Hai mươi năm sau - Chương 15
Chương 15
Hai cái đầu thiên thần
Đó là một chặng đường
dài, nhưng D’Artagnan không hề lo ngại. Anh biết rằng những con ngựa đã hồi sức
ở những máng ăn đầy ắp của lâu đài lãnh chúa De Bracieux. Anh vững tâm lao đi bốn năm ngày đàng,
với Planchet trung thành đi theo.
Như chúng tôi đã nói,
để chống những nỗi buồn chán dọc đường, hai người ấy lúc nào cũng đi bên cạnh
nhau và chuyện trò suốt. Dần dà D’Artagnan cởi bỏ cái mã ông chủ và Planchet
cởi bỏ cái lốt thằng hầu. Là một kẻ tinh ranh sâu sắc, từ khi sống cuộc đời
trưởng giả ngẫu nhiên hắn thường luyến tiếc những bữa ăn ngon lành mà rẻ tiền
trên đường thiên lý cũng như những cuộc chuyện trò và đám bạn bầu danh giá của
các nhà quý tộc và tự cảm thấy mình có một giá trị nào đó, hắn đau lòng thấy
mình bị giảm giá khi tiếp xúc thường xuyên với những kẻ có tư tưởng tầm thường.
Thế là chẳng mấy chốc
hắn tự nâng mình lên hàng bạn tri kỉ của con người mà hắn vẫn gọi là ông chủ.
Đã từ bao nhiêu năm D’Artagnan không cởi mở tấm lòng. Vậy khi gặp nhau, hai con
người ấy hợp với nhau một cách tuyệt vời.
Vả chăng, Planchet
không phải là một kẻ bạn đường phiêu lưu hoàn toàn tầm thường; hắn thường có
những ý hay, không tìm kiếm hiểm nguy nhưng hắn không lùi bước trước những trận
đánh, như D’Artagnan đã có nhiều dịp chứng kiến. Cuối cùng, hắn đã từng là lính
và binh nghiệp nâng cao người ta lên; rồi thì, còn hơn tất cả những điều đó,
nếu Planchet cần đến anh thì hắn cũng không phải là kẻ vô dụng đối với anh. Thế
là với tư cách hai người bạn tốt mà D’Artagnan và Planchet đi đến vùng Blois.
Dọc dường, trở lại cái
ý nghĩ vẫn ám ảnh anh hoài, D’Artagnan lắc đầu nói:
- Tôi biết rằng việc
tôi vận động Arthos là vô ích và vô nghĩa nhưng tôi vẫn cứ phải cư xử như vậy
đối với người bạn cố tri, anh ấy có bản chất cao thượng và hào hiệp hơn tất cả
mọi con người.
- Ôi! Ông Arthos là một
người quý tộc đường hoàng! - Planchet nói.
- Có phải không nào? -
D’Artagnan nháy lại.
- Ông ấy rắc tiền bạc
như mưa, - Planchet nói tiếp, - tuốt kiếm ra với vẻ vương giả. Chắc chắn ông
còn nhớ trận đấu kiếm với bọn người Anh ở trong sân tu viện Carmes chứ? Chao
ôi, hôm ấy trông thấy ông Arthos sao mà đẹp đẽ uy nghi đến thế khi ông bảo với
địch thủ: "Thưa ông, ông đã bắt tôi phải xưng tên với ông, thôi thì mặc kệ
ông, vì rằng tôi buộc lòng phải giết ông!". Lúc ấy tôi đứng gần nên nghe
thấy ông ấy nói thế. Đúng từng tiếng lời của ông ấy. Và cái ánh mắt ấy, ông ơi
lúc ông Arthos đâm trúng địch thủ như ông ấy đã nói và địch thủ ngã xuống không kêu được rnột
tiếng. Ôi! Thưa ông, tôi xin nhắc lại, đó là một nhà quý tộc đường hoàng.
- Phải rồi, -
D’Artagnan nói, - tất cả những điều ấy đúng như kinh Phúc âm, nhưng ông ta đã
mất đi tất cả những phẩm chất ấy vì một khuyết tật.
