Hỏa ngục - Chương 023 + 024 + 025
Chương 23
Robert Langdon đáp huỵch
xuống nền đất xốp cây cối um tùm phía bên trong bức tường bao quanh khu vực
phía nam của vườn Boboli. Sienna đáp xuống bên cạnh anh và đứng lên, phủi bụi
rồi quan sát xung quanh một lượt.
Họ đang đứng trên một tràng
rêu và dương xỉ ở rìa một vạt rừng nhỏ. Từ đây Cung điện Pitti hoàn toàn bị
chắn tầm nhìn, và Langdon cảm thấy họ ở xa cung điện cũng ngang với khoảng cách
người ta có thể đi vào vườn. Ít nhất, không có nhân viên hay du khách tìm tới
chỗ xa xôi này vào thời điểm sáng tinh mơ như bây giờ.
Langdon chăm chú nhìn một lối
đi rải sỏi duyên dáng uốn lượn chạy sâu vào rừng trước mắt họ. Ở vị trí con
đường khuất hẳn sau những rặng cây là một bức tượng cẩm thạch được đặt ở vị trí
đắc địa để thu hút mọi ánh mắt. Langdon không lấy làm ngạc nhiên. Vườn Boboli
được ưu ái đón nhận tài năng thiết kế xuất sắc của Niccolo Tribolo, Giorgio
Vasari, và Bernardo Buontalenti - một nhóm những nhân tài về thẩm mỹ đã sáng
tạo nên một kiệt tác có thể đi bách bộ được trên tấm toan rộng hơn bốn mươi héc
ta này.
“Nếu đi về phía đông bắc,
chúng ta sẽ đến được cung điện”, Langdon nói, chỉ tay theo lối đi. “Chúng ta có
thể lẩn vào du khách ở đó và thoát ra ngoài mà không bị phát hiện. Tôi đoán nó
mở cửa lúc 9 giờ.”
Langdon liếc mắt kiểm tra lại
thời gian nhưng chỉ thấy cổ tay mình, nơi vẫn có chiếc đồng hồ Mickey, hoàn
toàn trống trơn. Anh thẫn thờ tự hỏi liệu nó còn nằm ở bệnh viện cùng với số quần
áo còn lại của anh và anh có thể lấy lại được nó không.
Sienna bước đi đầy kiên
quyết. “Robert, trước khi đi tiếp, tôi muốn biết chúng ta định đi đâu? Lúc nãy
anh đã nghĩ ra điều gì? Rãnh quỷ Malebolge à? Anh nói nó không đúng trật tự?”
Langdon ra hiệu về phía một
khu vực có cây cối ngay trước mặt. “Chúng ta hãy tránh khỏi tầm nhìn trước đã.”
Anh dẫn cô men theo lối đi lượn vòng vào một hốc kín - một “gian phòng”, theo
cách nói của giới kiến trúc cảnh quan - nơi có mấy băng ghế giả gỗ và một đài
phun nước nhỏ. Không khí phía dưới những tán cây lạnh hơn hẳn.
Langdon lấy máy chiếu ra khỏi
túi và bắt đầu lắc mạnh. “Sienna, người tạo ra hình ảnh số này không chỉ cho
thêm các chữ cái vào những kẻ tội đồ ở Malebolge mà còn thay đổi trật tự các
dạng tội lỗi.” Anh nhảy lên đứng trên ghế, cao hơn hẳn Sienna, và chĩa máy
chiếu xuống chân mình. Bức Vực Địa ngục của Botticelli hiện lên mờ mờ trên mặt
ghế bằng phẳng bên cạnh Sienna.
Langdon chỉ vào khu vực phân
tầng ở dưới đáy vực hình phễu. “Cô có nhìn thấy những chữ cái ở mười rãnh
Malebolge không?”
Sienna tìm mấy chữ đó trên
hình chiếu và đọc từ trên xuống dưới, “Catrovacer.”
“Đúng rồi, chẳng có nghĩa gì
cả!”
“Nhưng khi đó anh nhận ra
mười cái rãnh đã bị xáo trộn phải không?”
“Thực tế còn dễ hơn thế. Nếu
những tầng rãnh này là một cỗ mười lá bài thì cỗ bài đó chẳng xáo trộn gì nhiều
nếu xén bớt đi một lớp. Sau khi xén đi, các lá bài vẫn giữ nguyên trật tự,
nhưng lại bắt đầu bằng một lá bài khác.” Langdon chỉ tay xuống mười rãnh
Malebolge. “Theo văn bản của Dante, tầng trên cùng của chúng ta lẽ ra là những
kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập. Thế nhưng, trong bản này, những kẻ lừa gạt xuất
hiện... tít dưới rãnh thứ bảy.”
