Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Chương 19 (Hết)
ĐOẠN KẾT
Ở ngoại vi thành Damascus, trong tòa lâu đài lớn
bằng đá xanh mài bóng được bao bọc bởi những cây cọ lớn, có một người hết sức
đặc biệt sống ở đó –ông Hafid, lúc này ông đã nghỉ hưu. Vương quốc thương mãi
của ông một thời được xem như là không biên giới, trải rộng qua nhiều vùng đất,
từ Parthia tới La Mã rồi đến Anh quốc và ông được tôn vinh ở mọi nơi như một
người bán hàng vĩ đại nhất thế giới.
Vào lúc mà ông quyết định xa lìa khỏi thế giới buôn
bán sau hai mươi sáu năm lớn mạnh và lợi nhuận. Câu chuyện ấn tượng về ông
Hafid từ một cậu bé chăn lạc đà trở thành một người đầy quyền lực và giàu có
nhất thế giới đã ảnh hưởng đến khắp cả thế giới.
Trong thời kỳ hỗn độn và đầy biến động đó, trong khi
hầu hết thế giới đều quỳ mọp dưới gót chân Ceasar và đoàn kỵ binh hung hãn của
vị hoàng đế này, danh tiếng của Hafid vẫn đưa ông lên vị trí của một huyền
thoại sống. Đặc biệt trong những người cùng khổ và thấp kém của Palestine, một
vùng biên ở phía Đông đế quốc La Mã. Hafid của thành 104 Damascus được tôn vinh
trong những bài hát, bài thơ như một ví dụ sáng ngời về khả năng thành đạt của
một con người bất kể các chướng ngại hay thương tật.
Lúc này người đã tạo nên một tài sản to lớn và từng
gom góp hàng triệu triệu đồng vàng, người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, sống
hầu như cô độc trong thời kỳ xế bóng của mình.
Vẫn như mọi ngày từ nhiều năm nay, Hafid vừa thức
giấc, chầm chậm đi từ phía sau ngôi nhà của mình băng qua khu vườn rộng lớn của
tòa lâu đài. Ông Hafid chừng như nghe thấy ngoài xa, một con gà trống đơn độc
đang gáy lên đón chào tia nắng buổi đầu ngày đến từ phương đông, từ bên kia sa
mạc.
Hafid dừng lại bên hồ nước bát giác với đáy bọc bằng
đồng, ngồi nghỉ lấy lại hơi trên chiếc băng đá dài. Ông chậm chạp xiết lại dây
lưng da, rồi đứng lên tiếp tục bước nặng nề cho đến khi đến cuối khu vườn. Ông
ta đứng lại trước một ngôi mộ lớn xây bằng đá trắng đơn giản, không trang trí.
“Chào em, Lisha yêu dấu.” Ông nói nhỏ, tay ve vuốt
tấm mộ bia. Ông buồn bã nhìn vào nơi lưu giữ di thể của người đàn bà yêu dấu,
người đã từng chia sẻ tình yêu và cuộc đời với ông, cả những thử thách và vinh
quang.
Hafid cảm được sức nặng của bàn tay đang ở trên vai
ông và nghe giọng nói khàn khàn của người quản lý lâu năm và bạn đồng hành
trung tín, Erasmus, ngay từ trước cả khi nghe thấy tiếng người quản lý trung
thành của mình.
“Tha lỗi cho tôi. Thưa ông chủ.”
“Chào buổi sáng, ông bạn già.”
Erasmus mỉm cười chỉ vào mặt trời, lúc này đang ở
ngay trên đầu họ: “Buổi sáng đã qua lâu rồi ông chủ. Chào buổi chiều.”
Hafid thở dài lắc đầu: “Lại một lầm lẫn nữa của tuổi
già. Một người không ngủ trong đêm, trở dậy trước bình minh và rồi ngủ suốt cả
ngày. Thật là vô lý.”
Erasmus khoanh tay gật đầu, chờ nghe tiếp bài nói về
sự buồn chán của tuổi già. Nhưng sáng hôm nay thì khác, Hafid nhổm dậy, bước những
bước dài về phía ngôi mộ, đưa tay lên chạm vào nó. Sau đó ông quay lại với
Erasmus nói mạnh mẽ:
“Ta đã trở thành một kẻ ta thán cho số phận con
người. Hãy nói thật thẳng thắn với ta, Erasmus. Bao lâu rồi ta đã trở thành như
vậy, kể từ khi ta trở thành vị kỷ, khó chịu và luôn ta thán?”
Erasmus mở to mắt:
“Ông đã thay đổi bắt đầu từ khi ông mất bà Lisha và
quyết định xóa bỏ các nhà buôn của mình. Đã mười bốn năm rồi, kể từ ngày ông
quyết định quay lưng lại với thế giới.”
Mắt Hafid đẫm ướt: “Người anh em, người đồng hành
của ta, làm sao ông có thể chịu đựng được những lối xử sự tệ hại đó từ bao lâu
nay?”