- Tôi có nhớ, -
Planchet nói, - Ông ấy thích uống rượu hay nói đúng hơn là ông ấy uống quá
nhiều rượu. Nhưng không uống như những người khác. Đôi mắt ông ta chẳng nói gì
hết khi ông ấy đưa cốc lên môi. Thực ra, không bao giờ sự im lặng lại nói rõ
đến thế. Còn tôi, hình như đã nghe ông ấy lẩm bẩm: "Rượu ơi, hãy vào đi và
xua tan những nỗi u buồn trong ta." Và cái cách ông ta đập vỡ một chân cốc
hoặc một cổ chai! Chỉ có ông ta mới có cái phong điệu ấy.
- Thế thì hôm nay -
D’Artagnan nói, - một cảnh tượng đáng buồn đang chờ đợi chúng ta. Con người quý
tộc thanh cao với cặp mắt kiêu hãnh ấy, chàng kỵ sĩ đẹp trai thật xuất sắc
trong quân ngũ ấy mà người ta thường lấy làm lạ làm sao không cầm một cây gậy
chỉ huy mà chỉ cầm một thanh kiếm tầm thường, than ôi! Con người ấy sẽ trở
thành một lão già lưng gù, mũi đỏ, mắt như khóc. Chúng ta sẽ gặp ông ta nằm vật
trên một bãi cỏ nào đó và nhìn chúng ta bằng con mắt mờ đục và có khi chẳng
nhận ra chúng ta nữa. Planchet này, - D’Artagnan nói tiếp, - xin Chúa chứng
giám, tôi sẽ trốn tránh cảnh tượng buồn thảm ấy còn hơn là cố chứng tỏ lòng
kính trọng của mình đối với cái bóng lẫy lừng của vị bá tước de La Fére quang
vinh mà chúng ta đã yêu mến xiết bao.
Planchet gật đầu mà
không nói một lời, người ta dễ dàng nhận rõ anh đang chia sẻ những nỗi lo âu
của ông chủ.
- Thế rồi, - D’Artagnan
lại nói, - sự suy sụp vì Athos bây giờ già rồi, cảnh túng quẫn, có lẽ thế vì ông ta lơ là với chút ít
của cải vốn có.
- Và cái tên của nợ
Grimaud câm lặng hơn bao giờ hết và say bí tỉ hơn cả chủ mình… này, Planchet ơi, tất cả những
điều ấy xé nát lòng tôi.
- Tôi thấy dường như
mình đã đến nơi, - Planchet nói với giọng thương cảm, - và tôi trông thấy ông
ấy kia kìa miệng thì lắp bắp, đi thì chân nam đá chân chiêu.
- Tôi phải thú nhận
rằng, - D’Artagnan nói, - tôi chỉ sợ Arthos nhận lời tôi trong một lúc say
cuồng chiến. Nếu vậy đối với Porthos và tôi sẽ là một tai họa lớn và nhất là
một điều rắc rối thật sự; nhưng ngay trong cơn bí tỷ đầu tiên của ông ấy, chúng
ta sẽ từ giã, thế là xong. Lúc nào tỉnh, ông ấy sẽ hiểu ra.
- Thưa ông dù sao, -
Planchet nói, - chúng ta cũng sẽ hiểu rõ tình hình ngay bây giờ đây. Những bức
tường cao vút kia rực đó ánh mặt trời tà chắc hẳn là tường của thị
trấn Blois.
- Chắc thế, -
D’Artagnan đáp, - và những ngọn tháp nhọn hoắt chạm trổ thắp thoáng ở trong
rừng phía bên trái kia giống như những cái tôi nghe tả về lâu đài Chambord.
- Chúng ta sẽ vào trong
thị trấn chứ? - Planchet hỏi.
- Dĩ nhiên, để hỏi
thăm.
- Ông này, nếu chúng ta
vào đó, tôi khuyên là ta nên nếm thử vài cốc kem mà tôi đã nghe nói đến rất
nhiều nhưng khốn thay người ta lại không thể mang lên Paris được, mà
phải ăn ngay tại chỗ.
- Cứ yên tâm, ta sẽ làm
một chầu, - D’Artagnan đáp.
Vừa lúc ấy một cỗ xe
loại nặng thắng mấy con bò chở gỗ đốn tại những cánh rừng tươi tốt của vùng này
đưa đến cửa sông Lois từ một con đường nhỏ đầy vết bánh xe đi ra đường cái mà hai
kỵ sĩ đang đi.
Một người đàn ông đi
theo cầm một cây sào cắm đinh ở đầu dùng để thúc lũ bò chậm chạp.