Sienna nhìn kỹ hình ảnh lúc
này đang mờ dần bên cạnh mình, và gật đầu. “Đúng, tôi thấy rồi. Rãnh đầu tiên
giờ lại là thứ bảy.”
Langdon bỏ máy chiếu vào túi
rồi nhảy xuống đường. Anh nhặt lấy một que nhỏ và vạch các chữ cái ra một
khoảnh đất ngay bên đường. “Đây là các chữ cái theo thứ tự xuất hiện trong bản
địa ngục đã bị chỉnh sửa của chúng ta.”
C
A
T
R
O
V
A
C
E
R
“Catrovacer”, Sienna đọc
“Đúng. Và đây là chỗ ‘cỗ bài’
bị xén mất!” Langdon vẽ một vạch bên dưới chữ cái thứ bảy và đợi Sienna nghiên
cứu bản vẽ đó
C
S
T
R
O
V
A
_
C
E
R
“À”, cô nói nhanh, “Catrova,
Cer.”
“Đúng, và sắp xếp lại các lá
bài theo đúng trật tự, đơn giản là chúng ta không xén cỗ bài và đặt phần dưới
lên trên. Hai nửa hoán đổi vị trí cho nhau.”
Sienna nhìn các chữ cái.
“Cer. Catrova.” Cô nhún vai, trông không có biểu cảm gì. “Vẫn chẳng có nghĩa gì...”
“Cer Catrova”, Langdon lặp
lại. Một lát sau, anh nói lại mấy từ này này lần nưa, đọc liền mạch với nhau.
“Cercatrova.” Cuối cùng, anh đọc lên cùng với một quãng ngừng xen vào giữa.
“Cerca... Trova.”
Sienna thở rõ mạnh và ngước
mắt lên nhìn Langdon.
“Đúng vậy”, Langdon mỉm cười
nói. “Cerca Trova.”
Hai từ tiếng Ý cerca và trova
có nghĩa đen là “tìm kiếm” và “tìm thấy”. Khi kết hợp thành một cụm từ cerca
trova, chúng đồng nghĩa với câu cách ngôn trong Kinh Thánh “Hãy tìm và ngươi sẽ
thấy”.
“Những ảo giác của anh!”,
Sienna thốt lên, gần như không thở nổi. “Người phụ nữ che mạng! Bà ấy liên tục
bảo anh tìm kiếm và sẽ thất!” Cô nhảy cẫng lên. “Robert, anh có nhận ra điều
này có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là mấy cụm từ cerca trova đã nằm sẵn
trong tiềm thức của anh! Anh không thấy vậy ư? Chắc chắn anh đã giải mã cụm từ
này từ trước khi anh đến bệnh viện! Có lẽ anh đã nhìn thấy hình ảnh trong máy
chiếu này... Nhưng quên rồi!”
Cô ấy nói đúng, anh nhận ra
như vậy, bởi vì anh đã quá quen với mật mã này đến mức không nhận ra mình đã
từng trải qua toàn bộ việc này rồi.
“Robert, anh từng nói rằng
bức Vực Địa Ngục chỉ đến một địa điểm cụ thể trong thành cổ. Nhưng tôi vẫn
không hiểu đó là nơi nào.”
“Mấy từ cerca trova không gợi
lên điều gì cho cô sao?”
Cô nhún vai.
Langdon cười thầm. Rốt cuộc cũng có thứ Sienna không biết. “Hóa ra cụm từ
này chỉ cụ thể tới một bức tranh tường nổi tiếng tại Cung điện Vecchio - Trận
Marciano của Glorgio Vasari trong Sảnh Năm trăm. Gần trên đỉnh bức tranh, rất
khó nhìn thấy, Vasari có viết cụm từ cerca trova bằng cỡ chữ rất bé. Người ta
đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải tại sao ông lại làm như vậy, nhưng chưa tìm
được bằng chứng kết luận nào.”
Bỗng nhiên có tiếng rít chói tai của một chiếc máy bay nhỏ vang lên phía
trên đầu, nó xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và lướt qua tán rừng. Âm thanh nghe
rất gần, Langdon và Sienna như hóa đá khi nó vụt qua.
Khi chiếc máy bay đi khỏi, Langdon dõi mắt nhìn theo qua những tán cây.
