Hỏa ngục - Chương 061 + 062
Chương 61
Langdon sẽ tới Geneva à?
Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm
thấy càng lúc càng mệt khi bà ngồi nghiêng ngả như đảo đồng ở băng ghế sau
chiếc xe thùng, lúc này đang phóng như bay ra khỏi Florence, nhắm thẳng hướng
tây về phía sân bay tư nhân bên ngoài thành phố.
Geneva không có nghĩa gì rồi,
Sinskey tự nhủ.
Mối liên hệ tương thích duy
nhất đến Geneva là: Đây chính là địa điểm đặt tổng hành dinh của WHO. Langdon
đang tìm mình ở đó chăng? Dường như chuyện đó không hợp lý tí nào bởi lẽ
Langdon biết bà đang ở Florence này.
Giờ một ý nghĩ khác vụt đến
với bà.
Chúa ơi... hay Zobrist đang
nhắm vào Geneva?
Zobrist là người mê các biểu
tượng, và phải thừa nhận rằng việc tạo ra một "điểm không bề mặt"
(29) tại tổng hành dinh Tổ chức Y tế Thế giới là khá hợp lý, nếu xét đến cuộc
chiến kéo dài giữa hắn với Sinskey. Thế nhưng, nếu Zobrift tìm kiếm một điểm
bùng phát dễ dàng cho một đại dịch thì Geneva không phải là lựa chọn hay. So
với các đô thị khác, thành phố này cách biệt về mặt địa lý và khá lạnh vào thời
điểm này trong năm. Hầu hết các đại dịch đều bắt rễ trong những môi trường ấm áp
và đông dân cư hơn. Geneva ở trên mực nước biển hơn ba trăm mét, và khó có thế
là một địa điểm thích hợp để bắt đầu một đại dịch. Cho dù Zobrist cố khinh
thường ta đến đâu chăng nữa.
(29) Nguyên văn: “ground zero”: Điểm trên mặt đất gần
với một vụ nổ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nổ hạt nhân hay nổ bom
lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những thảm
họa khác để đánh dấu thiệt hại nặng nhất.
Cho nên câu hỏi vẫn còn đó -
tại sao Langdon lại đến đó? Đích đến kỳ lạ của vị giáo sư người Mỹ lại là một
điểm khác nữa trong bản danh sách càng lúc càng dài liệt kê những hành vi không
thế lý giải được của anh ta bắt đầu từ tối qua, và bất chấp những nỗ lực hết
công suất, Sinskey thấy rất khó đi đến một lời giải thích thỏa đáng nào cho
những việc làm ấy.
Anh ta đứng về phe ai?
Phải thừa nhận, Sinskey mới chỉ biết Langdon có vài ngày, nhưng bà thường
đánh giá nhân cách rất chính xác, và bà không tin một người như Robert Langdon
lại có thể bị tiền bạc mua chuộc. Thế mà anh ta lại phá vỡ hợp đồng với chúng
ta tối qua. Bây giờ có vẻ như anh ta đang chạy quanh như một gã ma cà bông lên
cơn. Hay anh ta bị thuyết phục bằng cách nào đó nên tin rằng những hành động
của Zobrist có ý nghĩa kép?
Ý nghĩ ấy khiến bà rùng mình ớn lạnh.
Không, bà tự trấn an mình. Ta
biết tiếng tăm của anh ta quá rõ, anh ta hơn thế nhiều.
Lần đầu Sinskey gặp Robert
Langdon là bốn đêm trước trong khoang một chiếc máy bay vận tải C-130 được
trưng dụng làm trung tâm điều phối di động của Tổ chức Y tế Thế giới.
Mới chỉ hơn 7 giờ lúc máy bay
đáp xuống Hanscom Field, chưa đầy mười lăm dặm từ Cambridge, bang
Massachusetts. Sinskey không chắc mình trông đợi gì ơr vị học giả lừng danh mà
bà đã liên lạc qua điện thoại, nhưng bà vui sướng đến ngạc nhiên khi anh bước
tự tin lên ván cầu để chui vào khoang sau máy bay và chào bà bằng một nụ cười
vô tư.
"Tiến sĩ Sinskey phải
không ạ?", Langdon bắt tay bà khá chặt.
"Chào giáo sư, rất vinh
dự được gặp anh."
"Tôi cũng rất hân hạnh.