- Này anh bạn ơi! -
Planchet gọi người chăn bò.
- Các ông cần gì
đó?
Người nông dân
nói từ ngôn ngữ đặc
biệt thuần khiết của dân vùng này, nó ắt phải làm cho các nhà sính tu từ thành
thị trường Sorbonne và phố Đại học Tổng hợp phải hổ thẹn.
- Chúng tôi tìm nhà ông
bá tước De La Fére, - D’Artagnan nói, - vậy ông có biết tên ông ấy trong số
những vị lãnh chúa ở quanh đây không?
Nghe nói cái tên đó,
người nông dân ngả mũ ra mà đáp:
- Thưa các ông, gỗ này
là của ông ấy đấy, tôi đốn gỗ trong đám rừng già và chở đến lâu đài.
D’Artagnan không muốn
hỏi han thêm bác nông dân, anh rất sợ phải nghe từ miệng một người khác điều mà
chính anh đã nói với Planchet.
- Lâu đài? - D’Artagnan
bụng bảo dạ, - Lâu đài! – A! Ta hiểu rồi! Arthos không kiên lòng, giống như
Porthos anh ta bắt nông dân gọi anh ta là Đức ông và gọi túp lều của mình là
lâu đài; cái anh chàng Arthos thân mến ấy có bàn tay khắc nghiệt nhất là khi đã
nốc rượu.
Những con bò đi chậm
chạp, D’Artagnan và Planchet đi sau cỗ xe và sốt ruột vì cái nhịp điệu ấy.
D’Artagnan hỏi người
chăn bò.
- Đúng là đường này
phải không? Chúng tôi cứ đi mà không sợ lạc chứ?
- Ồ, lạy Chúa! Đúng đấy
ạ, - Bác chăn bò nói, - Ông cứ việc đi trước, chẳng có gì phải đi theo những
con bò chậm ri chậm rì này cho khổ. Đi bộ nửa dặm là thấy tòa lâu đài ở phía
bên phải; đứng ở đây chưa trông thấy đâu, vì vướng một rặng cây bạch dương che
khuất. Lâu đài ấy không phải là Bragelonne mà là La Vallière. Ông hãy bỏ qua và
đi thêm độ ba tầm súng trường sẽ thấy một tòa nhà lớn mái lợp lá đen đứng trên
một gò đất rợp bóng những cây phong đồ sộ thì đấy là lâu đài ngài bá tước de La
Fére.
- Nhưng nửa dặm ấy có
dài không? - D’Artagnan hỏì, vì trên đất Pháp tươi đẹp của chúng ta chỗ nào
cũng toàn dặm là dặm cả, mà chẳng dặm nào giống nhau.
- Mười phút đi đường
ông ạ, với những cái chân nhanh nhẹn của con ngựa ông cưỡì.
D’Artagnan cảm ơn người
chăn bò, rồi phóng đi ngay lập tức.
Nhưng rồi bụng chẳng
muốn mà lòng cứ bối rối với ý nghĩ gặp lại con người đặc biệt kia đã từng quý
mến anh xiết bao, đã từng qua những điều khuyên bảo và qua tấm gương của mình
góp phần giáo dục anh trở nên một người quý tộc, anh cho ngựa đi chậm dần lại,
đầu cúi xuống như một người mơ mộng.
Planchet cũng đã tìm
thấy trong cuộc gặp gỡ và thái độ của bác nông dân một chất liệu cho những suy
nghĩ nghiêm trang. Ở Normandie hay Franche- Comté, Artois hay
Picacdie là những nơi anh từng ở lâu, chưa bao giờ anh gặp những người dân quê
lại có dáng điệu
thanh thoát như thế, lời ăn tiếng nói thuần khiết như thế.
Anh tưởng như mình đã
gặp một nhà quý tộc nào đó thuộc phái như anh, nhưng vì nguyên do chính trị đã buộc phải cải trang như anh.
Chợt đến một chỗ đường
quanh, lâu đài La Vallière hiện ra trước mắt các lữ khách như bác chăn bò đã
nói, rồi đi bộ một phần tư dặm nữa, một tòa nhà trắng xóa có những cây phong
bao quanh, nổi bật lên trên nền một lùm cây um tùm mà mùa xuân đã rắc lên những
bông hoa tuyết.