“Một cái trực thăng đồ chơi”, anh nói, thở phào trong lúc nhìn theo chiếc trực
thăng dài hơn một mét, điều khiển bằng song vô tuyến đang chao nghiêng ở phía
xa. Tiếng của nó nghe như một co muỗi khổng lồ đang nổi khủng.
Tuy nhiên, Sienna trông vẫn hết sức cảnh giác. “Cúi thấp xuống!”
Chắc chắn như vậy, chiếc trực thăng nhỏ xíu đảo một vòng và lúc này đang
quay trở lại chỗ họ, lướt sát những ngọn cây, vọt qua họ lần nữa, nhưng lần này
chếch sang trái họ, ở phía trên một trảng rừng khác.
“Nó không phải đồ chơi đâu!”, cô thì thào. “Nó là một máy bay trinh thám
không người lái. Có lẽ mang cả máy quay video để gửi hình ảnh trực tiếp về...
cho ai đó.”
Quai hàm Langdon cứng đờ khi anh nhìn thấy chiếc trực thăng bay nhanh theo
hướng nó xuất hiện lúc nãy - Porta Romana và Học viện Nghệ thuật.
“Tôi không biết anh đã làm gì”, Sienna nói, “nhưng rõ ràng một vài người
rất có thế lực đang sốt sắng tìm anh”.
Chiếc trực thăng lại chao nghiêng lần nữa và bắt đầu bay chầm chậm dọc theo
bức tường bao mà họ vừa nhảy qua.
“Chắc ai đó ở Học viện Nghệ thuật đã nhìn thấy chúng ta và nói gì đó”,
Sienna nói, chân bước theo con đường. “Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay bây
giờ!”
Khi chiếc máy bay không người lái vè vè bay về phía đầu kia của khu vườn,
Langdon dùng chân xóa những chữ cái mà anh đã vạch trên lối đi và vội bước theo
Sienna. Đầu óc anh quay cuồng với những ý nghĩ về cerca trove, bức bích học của
Giorgio Vasari, cũng như phát hiện của Sienna rằng anh đã từng giải mã thông
điệp trong máy chiếu. Hãy tìm và sẽ thấy.
Đột nhiên, ngay khi họ bước vào trảng rừng thứ hai, Langdon có một ý nghĩ
khá bất ngờ. Anh đã đã đứng sững lại trên lối đi đầy cây cối, vẻ mặt đầy sửng
sốt.
Sienna cũng dừng lại. “Robert? Có chuyện gì thế?!”
“Tôi vô tội”, anh tuyên bố.
“Anh đang nói chuyện gì thế?”
“Những người đang săn lùng tôi... Tôi từng nghĩ đó là vì tôi đã làm điều gì
đó kinh khủng.”
“Đúng, ở bệnh viện anh cứ nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’.”
“Tôi biết. Nhưng khi ấy tôi nghĩ tôi đã nói tiếng Anh.”
Sienna ngạc nhiên nhìn anh. “Anh đã nói tiếng Anh!”
Lúc này cặp mắt xanh biếc của Langdon đầy phấn khích. “Sienna, lúc tôi cứ
nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’ không phải là tôi xin lỗi đâu. Là tôi đang lẩm
nhẩm về thông điệp bí mật trong bức bích họa ở Cung điện Vecchio!” Anh vẫn như
nghe rõ giọng nói mê sảng của chính mình. Rấ… xin lỗi! Rấ… xin lỗi!
Sienna như mê đi.
“Cô không hiểu sao?”, Langdon cười toe toét. “Tôi không hề nói ‘rất xin
lỗi, rất xin lỗi’!. Tôi đang đọc tên của họa sĩ - Va… sari, Vasari!” (1)
(1): Trong nguyên bản tiếng Anh,
“We... sorry” (Rấ… xin lỗi) đọc phát âm gần giống với “Va... Sari” – tên họa sĩ
Giorgio Vasari, tác giả bức Trận Marciano
Chương 24
Vayentha đạp mạnh phanh.
Đuôi chiếc xe phân khối lớn của ả lảo đảo, rít to và để lại một vệt dài
trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, sau đó đột ngột dừng phía sau cả dòng
xe cộ. Viale del Poggio đang trong giờ tắc nghẽn.
Ta không có thời gian cho việc này.