Cảm ơn vì tất cả những gì bà đã làm."
Langdon là một người đàn ông
khá cao, có diện mạo tươi tắn của cư dân thành phố và giọng nói trầm. Sinskey
bất ngờ khi thấy quần áo anh mặc lúc đó lại chính là trang phục lên lớp - áo
khoác vài tuýt, quần ka-ki, và giày lười đế mềm - dễ khiến người khác có ấn
tượng rằng anh đã nhiều lần phải rời khỏi trường mà không được báo trước. Trông
anh cũng trẻ và có dáng gọn hơn so với bà tưởng tượng, điều đó chỉ càng khiến
Elizabeth nhớ tới tuổi tác của chính mình.
Mình gần bằng tuổi mẹ anh ta.
Bà mỉm cười mỏi mệt nhìn anh.
"Cảm ơn vì anh đã tới, giáo sư."
Langdon ra hiệu về phía người
cộng sự chẳng lấy gì làm hài hước mà Sinskey đã phái đi đón mình. "Người
bạn của bà đây chưa cho tôi nhiều cơ hội cân nhắc mọi việc."
"Không sao. Tôi trả tiền
cho anh ta làm việc đó mà."
"Cái bùa đẹp quá",
Langdon nói, mắt nhìn chiếc vòng cổ của bà. "Lam ngọc thạch thì
phải?"
Sinskey gật đầu và cúi nhìn
cái bùa bằng chất đá màu da trời của mình, được tạo tác thành biểu tượng con
rắn quấn quanh cây gậy dựng đứng. "Biểu tượng hiện đại cho ngành y khoa.
Và tôi tin chắc anh có biết nó được gọi là 'y hiệu' - 'thương thần trượng'
(30).”
(30) Biểu tượng của ngành y
Langdon đột ngột ngước lên,
như thế cố gì đó muốn nói.
Bà chờ đợi. Vâng?
Rõ ràng nhận ra mình có phần
bốc đồng, anh mỉm cười nhã nhặn và đổi chủ đề. "Vậy tại sao tôi lại có mặt
ở đây?"
Elizabeth ra hiệu về phía khu
vực thảo luận tạm thời chỗ một chiếc bàn thép không gỉ. "Mời anh ngồi. Tôi
có việc cần anh xem xét."
Langdon thong thả đi tới chỗ
bàn, và Elizabeth nhận thấy mặc dù vị giáo sư có vẻ tò mò với cuộc gặp bí mật
này nhưng anh không hề bối rối. Đây là một người luôn thấy thoải mái với chính
mình. Bà tự hỏi liệu anh có còn thấy thảnh thơi một khi anh biết lý do được mời
tới đấy.
Elizabeth mời Langdon ngồi ổn
định rồi không cần mào đầu, lấy ra cái vật mà bà cùng nhóm của mình đã tịch thu
được từ một hộc tủ an toàn ở Florence chưa đầy mười hai tiếng trước.
Chờ Langdon nghiên cứu cái
ống hình trụ có chạm khắc nhỏ xíu một lúc lâu, Elizabeth mới nói vắn tắt những
gì bà đã biết. Vật này là một trụ triện cổ có thể dùng để in. Nó mang theo một
hình ảnh đặc biệt kinh khủng - một gã quỷ Satan ba đầu cùng với một chữ duy
nhất: Saligia.
"Saligia", Langdon
nói, "là cách nói tiếng Latin để nhắc ta nhớ tới...".
"Bảy Trọng tội",
Elizabeth nói. "Vâng, chúng tôi đã tìm hiểu về nó."
"Vâng..." Giọng
Langdon có vẻ lúng túng. "Có lý do gì bà muốn tôi xem xét thứ này
không?"
"Thực tế là có."
Sinskey lấy lại cái ống trụ và bắt đầu lắc mạnh, làm viên bi chạy lạo xạo.
Langdon ngơ ngác trước hành
động của bà, nhưng anh chưa kịp hỏi bà đang làm gì thì đầu mút cái ống trụ bắt
đầu sáng lên, về bà chĩa nó vào một tấm cách nhiệt trên vách chiếc máy bay đã
được dọn sạch nội thất.
Ungdkm huýt sáo nhẹ và tiến
lại phía hình ảnh được chiếu.
