năm con người còn bấp
bênh lắm.
Rồi không nói thêm một
lời, thừa lúc mấy người còn đang ngơ ngác và kinh hoàng về cái điều bác vừa kể,
Grimaud băng mình ra khỏi phòng.
- Này bá tước ơi, -
Raoul quay về phía de Guise và nói - tôi đã chẳng nói với anh rằng cái tên mục
sư ấy gây tác động với tôi đúng như một con rắn là gì!
Hai phút sau có tiếng
ngựa phi nước đại trên đường cái. Raoul chạy ra cửa sổ xem.
Đó là Grimaud lên đường
về Paris. Bác vẫy mũ chào tử tước và phút chốc đã khuất ở góc đường.
Trên đường, Grimaud suy
nghĩ về hai điều: thứ nhất là cứ cái đà chạy này thì ngựa không đi nổi mười
dặm.
Thứ hai là bác không
còn tiền.
Nhưng Grimaud càng nói
ít thì tưởng tượng càng phong phủ.
Đến bưu trạm đầu tiên
mà bác gặp, bác bán phăng con ngựa đi và lấy tiền đi xe trạm.