Vayentha nghển cổ nhìn qua những chiếc xe hơi, cố gắng xem chuyện gì gây ra
tình trạng tắc nghẽn này. Ả đã buộc phải phóng xe theo một vòng tròn rất rộng
để tránh đội SRS và toàn bộ tình trạng hỗn độn ở tòa chung cư, và lúc này ả cần
lọt vào thành cổ để dọn ra khỏi phòng khách sạn nơi ả đã trú ngụ mấy ngày qua
vì nhiệm vụ này.
Ta đã bị từ chối – ta cần biến ngay khỏi thành phố!
Thế nhưng, chuỗi đen đủi của ả dường như vẫn tiếp tục. Tuyến đường ả chọn
để vào thành cổ có vẻ như đã bị chặn. Không lòng dạ nào chờ đợi, Vayentha lách
xe sang một bên và chạy dọc theo làn hẹp dành riêng cho xe gặp sự cố cho tới
khi nhìn thấy một giao lộ xe cộ ùn lại. Phía trước là một vòng xuyến tắc nghẽn,
nơi có sáu trục đường lớn gặp nhau. Đây chính là Porta Romana - một trong những
giao lộ đông đúc nhất của Florence - cánh cổng đi vào thành cổ.
Có chuyện quái gì ở đây không biết?!
Giờ thì Vayentha nhìn thấy toàn bộ khu vực này dày đặc cảnh sát - chặn
đường hay đặt chốt kiểm tra gì đó. Một lát sau, ả nhận ra một thứ ở trung tâm hiện
trường, thứ khiến cho ả chịu thất bại - chiếc xe thùng màu đen quen thuộc với
vài đặc vụ mặc đồ đen đang lớn tiếng ra lệnh cho nhân viên công lực địa phương.
Trừ phi…
Rõ ràng, những người này là thành viên nhóm SRS, nhưng Vayentha không đoán
nổi họ đang làm gì ở đây.
Vayentha nuốt khan, không dám hình dung ra tình huống đó. Langdon đã thoát
khỏi Brüder chăng? Điều đó thật
khó tưởng tượng khi mọi cơ hội trốn thoát gần như bằng không. Lại nữa, Langdon
không hành động một mình, và Vayentha đã tận mắt chứng kiến tài nghệ xoay sở
của người phụ nữ tóc vàng đi cùng anh.
Gần đó, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện, đang đi từ xe này sang xe khác,
chìa ra tấm hình chụp một người đàn ông điển trai với mái tóc nâu dày dặn.
Vayentha ngay lập tức nhận ra ảnh chụp trên báo của Robert Langdon. Tim ả như
muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Brüder cũng để anh ta thoát...
Langdon vẫn đang trong cuộc
chơi!
Là một chiến lược gia lão
luyện, Vayentha lập tức bắt tay vào việc đánh giá xem thực tế này có thể làm
thay đổi tình thế của ả như thế nào.
Lựa chọn một – rút lui như
yêu cầu.
Vayentha đã khiến Thị trưởng
rơi vào một tình thế rất tồi tệ và vì việc này mà ả bị từ chối. Nếu may mắn, ả
sẽ phải đối mặt với một buổi thẩm vấn chính thức và có lẽ chấm dứt sự nghiệp.
Tuy nhiên, nếu ả không may đánh giá nhầm mức độ nghiêm trọng của tình thế đó
thì có lẽ cả quãng đời còn lại, ả sẽ luôn phải đề phòng và tự hỏi không biết
Consortium đang lẩn mặt ở đâu.
Còn một lựa chọn thứ hai.
Hoàn thành nhiệm vụ của mày.
Tiếp tục nhiệm vụ là chuyện
hoàn toàn đối nghịch với quy trình từ chối vừa áp dụng với ả, nhưng vì Langdon
vẫn đang lẩn trốn, nên lúc này Vayentha lại có cơ hội tiếp tục thực hiện chỉ
thị ban đầu của mình.
Nếu như Brüder không tóm được
Langdon, ả nghĩ bụng, mạch đập rộn lên. Và nếu ta thành công…
Vayentha biết đây là chuyện
một mất một còn, nhưng nếu Langdon tìm cách thoát khỏi vòng vây của Brüder, còn
Vayentha vẫn có thể nhập cuộc và kết thúc công việc thì ả sẽ đơn thương độc mã
cứu vãn tình hình cho Consortium, khi đó Thị trưởng sẽ không còn lựa chọn nào
ngoài việc tha bổng cho ả.
Ta sẽ tiếp tục công việc của
mình, ả nghĩ. Có khi còn được thăng tiến.
Trong nháy mắt, Vayentha nhận
ra giờ đây toàn bộ tương lai của ả đều phụ thuộc vào công việc then chốt duy
nhất. Ta phải tìm ra Langdon… trước Brüder.
