Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Chương 17 - 18

Chương XVII

Cuộn thứ mười

Trong những lúc khốn cùng hay trong những khi thảm
họa, con người có kêu cầu Chúa của họ không? Ai không kêu lên hoảng sợ khi đối
diện với hiểm nguy, chết chóc hay những nhiệm màu ngoài tầm hiểu biết? Cái bản
năng sâu kín này đến từ đâu mà rồi luôn bật ra trên miệng mọi sinh vật vào
những lúc nguy nan?

Dứ tay nhanh trước mắt một người, mắt họ sẽ chớp. Đánh
một cú vào sau gối, chân họ sẽ khuỵu. Chạm mặt người ta với vẻ hung tợn và họ
sẽ buột miệng: “Ôi trời.” Tất cả đều bị cùng một tác động như nhau.

Cuộc đời tôi không cần đến tín ngưỡng để tôi có thể
nhận ra điều màu nhiệm lớn lao này của thiên nhiên. Mọi sinh vật đi đứng trên
trái đất này, bao gồm cả con người, đều sở hữu một bản năng kêu lên khi cầu cứu.
Tại sao chúng ta sở hữu bản năng này, tặng vật này?

Có phải tiếng kêu cứu của chúng ta là một hình thức
nguyện cầu?

Trong một thế giới được cai trị bằng những luật lệ
của thiên nhiên. Trao cho cừu, lừa, chim hay con người bản năng kêu cứu và có
phải tiếng kêu cứu này sẽ được nghe bởi một thế lực siêu nhiên có khả năng nghe
và trả lời tiếng kêu cứu của chúng ta. Từ đây tôi sẽ nguyện cầu, nhưng tôi chỉ
kêu cứu để được hướng dẫn.

Không bao giờ tôi sẽ nguyện cầu vì những vật chất
của thế giới này. Tôi không kêu một người hầu mang thức ăn đến cho tôi. Tôi
không đòi hỏi một chủ quán trọ cho tôi phòng ốc. Không bao giờ tôi kêu cầu vì
vàng bạc, tình yêu, sức khoẻ, chiến thắng, danh tiếng, thành công hay hạnh phúc.
Chỉ vì sự hướng dẫn mà tôi sẽ nguyện cầu và có thể tôi sẽ được cho biết cách để
đạt được những điều này, lời nguyện cầu của tôi sẽ luôn được đáp ứng.

Sự hướng dẫn tôi tìm sẽ có thể đến, hay sự hướng dẫn
đó sẽ không đến? Cả hai điều này có phải là một câu trả lời không? Nếu một đứa
trẻ xin bánh mì từ người cha, không lẽ người cha lại câm lặng không trả lời?

Tôi sẽ cầu nguyện để được hướng dẫn và tôi sẽ cầu
nguyện như một người bán hàng theo cách này.

Ôi tạo hóa của muôn loài, xin cứu giúp tôi. Vì ngày
hôm nay tôi sẽ ra mặt trần truồng và đơn độc cùng thế giới. Nếu không có bàn
tay hướng lối của người tôi sẽ xa rời khỏi con đường dẫn đến thành công và hạnh
phúc.

Tôi không kêu cầu vì vàng bạc, áo quần hay ngay cả
những cơ hội đáng với khả năng của mình. Thay vì vậy, hãy hướng dẫn để tôi có
khả năng xứng đáng với những cơ hội của tôi.

Người đã dạy sư tử và đại bàng cách săn mồi và hoàn
tất với răng và móng. Hãy dạy tôi cách săn bằng lời nói và thành công với tình
yêu, sao cho tôi có thể là một sư tử hiền hòa giữa loài người và một đại bàng
khiêm tốn ở nơi buôn bán.

Hãy giúp tôi biết khiêm nhường trước chướng ngại và
thất bại, cũng như đừng che dấu những phần thưởng khỏi mắt tôi khi chúng đến
với vinh quang.