Người quản lý già nhìn xuống tay mình: “Chúng ta đã
ở bên nhau hơn bốn mươi năm qua và tình yêu của ông đối với tôi cũng như tình
yêu của tôi dành cho ông là vô điều kiện. Tôi đã phục vụ ông trong những lúc
vinh quang với thành công và hạnh phúc, và tôi cũng phục vụ ông lúc này, tự
nguyện, mặc dù tôi cũng chán nản vô cùng với cái chết ngay trong khi đang sống
này của ông. Ông không thể mang bà Lisha trở về với đời sống được, bởi vậy ông
đã cố gắng một cách ngoan cố để nghĩ rằng ông sẽ được gặp lại bà trong ngôi mộ
này. Hãy nhớ lại khi ông dạy tôi, từ nhiều năm trước, cách làm sống lại một bụi
hồng dại và cách trồng nó vào đây cạnh những cây hồng trắng này một khi ông qua
đời...”
“Aaà…,” Hafid đáp, “và ta cũng không quên lời hứa là
tòa lâu đài và tất cả chỗ này sẽ là của ông sau cái chết của ta như là một chút
bồi đắp cho bao nhiêu năm trung thành và thân hữu của ông, cũng như cho những
khó nhọc mà ông đã phải gánh chịu với ta kể từ ngày Lisha rời bỏ ta mà ra đi.”
Hafid với tay ngắt lấy một bông hoa trắng nhỏ, đem
lại đặt vào tay Erasmus: “Tự thán là một căn bệnh khủng khiếp nhất, Erasmus ạ,
và ta đã nhiễm phải nó quá lâu. Ta đã điên khùng quay mặt đi với thế giới bởi
nỗi đau quá lớn của ta và tự biến mình thành cỏ dại bên cạnh nấm mồ này, nơi mà
chúng ta đang sống. Đủ rồi! đã đến lúc phải đổi thay!”
“Nhưng đó không hề là những năm tháng hoài phí, thưa
ông. Lòng bác ái của ông đối với những người cùng khổ ở Damascus...”
Hafid ngắt lời: “Tiền bạc ư? Có phải sự hy sinh đó
là của ta? Mọi người giàu có đều cố gắng xoa dịu tinh thần khốn khổ của họ bằng
quà tặng và tiền bạc cho những người nghèo khổ. Phần đóng góp của người giàu
cũng chỉ bằng với phần bỏ ra của người nghèo và họ muốn chắc rằng thiên hạ tin
vào sự rộng lượng của họ, mà cái họ bỏ ra đó cũng chỉ là một nắm những đồng xu.
Không, ông bạn ơi, đừng tán thưởng lòng bác ái của tôi, thay vì vậy hãy chỉ
trích vì tôi đã ích kỷ không muốn chia sẻ nhiều hơn...”
“Nhưng dù sao...” Erasmus chống chế, “ông đã hoàn
thành được nhiều việc tốt, thưa ông. Không phải ông đã có một thư viện với
nhiều tác phẩm lớn của thế giới và đã bỏ ra nhiều thời gian để học tập những tư
tưởng và nguyên tắc trong đó?”
Hafid gật đầu: “Phải, ta đã cố gắng ngày đêm để học
hỏi, điều mà ta không có được khi còn trẻ. Và điều này đã mở ra cho ta một thế
giới tuyệt vời, cũng như cho ta biết rằng ta chẳng có được bao nhiêu thời gian
để mà theo đuổi vàng bạc và thành công. Điều này vẫn chỉ là để cho ta mà thôi. Vẫn
vậy, ta đã kéo dài nỗi đau của ta quá mức, quá dài. Thế giới này đã cho ta mọi
thứ mà một con người có thể mơ ước. Đã đến lúc ta phải trả món nợ này, ta sẽ
làm tất cả những gì có thể để tạo thành một cuộc sống tốt đẹp hơn cho những
người khác quanh ta. Ta vẫn chưa sẵn sàng để biến vào với nơi yên nghỉ cuối
cùng của ta, và loại hồng dại mà ta yêu cầu ngươi trồng ở đây, bên những cây
hồng trắng của Lisha sau khi ta chết sẽ còn phải chờ đợi.” [Chúc bạn đọc sách
vui vẻ tại www. gacsach.
com -
gác nhỏ cho người yêu sách.]
Nước mắt vui sướng tràn ra trong mắt, trên môi má
nhăn nheo của Erasmus, trong khi Hafid tiếp tục: “Livy viết cuốn lịch sử thành
La Mã ở tuổi bảy mươi lăm, Tiberius vẫn cai trị đế quốc khi gần tám mươi. So
với họ ta chỉ là một đứa trẻ... một đứa trẻ khỏe mạnh ở tuổi sáu mươi! Phổi của
ta sạch, cơ bắp của ta còn chắc chắn, mắt ta nhìn còn tốt, trái tim ta còn khỏe
và trí não ta còn khôn ngoan như ở tuổi hai mươi. Ta tin là ta đã sẵn sàng cho
một cuộc sống thứ hai!”
“Điều này cứ như là một phép lạ!” Erasmus kêu lên,
mắt ngước nhìn lên trời cao.”Sau bao nhiêu năm lo buồn, đau khổ trong im lặng
vì tình trạng của ông, những lời cầu nguyện của tôi cuối cùng cũng được đáp lời.
Hãy nói cho tôi biết, thưa ông, điều gì đã tạo ra sự hồi sinh bất ngờ này của
một người từng được yêu mến và kính trọng ở khắp nơi.”
Hafid mỉm cười, mắt nhìn lên trời cao, ông lẩm bẩm
để trả lời cho Erasmus nhưng cũng như để tự nói với mình:
“TÌNH YÊU.”
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Sienna – Mèo Ma Kết – Tiểu Bảo Bình
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)