“Bức Vực Địa ngục của Botticelli",
Langđon nói. "Dựa theo Hỏa ngục cùa Dante. Mặc dù tôi đoán có lẽ bà cũng
đã biết rổi."
Elizabeth gật đầu. Bà và đồng
nghiệp đã xác định danh tính bức vẽ qua Internet, và rất ngạc nhiên khi biết đó
là tác phẩm của Botticelli, một họa sĩ nổi danh với những kiệt tác sáng tạo, lý
tưởng hóa như Thần Vệ nữ chào đời và Câu chuyện mùa xuân. Sinskey yêu cả hai
tác phẩm mặc dù chúng đều mô tả sự sinh sôi nảy nở và sức sáng tạo của cuộc
sông - điều chỉ càng khiến bà nhớ đến bi kịch không thể mang thai của mình -
tâm sự hối tiếc duy nhất trong cuộc đời đầy ý nghĩa của bà.
"Tôi hy vọng",
Sinskey nói, "rằng anh có thể nói cho tôi biết vẽ những biểu tượng ẩn giấu
trong bức vẽ này".
Lần đầu tiên trong buổi tối
hôm nay, trông Langdon tỏ ra bồn chồn "Có phải đó là lý do bà gọi tôi đến
đây không? Tôi nghĩ bà đà nói đó là một chuyện khẩn cấp."
"Xin làm ơn!"
Langdon thở dài kiên nhẫn.
"Tiến sĩ Sinskey, nói chung, nếu bà muốn biết về một bức tranh cụ thể thì
bà nên liên hệ với bảo tàng nơi lưu giữ tác phẩm gốc. Trong trường hợp này, đó
phải là Thư viện Tông đồ của Vatican. Tòa thánh có rất nhiều chuyên gia siêu
hạng ngành thánh tượng có khả năng..."
"Tòa thánh rất ghét
tôi."
Langđon nhìn bà thảng thốt:
"Ghét bà ư? Tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất."
Bà mỉm cười buồn bã.
"WHO thấy rõ rằng việc có sẵn các biện pháp tránh thai là một trong những
chìa khóa giải quyết vấn đề sức khỏe toàn cầu - vừa để ngăn chặn các bệnh lây
nhiễm qua đường tình dục như AIDS và cũng để kiểm soát dân số tổng thể."
"Nhưng Tòa thánh lại cảm
thấy hoàn toàn khác."
"Đúng vậy. Họ bỏ ra rất
nhiều công sức và tiền bạc truyền bá cho các nước thế giới thứ ba tin rằng
phòng tránh thai là xấu xa."
"À, vâng", Langdon
nói kèm theo một nụ cười ranh mãnh.
"Còn ai nói vớ thế giới
về chuyện quan hệ tình dục tốt hơn một đám những cụ ông độc thân tuổi bát tuần
nữa chứ?"
Sinskey càng lúc càng thấy
thích vị giáo sư này.
Bà lắc lắc cái ống trụ để nạp
lại năng lượng cho nó và sau đó chiếu hình ảnh lên tường lần nữa. "Giáo
sư, hãy nhìn kỹ hơn xem."
Langdon bước lại phía hình
ảnh, chăm chú xem xét nó, trong lúc vẫn tiến lại càng lúc càng gần hơn. Đột
nhiên, anh dừng phắt lại. "Thật lạ lùng. Nó đã bị thay đổi."
Không làm anh ta mất nhiều
thời gian, "Phải, và tôi muốn anh cho tôi biết những chỗ thay đổi mang ý
nghĩa gì."
Langdon im lặng, nhìn khắp
toàn bộ hình ảnh, dừng lại để ghi ra mười chữ cái đọc thành catrovacer, sau đó
là chiếc mặt nạ dịch hạch, rồi cả câu trích dẫn lạ lùng ở quanh rìa nói về
"đôi mắt chết chóc".
"Ai đã làm việc
này?", Langdon hỏi. "Nó từ đâu mà ra?"
"Nói thật, lúc này anh
biết càng ít càng tốt. Điều tôi hy vọng là anh có thể phân tích những thay đổi
này và cho chúng tôi biết chúng mang ý nghĩa gì." Bà ra hiệu về phía chiếc
bàn ở góc.
"Ở đây ư? Ngay bây giờ
ư?"