Bình thường D’Artagnan
ít xúc động, nhưng trông thấy cảnh tượng này, anh cảm thấy một nỗi xao xuyến lạ
lùng thấm sâu vào đáy lòng mình; trong suốt cuộc đời mình những kỉ niệm tuổi
thanh xuân mạnh mẽ biết bao. Không có cùng những cảm tưởng ấy, trông thấy chủ
mình xao động đến thế, Planchet ngẩn người ra, hết nhìn D’Artagnan lại nhìn
ngôi nhà.
Người lính ngự lâm tiến
thêm mấy bước và đến trước một cổng rào sắt gia công với một thị hiếu khác hẳn
lối đúc thời bấy giờ.
Qua cổng rào, nhìn thấy
những vườn rau được chăm sóc cẩn thận một cái sân rộng lớn có nhiều ngựa đang
giậm chân do những tên hầu mặc quần áo dấu khác nhau dắt, và một cỗ xe thắng
hai con ngựa của vùng này.
- Chúng ta nhầm rồi,
hoặc là người ấy đã lừa chúng ta. - D’Artagnan nói, - Không thể nào Arthos lại ở đây được. Lạy
Chúa!
- Hay là anh ấy chết
rồi và trang ấp này thuộc về người khác cùng họ với anh. Này Planchet, cậu
xuống ngựa và đi vào hỏi xem sao, thú thật tôi chẳng có can đảm vào hỏi đâu.
Planchet xuống ngựa.
D’Artagnan bảo:
- Cậu nói thêm rằng có
một vị quý tộc đi qua muốn được vào chào ngài bá tước de La Fére và nếu cậu
thấy hài lòng, với những tin tức lượm được thì hãy nói rõ tên tôi nhé.
Planchet nắm cương dắt
ngựa đến cổng, kéo chuông và tức khắc có một người làm, tóc bạc phơ, tuổi đã
cao mà lưng vẫn thẳng đi ra và tiếp Planchet.
- Xin hỏi có phải ngài
bá tước de La Fére ở tại đây không? - Planchet nói.
- Phải đấy, ông ạ, đúng
ở đây, - người hầu không mặc áo dấu trả lời Planchet.
- Một vị lãnh chúa về
hưu phải không?
- Đúng thế.
- Và có một người hầu
tên là Grimaud? - Planchet lại hỏi, với thói quen thận trọng anh không sợ thừa
tin tức.
- Ông Grimaud lúc này
không có ở nhà, - người hầu đáp, bác ta không quen với những cách hỏi như vậy
và bắt đầu nhìn Planchet từ đầu đến chân.
Planchet mặt mày rạng
rỡ kêu lên:
- Thế thì đúng bá tước
de La Fére mà chúng tôi tìm kiếm. Vậy xin bác mở cửa cho tôi vì tôi muốn báo
tin với ngài bá tước rằng ông chủ tôi là một vị quý tộc, bạn của ngài, đang ở
kia và muốn đến chào ngài.
- Thế sao ông không bảo
tôi sớm? - Người đầy tớ nói. - Còn vị chủ của ông đâu?
- Ông ấy đi sau tôi.
Người đầy tớ mở cổng và
đi trước. Planchet theo sau và ra hiệu cho chủ mình. D’Artagnan tim đập hồi hộp
hơn bao giờ hết, cưỡi ngựa đi vào sân.
Lúc Planchet bước lên
bậc thềm, anh nghe thấy từ trong một căn phòng thấp, một tiếng vọng ra:
"Ơ này! Vị quý tộc
ấy đâu, sao lại không dẫn vào đây?"
Giọng nói ấy vang lên
đến tận tai D’Artagnan và đánh thức trong lòng anh muôn vàn tình cảm, muôn vàn
kỉ niệm đã lãng quên.
Anh vội vã xuống ngựa,
trong khi Planchet nụ cười trên môi tiến vào chỗ chủ nhân ngôi nhà.
- Tôi biết anh chàng
này mà! - Arthos xuất hiện trên ngưỡng cửa và nói.
- Ồ, vâng, thưa bá
tước, ông biết tôi và tôi cũng biết rõ ông. Tôi là Planchet, thưa bá tước,
Planchet, ông biết rõ…
Nhưng anh đầy tớ thật
thà đó không nói gì được hơn, dung mạo bất ngờ của nhà quý tộc đã khiến anh xúc
động biết chừng nào.