Việc đó thật không dễ. Brüder
có trong tay nhân lực hùng hậu tùy ý sử dụng cũng như vô số công nghệ giám sát
tiên tiến. Còn Vayentha chỉ làm việc một mình. Tuy nhiên, ả đã nắm được một
thông tin mà Brüder, Thị trưởng và cảnh sát đều không có.
Ta đã nghĩ ra Langdon sẽ mò
tới chỗ nào.
Ả rồ ga chiếc BMW, xoay một
trăm tám mươi độ và quay ngược lại lối vừa nãy. Ponte alle Grazie, ả nghĩ,
trong đầu hình dung ra cây cầu dẫn lên phía bắc. Đâu phải chỉ có một lối đi vào
thành cổ.
Chương 25
Không phải là lời xin lỗi,
Langdon trầm ngâm. Tên của một họa sĩ.
“Vasari”, Sienna lắp bắp, mọi
suy nghĩ như lùi lại hẳn một bước dài. “Họa sĩ đã giấu cụm từ cerca trova trong
bức bích họa của mình.”
Langdon chỉ biết mỉm cười.
Vasari. Vasari. Không chỉ thắp lên một tia sáng trong tình thế khó khăn kỳ lạ
mà phát hiện này cũng giúp Langdon phải băn khoăn xem mình đã làm việc gì kinh
khủng khiến anh cứ luôn miệng nói xin lỗi.
“Robert, rõ ràng anh đã nhìn
thấy bức Botticelli này trên máy chiếu trước khi bị thương, và biết nó chứa đựng
một mật mã chỉ dẫn tới bức họa của Vasari. Đó là lý do vì sao anh tỉnh lại và
cứ liên tục gọi tên Vasari!”
Langdon cố suy đoán xem tất
cả việc này có ý nghĩa gì. Giorgio Vasari - một họa sĩ, kiến trúc sư kiêm nhà
văn thế kỷ XVI - là người Langdon thường nhắc đến như “sử gia nghệ thuật đầu
tiên của thế giới.” Mặc dù Vasari đã sáng tạo hàng trăm bức vẽ, và thiết kế
hàng chục công trình, nhưng di sản lâu dài nhất của ông chính là cuốn sách có
ảnh hưởng mạnh mẽ, Cuộc đời của các họa sĩ, điêu khắc gia và kiến trúc sư xuất
sắc nhất, một tập hợp tiểu sử của các nghệ sĩ Ý, đến giờ vẫn là tài liệu bắt
buộc cho những sinh viên học lịch sử nghệ thuật.
Cụm từ cerca trova đưa Vasari
trở lại mối quan tâm chính thống khoảng ba mươi năm trước, khi “thông điệp bí
mật” của ông được phát hiện trên bức bích họa đồ sộ tại Sảnh Năm trăm trong
Cung điện Vecchio. Những con chữ bé xíu xuất hiện trên lá cờ trận màu xanh lục,
gần như không thể nhìn thấy trong cảnh chiến tranh hỗn loạn. Mặc dù vẫn chưa có
sự thống nhất về lý do tại sao Vasari lại cho thêm thông điệp kỳ lạ này vào bức
bích họa của mình, nhưng giả thuyết hàng đầu cho rằng đó là manh mối cho thế hệ
tương lai biết tới sự tồn tại của một bức bích họa đã thất lạc của Leonardo da
Vinci, được giấu trong khoảng trống ba phân phía sau bức tường đó.
Sienna lo lắng ngước nhìn qua
các tán cây. “Vẫn có một điều tôi không hiểu. Nếu anh không nói ‘rất xin lỗi,
rất xin lỗi’… thì tại sao người ta lại tìm cách giết anh?”
Langdon cũng đang thắc mắc
điều này.
Tiếng động cơ xa xa của chiếc
máy bay trinh sát không người lái to dần, và Langdon biết đến lúc phải quyết
định. Dù không hiểu được bức Trận Marciano của Vasari có liên hệ như thế nào
tới Hỏa Ngục của Dante, hoặc nguyện nhân của vết thương do đạn bắn vào đêm
trước, nhưng cuối cùng anh đã nhìn thấy một con đường hữu hình trước mắt.
Cerca trova.
Hãy tìm và sẽ thấy.
Langdon lại nhìn thấy người
phụ nữ tóc bạc gọi anh từ phía bên kia sông. Thời gian đang cạn dần! Nếu có câu
trả lời, Langdon có cảm giác chúng phải nằm ở Cung điện Vecchio.