Bà gật đầu. "Tôi biết đó
là một đòi hỏi có phần quá đáng, nhưng tôi không biết giải thích làm sao cho
hết tầm quan trọng của chuyện này đối với chúng tôi," bà ngừng lại.
"Nó chính là vấn đề sinh tử."
Langdon lo lắng nhìn bà.
"Giải mã thứ này có thể phải mất một lúc, nhưng tôi cho rằng nếu nó quan
trọng với bà đến thế.
"Cảm ơn anh”, Sinskey
nói trước khi anh kịp thay đổi suy nghĩ “Anh có cần phải gọi ai khác
không?"
Langdon lắc đầu và bảo bà anh
đang có kế hoạch về một kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh một mình.
Quá tốt, Sinskey để anh ở lại
bàn làm việc cùng với cái máy chiếu, giây, bút chì và một chiếc máy tính xách
tay có kết nối vệ tinh bảo mật. Dù cực kỳ băn khoăn về lý do tại sao WHO lại
quan tâm đến một bức vẽ đã bị cải biến của Botticelli, nhưng Langdon vẫn nghiêm
túc bắt tay vào việc.
Tiến sĩ Sinskey đinh ninh anh
có thể kết thúc việc tìm hiểu hình ảnh kia chỉ trong vài tiếng mà không cần
nghỉ, cho nên bà cũng tập trung giải quyết một số công việc của riêng mình.
Thỉnh thoảng bà lại nghe thấy anh lắc lắc cái máy chiếu và viết loạt xoạt lên
giây. Gần mười phút trôi qua, Langdon buông bút và tuyên bố, “Cerca trova”.
Sinskey ngước nhìn lên.
"Cái gì cơ?"
"Cerca trova", anh
nhắc lại. "Hãy tìm và sẽ thấy. Đó là những gì mật mã này muốn nói."
Sinskey vội đi lại và ngồi
xuống sát cạnh anh, lắng nghe một cách say sưa trong lúc Langdon giải thích xem
các tầng địa ngục của Dante đã được thay đổi như thế nào, và rằng khi được đặt
lại đúng thứ tự thì chúng sẽ tạo thành cụm từ tiếng Ý cerca trova.
Tim kiếm và sẽ thấy ư?
Sinskey tự hỏi. Đó là thông điệp mà gã điên ấy gửi tới mình sao? Cụm từ nghe
giống như một lời thách thức trực tiếp. Ký ức đang nhiễu loạn của bà về những
lời cuối cùng của kẻ điên kia trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối
ngoại lại trở lại trong tâm trí: Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt
đầu.
"Trông bà tái nhợt
kìa", Langdon nói và chăm chú nhìn bà. "Tôi đoán đây không phải là
thông điệp bà mong đợi phải không?
Sinskey cố trấn tĩnh, vuốt
vuốt chiếc bùa trên cổ mình. "Không hẳn. Cho tôi biết.. anh có tin tấm bản
đồ địa ngục này đang gợi ý tôi tìm kiếm thứ gì đó không?"
"Có, Cerca trova."
"Và nó gợi ý tôi tìm ở
chỗ nào?"
Langdon xoa xoa cằm mình
trong khi các nhân viên WHO khác bắt đầu quây lại xung quanh, vẻ háo hức chờ
nghe thông tin. "Không nói gì nhiều... không hề, mặc dù tôi có ý tưởng về
chỗ bà nên bắt đầu."
"Nói cho tôi biết
đi", Sinskey yêu cầu, có vẻ ép buộc hơn mức Langdon nghĩ.
"Chà, bà cảm thấy
Florence, ở Ý, thế nào?"
Sinskey đờ người, phải cố hết
sức không thể hiện phản ứng gì. Nhưng các nhân viên của bà thì khả năng kiềm
chế không bằng. Tất cả bọn họ cùng nhìn nhau thảng thốt. Một người vớ lấy điện
thoại và bấm số. Một người khác vội vàng bước qua cửa tới phía trước máy bay.
Langdon ngơ ngác. "Tôi
đã nói gì à?"
Chắc chắn rồi, Sinskey nghĩ.
"Điều gì khiến anh nói đó là Florence?"
"Cerca trova", anh
đáp lại, nhanh nhẹn kể lại bí mật đã có từ lâu liên quan đến bức tranh tường
của Vasari tại Cung điện Vecchio.