- Sao? Planchet ư? -
Arthos kêu lên. - Thế ông D’Artagnan ở đây à?
- Tôi đây, bạn ơi! Tôi
đây, Arthos thân mến ơi! - D’Artagnan nói lắp bắp và hầu như lảo đảo cả người.
Nghe câu nói đó, một
nỗi xúc động rõ ràng lần lượt xuất hiện lên gương mặt đẹp đẽ và những đường nét
bình thản của Arthos. Anh tiến nhanh mấy bước về phía D’Artagnan, mắt vẫn không
rời bạn và trìu mến ôm chặt bạn trong vòng tay. D’Artagnan qua cơn bối rối, cũng
ôm chặt lấy Arthos với một niềm thân ái long lanh thành những giọt lệ trong đôi
mắt.
Arthos cầm lấy tay bạn,
siết chặt trong tay mình và dẫn bạn vào phòng khách có nhiều người đang quây
quần. Mọi người đều dứng dậy. Arthos nói:
- Tôi xin giới thiệu
ông hiệp sĩ D’Artagnan, trung úy ngự lâm quân của Hoàng thượng, một người bạn
tận tụy của tôi, một trong những nhà quỷ tộc dũng cảm nhất và đáng mến nhất mà
tôi được quen biết từ xưa.
Theo tục lệ, D’Artagnan
tiếp nhận những lời chúc mừng của cử tọa, nhiệt liệt chúc mừng lại và cùng ngồi
dự, và trong khi cuộc trò chuyện tạm ngừng một lát lại tiếp tục rôm rả, thì anh
ngồi ngắm Arthos.
Lạ lùng thật? Arthos
chỉ hơi già đi. Cặp mắt đẹp toát ra khỏi cái quầng nâu xám do những đêm thức và
những cuộc chè chén say sưa tạo thành trông to hơn và lóng lánh như mặt hồ tinh
khiết hơn bao giờ hết; khuôn mặt hơi dài và được tăng thêm vẻ uy nghi bù cho
cái mất đi về nét sôi động nhiệt tình; bàn tay mềm mại, lộng lẫy dưới ống tay
áo thêu ren, giống như những bàn tay nào đó trong các bức họạ của Titien et de
Van Dick(1) thân hình anh mảnh dẻ hơn xưa, hai bắp vai thanh và rộng nói lên
một sức mạnh hiếm có, mái tóc đen dài điểm mấy sợi xam xám, rủ xuống đôi vai
một cách phong nhã và lượn sóng như một nếp uốn tự nhiên; giọng nói anh vẫn
tươi mát như mới ở tuổi hai mươi lăm, hàm răng đẹp còn nguyên vẹn và trắng muổt
đem cho nụ cười một vẻ duyên dáng khôn tả.
(1) Những danh họa thời Phục hưng ở Ý và xứ Flamant.
Tuy nhiên, các vị khách
của bá tước qua vẻ lạnh nhạt khó nhận biết của cuộc đàm luận hiểu rằng hai
người bạn thân đang nóng lòng mong mỏi được ngồi riêng với nhau. Cho nên với
tất cả cái nghệ thuật và phép lịch sự ngày xưa, họ sửa soạn ra về, cái việc
trịnh trọng của những người ở xã hội thượng lưu, khi có mặt của những người
thượng lưu. Nhưng vừa lúc ấy có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài sân và nhiều người
cùng nhao nhao lên:
- A! Raoul trở về.
Nghe đến tên Raoul,
Arthos nhìn sang D’Artagnan và như vừa rình xem cái tên ấy có gây nên vẻ tò mò
nào trên nét mặt bạn mình không. Nhưng D’Artagnan chưa hiểu ra sao, anh còn
chưa ra khỏi nỗi chói ngợp. Cho nên gần như cái máy anh quay lại, thì thấy một
cậu thiếu niên tuấn tú trạc mười
lăm tuổi, ăn vận giản dị nhưng với một thị hiếu hoàn mỹ, bước vào phòng
khách và với vẻ duyên dáng ngả chiếc mũ dạ đính những chiếc lông chim dài đỏ
thắm.