Hãy chỉ định cho tôi những nhiệm vụ mà người khác đã
từng thất bại, cũng như dẫn lối cho tôi nhặt lấy những hạt giống của thành công
từ những thất bại của họ. Cho tôi đối đầu với sợ hãi để trui rèn tinh thần của
tôi, cũng như cho tôi can trường để cười vào những gì mất mát.

Hãy chia cho tôi những ngày cần thiết để đạt được
những mục tiêu cuả tôi, cũng như giúp tôi sống trọn ngày này như một ngày cuối
cùng của đời tôi.

Hãy hướng cho những lời nói của tôi có thể trổ đầy
hoa trái, cũng như cho tôi biết im lặng không nói ra những lời bêu rếu tổn hại.

Cho tôi vâng chịu trong thói quen cố gắng, cố gắng
và cố gắng nữa, cũng như chỉ cho tôi cách áp dụng luật công bằng. Ban ơn cho
tôi được khôn ngoan để nhận ra những cơ hội của mình cũng như cho tôi sự kiên
nhẫn để hết lòng tập trung sức lực.

Hãy tắm tôi bằng những thói quen tốt để những cái
xấu trôi đi, cũng như hứa cho tôi sự đồng cảm với những gì yếu kém của người
khác. Hãy cho tôi đau đớn để biết rằng mọi việc rồi sẽ qua, cũng như giúp tôi
biết được những vết thương trong ngày để tôi chăm sóc.

Hãy cho tôi biết ghét để không là một người xa lạ,
cũng như cho tôi biết yêu để biến những người xa lạ thành bạn hữu. Tôi chỉ là một
trái nho nhỏ bé và đơn độc được Người làm cho khác biệt như mọi trái nho khác. Bởi
tôi là khác biệt, hãy xử sự một cách đặc biệt đối với tôi, hướng dẫn tôi, hỗ
trợ tôi, chỉ lối cho tôi.

Hãy để cho tôi có được sức mạnh từ người và trở
thành những gì xứng đáng với Người, bởi tôi đã được gieo và được chọn bởi Người
để nảy mầm trong vườn nho của nhân loại.

Hãy giúp đỡ kẻ bán hàng hèn mọn này.

Hãy hướng lối cho tôi. Chúa của tôi.

Chương XVIII

Và như vậy mà Hafid, lúc này đang chờ đợi người được
chọn để nhận lãnh những cuộn da thông thái trong tòa lâu đài lặng lẽ của ông. Người
đàn ông già với chỉ một người quản lý tin cẩn là bạn, đã thấy mùa rồi lại mùa
đi qua và tuổi già đã sớm bắt ông phải ngồi im một chỗ trong khu vườn nhà của
ông.

Ông chờ đợi.

Ông đã chờ gần ba năm kể từ ngày gia tài của ông
được phân tán và thương quốc của ông tan rã.

Và rồi từ bên kia sa mạc, từ hướng Đông, một gương
mặt gày gò của một người xa lạ tìm đến. Người này vào thành Damascus và tìm
đường đi thẳng đến tòa lâu đài của ông Hafid.

Erasmus vẫn với dáng vẻ lịch sự, lễ độ đã thành thói
quen, đứng yên bên cổng tòa lâu đài trong lúc người đàn ông kia nhắc lại: “Tôi
muốn nói với ông chủ của ông.”

Bề ngoài của người lạ khó lòng tạo được sự tin tưởng.
Đôi giày của anh ta rách nát, được cột lại bằng dây bện, đôi chân đen đủi của
anh ta đầy những vết trầy xước và anh ta khoác một chiếc áo dài cũ kỹ, dơ bẩn
bằng lông lạc đà thô. Đầu tóc người đàn ông rối bù và đôi mắt của anh ta đỏ
ngầu vì nắng gió.

Erasmus giữ chặt cánh cửa: “Anh cần gặp ông chủ của
tôi có việc gì?”