Đích thị là Florence, Sinskey
nghĩ, cảm thấy đã nghe đủ. Rõ ràng, không thể là trùng hợp ngẫu nhiên khi kẻ
thù của bà lại nhảy lầu tự sát cách Cung điện Vecchio ở Florence chưa đầy ba
dãy nhà.
"Giáo sư", bà nói,
"khi tôi cho anh thấy lá bùa của tôi lúc trước và gọi đó là một thương
thần trượng, anh sững lại, như thể anh muốn nói gì đó, nhưng khi đó anh do dự
và dường như đã thay đổi suy nghĩ. Anh định nói điều gì?".
Langdon lắc đầu. "Không
có gì cả. Chuyện vớ vẩn thôi. Thỉnh thoảng thói quen nghề nghiệp làm tôi có
chút độc đoán."
Sinskey nhìn xoáy vào mắt
anh. "Tôi hỏi bởi vì tôi cần biết tôi có thể tin được anh không. Anh định
nói gì nào?"
Langdon nuốt khan và hắng
giọng. "Không liên quan lắm nhưng bà nói lá bùa của bà là một biểu tượng y
học cổ, đúng là vậy. Nhưng khi bà gọi nó là thương thần trượng, bà đã mắc phải
một nhầm lẫn rất phổ biến. Thương thần trượng có hai con rắn trên một cây gậy
và có cánh ở trên đỉnh. Chiếc bùa của bà chỉ có một con rắn và không có cánh.
Biếu tượng của bà gọi là.. “
"Cây gậy
Asclepius."
Langđon nghiêng đầu ngạc nhiên.
"Vâng. Rất chính xác." "Tôi biết. Tôi chỉ kiểm tra mức độ thành
thực của anh thôi."
"Sao cơ?”
"Tôi tò mò muốn biết
liệu anh có nói cho tôi biết sự thật hay không, cho đù điều đó có thể khiến tôi
khó chịu đến đâu."
"Nghe có vẻ như tôi
không qua được bài kiểm tra."
"Đừng làm như vậy lần
nữa. Hoàn toàn trung thực là cách duy nhất anh và tôi có thể làm việc với nhau
trong vụ này."
"Làm việc với nhau ư?
Chúng ta vẫn chưa kết thúc ở đây à?”
"Chưa, thưa giáo sư,
chúng ta chưa kết thúc. Tôi cần anh đến Florence đế giúp tôi tìm một thứ."
Langdon nhìn sững mà không tin
nổi. "Tối nay sao?"
"Tôi e là như vậy. Tôi
chưa nói với anh về bản chất nghiêm trọng thật sự của tình huống này."
Langdon lắc đẩu. "Bà nói
gì với tôi không thành vấn đề. Tôi không muốn bay đến Florence."
"Tôi cũng vậy", bà
đanh giọng. "Nhưng rất tiếc, thời gian của chúng ta đang cạn dần,"
Chương 62
Mặt trời giữa trưa chiếu lên
phần nóc khá trang nhã của đoàn tàu Frecciargento cao tốc ở Ý khi nó lao về
phía bắc, cắt thành một đường cong yêu kiều qua vùng nông thôn Tuscan. Mặc dù
đang rời khỏi Florence với vận tốc một trăm bảy mươi tư dặm mỗi giờ, nhưng đoàn
tàu "mũi tên bạc" gần như không hề tạo ra tiếng ồn, những tiếng lanh
canh nhè nhẹ lặp đi lặp lại cùng chuyển động lắc lư khe khẽ của nó đem lại cảm
giác khá dễ chịu cho hành khách.
Với Robert Langdon, một tiếng
đồng hồ vừa qua là khoảng thời gian mờ mịt.
Lúc này, trên đoàn tàu cao
tốc Frecciargento, Langdon, Sienna và bác sĩ Ferris ngồi ở một trong những
salottini riêng - loại buồng nhỏ hạng nhất có bốn ghế dạ và một bàn gấp. Ferris
đã dùng thẻ tín dụng của mình mua toàn bộ buồng, cùng với bánh mỳ kẹp và nước
khoáng, những thứ Langdon và Sienna ngấu nghiến hết sạch sau khi đã rửa ráy
trong phòng vệ sinh cạnh buồng riêng của họ.