Vậy mà nhân vật mới lạ
này hoàn toàn bất ngờ, đập vào mắt anh. Cả một loạt ý nghĩ mới mẻ ập đến tâm
trí anh và bằng mọi nguồn thông minh sắc sảo của anh, đã cắt nghĩa sự thay đổi
của Arthos cho đến lúc này vẫn tỏ ra không lý giải được. Một sự giống nhau kỳ
lạ giữa vị quý tộc và đứa nhỏ cắt nghĩa cho anh sự bí mật của thời tái sinh
này. Anh đợi chờ xem xét và nghe ngóng.
- Anh đã trở về đấy ư,
Raoul? - Bá tước nói.
- Thưa ông, vâng, - cậu
thiếu niên cung kính đáp, và tôi làm tròn nhiệm vụ mà ông giao cho.
- Nhưng có chuyện gì
đấy, Raoul? - Arthos băn khoăn hỏi - Trông anh tái nhợt và có vẻ xao xuyến.
- Thưa ông, - cậu thiếu
niên đáp, - chả là vì có một tai họa xảy đến với cô bé láng giềng của chúng ta.
- Với cô De La Vallière
ấy à? - Arthos vội hỏi.
- Chuyện gì thế, - vài
tiếng người hỏi.
- Cô ấy đi dạo chơi với
bà vú Marceline ở khu vườn các bác tiều phu đang đẽo những cây gỗ, thì tôi cưỡi
ngựa đi qua trông thấy bà và dừng lại. Lúc ấy cô ta đang đứng trên một đống gỗ,
thấy tôi, cô ấy toan nhẩy xuống nhưng bị trượt chân không tài nào dậy nổi. Tôi
cho rằng cô ấy bị trẹo mắt cá chân.
- Ôi, lạy Chúa? -
Arthos nói.- Thế bà de Saint-Remy, mẹ cô đã biết chưa?
- Không ạ, bà de
Saint-Remy đang ở Blois, chỗ bà quận công D’Orléans. Tôi e rằng việc chỉ
sơ cứu cho cô ta không được tốt, nên chạy về xin ông chỉ bảo.
- Raoul, cho đưa ngay
cô ấy ra Blois? Hay tốt hơn hết là tự anh lấy ngựa và chạy ra ngoài ấy.
Raoul cúi mình.
- Nhưng Louise đang ở
đâu? - Bá tước hỏi.
- Thưa ông, tôi đã mang
đến đây và đã nằm ở
chỗ vợ bác Charlot; trong khi chờ đợi, bà ấy cho cô bé ngâm chân vào nước lạnh
giá.
Câu chuyện ấy đã tạo
cái cớ cho các vị khách của Arthos đứng lên và xin cáo từ, riêng lão công tước
de Barbé tỏ ra là chỗ thân tình từ hai chục năm nay với nhà La Vallière đi ra
thăm cô bé Louis, cô ta đang khóc, nhưng khi trông thấy Raoul thì lập tức chùi
ngay đôi mắt diễm lệ và nhoẻn miệng cười.
Cụ công tước bảo đưa cô
bé Louise đến Blois bằng cỗ xe ngựa của mình. Arthos nói:
- Cụ dạy phải đấy, cô
bé sẽ đến với mẹ sớm hơn. Còn anh, Raoul, tôi chắc anh đã hành động dại dột và
việc này có phần lỗi của anh đấy.
- Ồ, thưa ông, không ạ,
tôi xin thề như vậy! - Cô gái kêu lên, còn cậu thiếu niên thì tái mặt đi, vì
nghĩ rằng mình có thể là nguyên nhân của tai nạn.
- Ôi thưa ông tôi xin
cam đoan rằng… - Raoul lẩm bẩm.
- Nhưng anh vẫn cứ phải
đi đến Blois, - bá tước ân cần nói tiếp, - và anh xin với bà de Saint-Remy thứ
lỗi cho anh và cả tôi nữa, rồi trở về đây.
Gò má cậu thiếu niên
tươi trở lại; sau khi đưa mắt hỏi ý bá tước, anh ôm cô gái trong đôi cánh tay
đã vạm vỡ, cái đầu xinh đẹp của cô vừa nhăn nhó lại vừa tươi cười ngả vào vai
anh, anh nhẹ nhàng đặt cô vào trong xe. Rồi nhảy lên ngựa với vẻ phong nhã và
khéo léo của một kỵ sĩ thành thạo, anh chào Arthos và D’Artagnan, rồí phóng
nhanh, đi kèm cạnh cỗ xe ngựa, đôi mắt anh vẫn đăm dăm nhìn vào trong xe.