Lúc này anh chợt nhớ đến câu
ngạn ngữ cổ của những người thợ lặn tự do Grecia ngày xưa, những người chuyên
săn tôm hùm trong các hang san hô ở quần đảo Aegea. Khi bơi vào một đường hầm
tối tăm, sẽ có lúc anh không thể trở về nếu không còn đủ dưỡng khí. Lựa chọn
duy nhất của anh là bơi thẳng vào chỗ chưa biết… và cầu mong có một lối thoát.
Langdon tự hỏi liệu họ đã đến
lúc đó chưa.
Anh dõi mắt nhìn vườn mê cung
lối đi ngay trước mắt. Nếu anh và Sienna có thể tới Cung điện Pitti và ra khỏi
vườn thì thành cổ chỉ còn cách một quãng ngắn. Họ chỉ phải đi bộ qua phía bên
cây cầu nổi tiếng nhất thế giới - Ponte Vecchio. Nơi đó luôn đông đúc và sẽ là
một chỗ ẩn náu rất tốt. Từ đó, Cung điện Vecchio chỉ còn cách có vài dãy phố.
Tiếng chiếc máy bay không
người lại gần hơn, Langdon chợt cảm thấy kiệt sức. Việc anh nhận ra rằng mình
không hề nói “rất xin lỗi” khiến anh cảm thấy mâu thuẫn với chuyện anh phải
chạy trốn cảnh sát.
“Rốt cuộc họ cũng sẽ bắt được
tôi, Sienna ạ!”, Langdon nói. “Có lẽ tốt hơn là tôi đừng chạy nữa.”
Sienna nhìn hoảng hốt.
“Robert, mỗi lần anh dừng lại là có người nhắm bắn anh! Anh cần tìm hiểu kỹ xem
anh đã vào dính vào chuyện gì. Anh cần xem xét bức bích họa đó của Vasari và hy
vọng nó thức tỉnh trí nhớ của anh. Có lẽ nó sẽ giúp anh biết được cái máy chiếu
từ đâu ra và tại sao anh lại mang theo nó.”
Langdon nhớ lại người phụ nữ
đầu đinh lạnh lùng hạ sát bác sĩ Marconi… những người lính nã đạn vào họ… quân
cảnh Ý vây lấy Porta Romana... Và giờ đây một máy bay thám sát không người lái
đang lùng tìm họ khắp vườn Boboli. Anh im lặng, dụi đôi mắt mỏi mệt trong lúc
cân nhắc mọi lựa chọn của mình.
“Robert!”, giọng Sienna vang
lên. “Còn một chuyện nữa… một chuyện có vẻ không mấy quan trọng, nhưng giờ đây
dường như lại rất quan trọng.”
Langdon ngước mắt lên, đáp
lại giọng nói nghiêm nghị của cô.
“Tôi đã định nói với anh ở
căn hộ”, cô nói, “nhưng…”.
“Chuyện gì nào?”
Sienna mím môi, trông không
được thoải mái. “Lúc anh đến bệnh viện, anh bị hôn mê và cố tìm cách giao
tiếp.”
“Đúng”, Langdon nói, “cứ lẩm
bẩm ‘Vasari, Vasari’”.
“Vâng, nhưng trước đó… trước
khi chúng tôi kịp lấy máy ghi âm, vào những khắc đầu tiên sau khi anh đến, tôi
vẫn nhớ anh nói một điều khác. Anh chỉ nói đúng một lần, nhưng tôi tin là mình
đã hiểu.”
“Tôi đã nói gì?”
Sienna ngước nhìn về phía
chiếc máy bay và sau đó quay lại Langdon. “Anh nói, ‘Tôi nắm giữ chìa khóa tìm
ra nó… nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết’”.
Langdon chỉ biết tròn mắt.
Sienna nói tiếp. “Tôi nghĩ
anh nhắc đến vật trong túi áo khoác của mình, nhưng giờ thì tôi không dám chắc.”
Nếu tôi thất bại, khi đó tất
cả sẽ chết? Mấy từ này tác động đến Langdon rất mạnh. Những hình ảnh chết chóc
đầy hăm dọa lóe lên trước mắt anh… Hỏa ngục của Dante, biểu tượng hiểm họa sinh
học, vị bác sĩ dịch hạch. Lại một lần nữa, gương mặt của người phụ nữ tóc bạc
xinh đẹp hiện ra, cầu xin anh từ phía dòng sông máu Hãy tìm và sẽ thấy! Thời
gian đang cạn dần!