Khi cả ba người ổn định chỗ
để thực hiện chuyến đi bằng tàu hỏa dài hai tiếng tới Venice, bác sĩ Ferris lập
tức nhìn đăm đăm chiếc mặt nạ người chết của Dante nằm trên mặt bàn ở giữa họ,
trong cái túi Ziploc. "Chúng ta cần biết chính xác chiếc mặt nạ này chỉ
dẫn chúng ta tới nơi nào ở Venice."
“Và phải thật nhanh",
Sienna nói thêm, giọng cô đẩy khẩn trương. "Có lẽ đó là hy vọng duy nhất
của chúng ta nhằm ngăn chặn đại dịch của Zobrist.”
"Khoan đã", Langđon
nói, chặn một tay lên chiếc mặt nạ, “Anh đã hứa một khi chúng ta an toàn lên
được đoàn tàu này, sẽ cho tôi một số câu trả lời về mấy ngày qua. Cho tới giờ,
tất cả những gì tôi biết là WHO đã tuyển mộ tôi tại Cambridge đế giúp giải mã
bức Vực Địa ngục của Zobrist. Ngoài ra, anh chưa nói gì với tôi cả."
Bác sĩ Ferris trở mình vẻ
không thoải mái và lại bắt đầu gãi những chỗ mẩn ngứa trên mặt và cổ. "Tôi
có thể nhận thấy anh đang thất vọng", ông ta nói. "Tôi biết chắc rất
khó chịu khi không nhớ được những gì đã xảy ra, nhưng nói theo y khoa..."
Ông ta liếc nhìn Sienna để xác nhận và sau đó nói tiếp. "Tôi đề nghị anh
đừng tiêu tốn năng lượng cố nhớ lại những tình tiết mà anh không thể nhớ. Với
các nạn nhân bị chứng mất trí nhớ, tốt nhất là để những điều đã quên chìm vào
quên lãng luôn.”
"Vậy à?" Langdon
cảm thấy bực bội. "Chả ra làm sao cả! Tôi cần một vài câu trả lời! Tổ chức
của anh đưa tôi tới Ý, nơi tôi bị bắn và đánh mất vài ngày của đời mình! Tôi
muốn biết việc đó xảy ra như thế nào!"
"Robert", Sienne dịu dàng nói xen vào, cố trấn an anh. "Bác sĩ I Ferris nói đúng. Hoàn toàn không tốt
cho anh khi thông tin dồn dập đến cùng một lúc. Hãy nghĩ đến những tình tiết
nhỏ mà anh thực sự nhớ được - người phụ nữ tóc bạc, “tìm và sẽ thấy”, những cái
xác quằn quại trong bức Vực Địa ngục - các hình ảnh đan xen trong tâm trí anh
thành một chuỗi hồi tưởng lộn xộn không thể kiểm soát nổi khiến cho anh gần như
mất hết năng lực. Nếu bác sĩ Ferris kể lại mấy ngày qua, gần như chắc chắn ông
ây sẽ khơi gợi được những ký ức khác và các ảo giác của anh có thể bắt đầu trở
lại. Chứng mất trí nhớ cũ là một trạng thái đáng sợ. Kích thích những ký ức nhầm
chỗ có thể cực kỳ nguy hiểm cho tâm thần."
Ý nghĩ đó không hề có trong
Langdon.
"Chắc chắn anh cảm thấy
mất phương hướng", Ferris nói thêm, "nhưng lúc này anh cần giữ tâm lý
ổn định đế tiếp tục hành động. Việc đoán ra được thông điệp của mặt nạ này là
điều rất quan trọng."
Sienna gật đầu.
Langdon thầm nhận ra các bác
sĩ có vẻ đều thống nhất ý kiến.
Langdon ngồi im lặng, cố gắng
chế ngự những cảm giác bất an của mình. Gặp một người hoàn toàn xa lạ và nhận
ra thực tế bạn đã biết người đó vài ngày rồi là một cảm giác rất lạ. Lại nữa,
Langdon nghĩ có gì đó hơi quen quen trong đôi mắt của anh ta.
"Giáo sư", Ferris
nói đầy cảm thông. "Tôi có thể thấy anh không tin tưởng tôi, và điều này
hoàn toàn dễ hiểu nếu xét đến tất cả những gì anh đã trải qua. Một trong những
hiệu ứng phụ phổ biến của chứng mất trí nhớ là đa nghi nhẹ và ngờ vực."