Người xa lạ thả rơi chiếc túi cũ rách của mình xuống
nền đất, chắp tay lại nài nỉ Erasmus: “Xin ông, người tốt bụng, hãy cho tôi
được gặp ông chủ của ông. Tôi sẽ không làm gì tổn hại đâu. Tôi chỉ xin được nói
vài lời và nếu ông chủ của ông không muốn nghe, tôi sẽ lập tức ra đi.”

Erasmus chần chừ, nhưng đã quen với cách xử sự bao
dung của chủ nhân của mình, cuối cùng ông ta cũng chậm chạp mở rộng cánh cổng
và hất đầu ra hiệu cho người xa lạ bước vào. Người quản lý già lặng lẽ quay
lưng dẫn đường, ông đi thẳng ra vườn với người xa lạ theo sau.

Trong vườn nhà, Hafid đang ngồi mệt mỏi trên một cái
ghế bành, mắt nhắm như đang ngủ. Erasmus chần chừ một chút rồi ho nhẹ, Hafid
hơi nhấp nháy mắt. Erasmus lại ho và lần này Hafid mở mắt ra.

“Xin ông thứ lỗi, thưa ông. Có người muốn gặp ông.”

Hafid tỉnh hẳn, ông ngồi thẳng lên đưa mắt quan sát
người xa lạ. Người này nói ngay: “Thưa ông, có phải ông chính là người được tôn
xưng là Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới?”

Hafid hơi chau mày nhưng cũng gật đầu: “Ta đã được
gọi như thế từ nhiều năm trước, nay ta đã già và không còn đáng được gọi như
thế nữa. Ngươi muốn điều gì ở ta?”

Người khách đứng đó, nhỏ bé và nhếch nhác nhưng với
một dáng vẻ hoàn toàn tự tin, trước mặt Hafid – người một thời chín mươi bảy
được tôn vinh là người bán hàng vĩ đại nhất thế giới. Tay chà chà trên bộ ngực
còm cõi của mình, anh ta chớp chớp mắt trong ánh sáng dịu dàng của khu vườn,
trả lời: “Tôi tên là Saul. Tôi từ Jerusalem trở về nơi chôn nhau cắt rốn của
tôi ở Tarsus. Dù sao, tôi cũng xin ông đừng lầm tưởng vì bộ dạng của tôi lúc
này. Tôi không phải kẻ cướp hay ăn xin. Tôi là một công dân của Tarsus và cũng
là công dân La Mã. Tôi là một người thuộc dòng dõi Pharisees thuộc cộng đồng Do
Thái của Benjamin. Tôi đã được học tập với Gamaliel vĩ đại, và tôi đã từng là
một thợ may nhà bạt. Một số người gọi tôi là Paul.” Anh ta ngọ nguậy khi nói và
Hafid lúc này đã hoàn toàn tỉnh táo, ông lịch sự mời người xa lạ ngồi xuống.

Paul gật đầu tỏ vẻ cám ơn, nhưng vẫn đứng yên: “Tôi
đến với ông mong được hướng dẫn và giúp đỡ, chỉ có ông mới có thể giúp được cho
tôi. Ông cho phép tôi kể lại câu chuyện của tôi?”

Erasmus đứng sau lưng người lạ, lắc đầu liên tiếp ra
hiệu với chủ nhân của mình, nhưng Hafid làm lơ như không hay biết. Ông quan sát
kỹ người phá rối giấc ngủ của ông một lúc rồi gật đầu: “Ta đã quá già để cứ
phải ngước mặt lên nhìn anh. Hãy ngồi xuống chân ta và kể cho ta nghe câu
chuyện của anh.”

Paul đẩy cái bị hành lý rách nát của mình sang một
bên rồi quỳ xuống bên người đàn ông già đang ngồi im chờ đợi trong im lặng.