Giọng Sienna kéo anh trở lại.
“Rốt cuộc, dù cái máy chiếu này dẫn tới đâu… hay anh đang phải tìm thứ gì, đó
nhất định là thứ cực kỳ nguy hiểm. Sự thực là có người đang tìm cách giết chúng
ta…” Giọng cô hơi run run, và phải mất một lúc để định thần. “Hãy nghĩ về điều
đó. Họ vừa bắn anh ngay giữa thanh thiên bạch nhật… bắt cả tôi – người ngoài
cuộc vô tội. Dường như không ai tìm cách thương thuyết. Chính phủ của anh thù
địch với anh... Anh gọi cho họ cầu cứu nhưng họ lại cử người tới giết anh.”
Langdon nhìn mông lung xuống
đất. Việc tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tiết lộ vị trí của Langdon cho kẻ sát nhân hay
chính tòa lãnh sự cử sát thủ tới cũng không đáng quan tâm. Bởi vì kết quả cuối
cùng vẫn như nhau. Chính phủ của mình không đứng về phía mình.
Langdon nhìn sâu vào đôi mắt
màu nâu của Sienna và thấy sự can trường. Mình khiến cô ấy dính vào vì cái gì?
“Ước gì tôi biết được thứ chúng ta đang tìm. Điều đó sẽ giúp tất cả việc này
trở lại đâu vào đấy.”
Sienna gật đầu. “Cho dù là
gì, tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm ra nó. Ít nhất nó sẽ cho chúng ta động lực.”
Lập luận của cô ấy thật khó
phản bác. Nhưng Langdon vẫn cảm thấy điều gì đó khúc mắc. Nếu tôi thất bại, khi
đó tất cả sẽ chết. Suốt buổi sáng anh đã phải đánh vật với những biểu tượng
kinh khủng của hiểm họa sinh học, dịch bệnh và địa ngục của Dante. Phải thừa
nhận, anh không có bằng chứng rõ ràng xem mình đang tìm kiếm thứ gì, nhưng anh
không ngốc đến mức không cân nhắc tới khả năng tình huống này có liên quan đến
một thứ dịch bệnh chết người hoặc một hiểm họa sinh học quy mô lớn. Nhưng nếu
đúng như vậy thì tại sao chính phủ lại tìm cách loại trừ anh.
Phải chăng bằng cách nào đó
mình có liên can tới một vụ tấn công tiềm năng?
Điều đó cũng hết sức phi lý.
Vẫn còn gì đó khác đang diễn ra ở đây.
Langdon lại nghĩ tới người
phụ nữ tóc bạc. “Trong ảo giác của tôi còn có người phụ nữ. Tôi cảm thấy mình
cần tìm bà ấy.”
“Vậy thì hãy tin vào cảm giác
của anh”, Sienna nói. “Trong điều kiện của anh, kim chỉ nam tốt nhất anh có
chính là tiềm thức. Đây là tâm ký thông thường – nếu lòng anh bảo hãy tin tưởng
người phụ nữ đó, tôi nghĩ anh nên làm đúng những gì bà ấy muốn.”
“Hãy tìn và sẽ thấy”, họ đồng
thanh nói.
Langdon thở phào, biết rằng
con đường của mình đã sáng tỏ.
Tất cả những gì mình có thể
làm là tiếp tục bơi xuống đường hầm này.
Khi đã quyết tâm trở lại, anh
xoay người và bắt đầu để ý xung quanh, cố gắng nắm bắt tình thế. Đường bào ra
khỏi khu vườn này nhỉ?
Họ đang đứng dưới những tán
cây ở rìa một quảng trường rộng nơi có vài lối đi cắt nhau. Cách một quãng bên
trái, Langdon chú ý tới một đầm nước hình bầu dục với hòn đảo nhỏ được tô điểm
bằng cây chanh và một bức tượng. Isolloto, anh thầm nghĩ, nhận ra ngay tác phẩm
điêu khắc nổi tiếng mô tả anh hùng Perseus cưỡi một con ngựa chìm nửa người
đang vọt lên khỏi mặt nước.
“Cung điện Pitti ở lối này”,
Langdon nói, chỉ về phía đông, rời xa khỏi tượng Isolloto, tới lối đi chính của
khu vườn - Viottolone, chạy theo hướng đông tây dọc toàn bộ chiều dài của khu
vườn. Viottolone rộng bằng một con đường hai làn xe với hai hàng cây bách mảnh
mai bốn trăm năm tuổi.