Có lý đấy, Langdon nghĩ, bởi
lẽ tôi thậm chí còn không thể tin vào trí não của mình.
"Nói đến đa nghi",
Sienna đùa, rõ ràng cố gắng làm dịu không khí, "anh Robert đã nhìn thấy
tình trạng phát ban của anh và nghĩ anh bị nhiễm dịch hạch. “ Chỗ phát ban này
á? Tin tôi đi, giáo sư, nếu tôi bị dịch hạch, tôi sẽ không điều trị bằng kháng
sinh histamine bày bán tự do đâu." ông ta móc một tuýp thuốc nhỏ trong túi
và đưa cho Langdon. Quả nhiên, đó là một tuýp kem chống ngứa chuyên trị các
phản ứng dị ứng còn một nửa.
‘Tôi xin lỗi về chuyện
đó", Langdon nói, cảm thấy ngớ ngẩn. "Ngày dài quá mà."
"Không sao cả”, Ferris
nói.
Langdon xoay người về phía
cửa sổ, nhìn những gam trầm của vùng thôn quê nước Ý kết hợp trong một bức
tranh thái bình. Những vườn nho và trang trại giờ trở nên thưa thớt hơn khi
bình nguyên nhường chỗ cho những quả đồi thấp vùng Apennines. Chỉ lát nữa, đoàn
tàu sẽ chạy vào con đèo ngoằn ngoèo và sau đó lại xuống thấp, tiến về phía
đông, tới biển Adriatic.
Mình đang tới Venice, anh
thầm nhủ. Để tìm một kiếm một đại dịch.
Cái ngày lạ lùng hôm nay
khiến Langdon cảm giác như thể mình đang di chuyển qua một khung cảnh chẳng có
gì khác ngoài những hình thù mơ hồ không có chi tiết cụ thể. Như một giấc mơ.
Mỉa mai thay, những cơn ác
mộng lại thường khiến người ta tỉnh giấc, nhưng Langdon cảm thấy như thể mình
vừa choàng tỉnh trong một cơn ác mộng.
"Anh nghĩ gì vậy?",
Sienna thì thầm bên cạnh anh
Langdon ngước lên, mỉm cười
mỏi mệt. "Anh đang nghĩ anh sẽ tỉnh giấc ở nhà và nhận ra tất cả chuyện
này chỉ là một cơn ác mộng."
Sienna nghiêng đầu, vẻ bẽn
lẽn. "Anh sẽ không nhớ em nếu anh tỉnh dậy và thấy rằng em không hề có
thật à?"
Langdon đành cười. "Có
chứ, anh sẽ nhớ em chút chút."
Cô đập nhẹ lên đùi anh.
"Đừng có nằm mơ giữa ban ngày nữa đi, giáo sư, và làm việc nào."
Langdon miễn cưỡng đưa mắt
trò lại khuôn mặt nhăn nhúm của Dante Alighieri trên chiếc bàn trước mặt đang
trân trân nhìn mông lung lên trần. Anh nhẹ nhàng nhấc chiếc mặt nạ thạch cao
lên và lật ngược nó trên tay mình, chăm chú nhìn phẩn mặt sau lõm, ngay dòng
đầu tiên của thông điệp xoáy trôn ốc:
Ôi, các người bị ám ảnh bởi
tri thức vững vàng...
Langdon e rằng lúc này mình
không thể hiểu nổi.
Thế nhưng anh vẫn bắt tay vào
việc.
***
Hai trăm dặm phía trước đoàn
tàu đang lao vùn vụt, con tàu The Mendacium vẫn buông neo trên biển Adriactic.
Ở boong dưới, điều phối viên Laurence Knowlton nghe thấy những tiếng gõ khe khẽ
lên buồng kính của mình và thò tay bấm một cái nút bên dưới bàn làm việc, biến
vách tường mờ đục thành trong suốt. Bên ngoài, một dáng người thấp nhỏ, rám
nắng hiện ra.
Thị trưởng.
Trông ông ta rất cau có.
Không nói một lời, ông ta
bước vào, khóa trái cửa buồng, và bật công tắc để biến buồng kính trở thành mờ
đục như cũ. Người ông ta nồng nặc mùi rượu.
"Đoạn video Zobrist để
lại cho chúng ta", Thị trưởng lên tiếng.
"Vâng, thưa ngài?"
"Tôi muốn xem. Ngay bây
giờ."