“Bốn năm trước, nhiều năm học hỏi và thu thập hiểu
biết đã bịt kín con mắt của trái tim tôi trước sự thật. Tôi đã làm nhân chứng
cho một cuộc ném đá ở Jerusalem. Người bị kết án ném đá là Stephen, một người
thánh thiện. Ông ta bị kết tội chết bởi cộng đồng Do Thái Sanhedrin vì đã báng
bổ Chúa của chúng ta.”

Hafid ngắt lời người lạ với vẻ bỡ ngỡ: “Tôi không
hiểu, tôi dính líu gì đến những việc này?”

Paul giơ tay lên trấn an người đàn ông già.” Tôi sẽ
giải thích. Stephen là tín đồ của một người tên là Jesus, người đã bị đóng đinh
trên thập giá đến chết bởi người La Mã trước cuộc ném đá ông Stephen này gần
một năm vì cùng một tội. Stephen bị kết tội vì ông này đã tin và rao truyền
rằng người đàn ông tên Jesus chính là đấng Messiah, con của Thiên Chúa, đấng
được các tiên tri Do Thái báo trước là sẽ đến. Và cộng đồng Do Thái đã bắt tay
với người La Mã để giết chết người con này của Chúa. Sự việc bị cho là phỉ báng
này khiến cho những người nắm quyền lực trong cộng đồng Do Thái chỉ còn có cách
buộc tội chết cho Stephen và như tôi đã nói với ông, tôi đã nhúng tay vào việc
này!

“Thêm nữa. Vì sự bồng bột của tuổi trẻ cộng với lòng
mê muội, tôi đã nhận sứ mệnh từ các trưởng lão của nhà thờ Do Thái để đến đây,
Damascus, truy bắt tất cả những ai tin theo người mang tên Jesus mang về
Jerusalem để trị tội. Như tôi đã nói với ông, chuyện này xảy ra cách đây bốn
năm.”

Erasmus liếc nhìn Hafid, ngạc nhiên khi thấy ánh mắt
của chủ nhân mình, một ánh mắt mà đã nhiều năm rồi người quản lý già không còn
được nhìn thấy. Chỉ có tiếng nước nhỏ giọt từ hồ nước là còn có thể nghe thấy
trong khu vườn tĩnh lặng cho đến khi Paul lại tiếp tục lên tiếng.

“Lúc đó tôi đang trên đường đi đến Damascus với ý
định chém giết trong tim và sự căm hờn trong máu. Đang đi trên đường, bỗng một
ánh sáng từ trên trời đổ xuống chói lòa trước mắt tôi. Tôi nhớ lại là mình
không hề hoảng hốt, chỉ bàng hoàng vì bất ngờ, nhưng biết là mình đang sụp
xuống ở giữa đồng trống, mặc dù mắt tôi không thể nhìn thấy gì vì ánh sáng chói
loà. Tôi vẫn có thể nghe và tôi nghe thấy một giọng nói chin mươi chín chừng
như sát ngay bên tai: “Saul, Saul sao ngươi lại đuổi giết ta?”

“Người là ai?” Tôi hỏi lại, hoang mang.

“Ta là Jesus.” Giọng nói đó đáp lại tôi. “Người
mà ngươi đang truy sát. Nhưng thôi hãy đứng dậy và đi vào thành phố, ngươi sẽ
được biết mình phải làm những gì. “

“Tôi đứng dậy, mắt vẫn chói lòa không còn có thể
nhìn thấy gì. Tôi được những người đồng hành dắt đi và vào thành Damascus. Ở
đó, tôi bị bỏ lại trong nhà một tín đồ của người đã bị đóng đinh trên giá treo,
trong ba ngày tôi như hoàn toàn mất hết sức lực và không thể ăn uống gì được. Rồi
một người tên Ananias đến gặp tôi, người này nói anh ta được một ánh sáng đến
thăm và được lệnh hãy đến gặp tôi. Rồi anh ta đặt tay lên mắt tôi và tôi nhìn
thấy trở lại. Tôi ăn, tôi uống và sức khỏe trở lại với tôi.”