“Không có chỗ trú ẩn”, Sienna
nói, đưa mắt nhìn con đường không được ngụy trang và ra hiệu về phía chiếc máy
bay đang lượn vòng tròn.
“Cô nói đúng”, Langdon nói
kèm một nụ cười méo xệch. “Đó là lý do chúng ta phải chọn đường hầm bên cạnh.”
Lần này anh lại chỉ tay về
phía một hàng rào rậm rạp kế bên lối vào Viottolone. Bức tường cây cối dày đặc
có một cổng vòm nhỏ trổ vào trong. Qua cổng vào, có một lối đi hẹp chạy tít ra
xa - một đường hầm nằm song song với Viottolone. Nó được khép kín một đầu bằng
một khoảnh những cây sồi xanh được xén tỉa và chăm chút cẩn thận từ những năm
1600, hướng cành vào mé trong, trùm lên lối đi, đan lấy nhau phía trên đầu tạo
thành một mái che bằng tán lá. Tên gọi của lối đi, Langdon Cerchiata - theo
nghĩa đen là “hình tròn” hoặc “đánh đai” - xuất phát từ vòm lá của những hàng
cây được uốn công trông giống như những đai thùng, hay cerchi, tức là “vòng tròn”.
Sienna nhanh chóng bước tới
lối vào và chăm chú quan sát bên trong đường hầm râm mát. Sau đó cô quay trở
lại chỗ anh và mỉm cười. “Tốt hơn hẳn!”
Không bỏ phí thời gian, cô
luồn qua lối vào và khuất trong những hàng cây.
Langdon luôn coi La Cerchiata
là một trong những địa điểm thanh bình nhất Florence. Tuy nhiên, hôm nay, khi
anh nhìn Sienna biến mất trong lối đi tối tăm, anh lại nghĩ đến những người thợ
lặn tự do Grecia đang bơi vào đường hầm san hô và cầu mong tới được lối ra.
Langdon nhanh chóng cầu
nguyện rồi vội vã đi theo cô.
***
Cách họ nửa dặm phía sau, bên
ngoài Học viện Nghệ thuật, đặc vụ Brüder sải bước qua đám đông cảnh sát và sinh
viên, ánh mắt lạnh băng của anh ta rẽ đám đông trước mặt. Anh ta đi thẳng tới
sở chỉ huy dã chiến, vừa được chuyên gia theo dõi của anh ta thiết lập trên mui
xe thùng màu đen.
“Từ máy bay trinh sát không
người lái”, tay chuyên gia nói, trao cho Brüder một màn hình máy tính bảng.
“Chụp được vài phút trước.”
Brüder kiểm tra các ảnh tĩnh
video, dừng lại trước bản phóng to hơi nhòe hai gương mặt – một người đàn ông
tóc sẫm màu và một cô gái tóc vàng để đuôi ngựa – cả hai nép trong bóng râm và
đang nhìn lên bầu trời qua các tán cây.
Robert Langdon.
Sienna brooks.
Không nghi ngờ gì nữa!
Brüder quay sang tờ bản đồ
vườn Boboli trải rộng trên mui xe. Lựa chọn của họ rất tệ, anh ta nghĩ, mắt
nhìn sơ đồ khu vườn. Mặc dù lộn xộn, rối rắm, và có rất nhiều chỗ ẩn nấp, nhưng
khu vườn cũng bị những bức tường cao vây kín ở mọi phía. Vườn Boboli là thứ gần
gũi với một tuyệt lộ tự nhiên nhất mà Brüder từng nhìn thấy trên thực địa.
Họ sẽ không bao giờ thoát ra
được.
“Giới chức địa phương đã
phong tỏa mọi lối ra”, tay chuyên gia nói. “Và đang bắt đầu rà quét.”
“Giữ liên lạc với tôi”, Brüder
nói.
Anh ta chậm rãi nhướng mắt về
phía ô cửa sổ polycarbonate dày cộp của xe, và nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc
ngồi ở ghế sau.
Thứ thuốc họ đưa rõ ràng đã
làm tê liệt mọi giác quan của bà ấy - mạnh hơn Brũüder hình dung. Tuy nhiên,
anh ta có thể khẳng định rằng bà ấy biết rõ những gì đang xảy ra, căn cứ vào vẻ
hãi hùng trong mắt bà ấy.
Trông bà ấy không vui, Brüder
nghĩ. Mà tại sao bà ấy lại như vậy?