Hafid lúc này đã nhổm hẳn dậy, nghiêng người về phía
người khách lạ thúc giục: “Rồi sao nữa?”

“Tôi được đưa đến một đền thờ Do Thái, sự hiện diện
của tôi như một người truy sát các tín đồ của Jesus làm những người ở đó hoảng
loạn, nhưng tôi không kể đến họ mà xụp quỳ xuống cầu nguyện. Những lời nguyện
của tôi đã làm cho họ ngỡ ngàng. Tôi công khai xác nhận, người đã bị treo trên
thập giá chính là con trai của Thiên Chúa.

“Tất cả bọn họ nghi ngờ rằng tôi đang tìm cách lừa
gạt họ, không phải tôi chính là kẻ đã từng gây ra bao thảm họa cho họ ở
Jerusalem sao? Tôi không thể trấn an họ với sự thay đổi tận sâu thẳm trong tim
mình, và nhiều người trong bọn họ muốn giết tôi. Vì thế tôi đã bỏ trốn và lên
đường trở lại Jerusalem.

“Ở Jerusalem, những gì đã xảy ra ở Damascus lại lập
lại. Không một tín đồ nào của Jesus dám đến gần tôi, mặc dù việc tôi khấn
nguyện ở Damascus đã được lan truyền đến đây. Tôi tiếp tục cầu nguyện nhân danh
của Jesus nhưng cũng không đạt được sự đáp ứng nào. Dù ở đâu tôi cũng làm cho
người ta chán ghét bất kể tôi có nói gì. Cho đến một ngày khi tôi đang ở đền
thờ, tôi ở ngoài sân đền xem người ta mua bán chim cu và cừu non dùng làm vật
tế lễ. Tiếng nói đó lại đến với tôi.”

“Lần này tiếng nói đó nói gì?” không dằn được tính
tò mò, Erasmus buột miệng hỏi. Hafid cười với người bạn già của mình rồi gật
đầu ra hiệu cho Paul tiếp tục.

“Tiếng nói đó nói: “Ngươi đã có được thông điệp của
ta từ bốn năm nay, nhưng ngươi vẫn không thể làm cho lời của ta được tỏa sáng. Ngay
cả lời nói của Chúa cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe.
Ta đã không kể những câu chuyện ngụ ngôn dễ hiểu chăng? Hãy trở lại Damascus và
tìm đến người được tôn xưng là Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới. Nếu ngươi
là người có thể rao truyền lời nói của ta ra khắp thế giới, người đó sẽ chỉ
cách cho ngươi. “”

Hafid liếc nhanh Erasmus trong lúc người quản lý
nghĩ thầm: “Phải chăng đây chính là người mà chủ của ta vẫn chờ đợi bao lâu
nay?” Người bán hàng vĩ đại nghiêng mình tới, đặt tay lên vai Paul: “Hãy nói
cho ta biết về người mang tên Jesus này.”

Lúc này giọng nói của Paul hoàn toàn đổi khác, chúng
sống động với một âm lượng và sức mạnh mới, anh ta kể lại về Jesus và cuộc đời
của ông này. Hai người lắng nghe Paul nói về sự chờ đợi đã từ lâu của người Do
Thái, họ tôn thờ và chờ đợi đấng Messiah, người sẽ đến và kết hợp họ lại trong
một vương quốc độc lập mới của Tình yêu, Hạnh phúc và Hòa bình. Paul nói về
John “người tẩy giả” và ngày đến của một người tên gọi Jesus. Paul nói về những
phép lạ mà người mang tên Jesus này một trăm lẻ một đã làm, bài giảng của người
này với những đám đông, làm người chết sống lại, xử sự với những người đổi tiền
và rồi đến cái chết trên thập giá, được chôn cất và rồi sống lại của người này.
Cuối cùng như để tăng thêm sức nặng cho câu chuyện của mình, Paul lấy bị hành
lý của mình ra. Lấy ra một chiếc áo choàng mầu đỏ thắm từ đó. Ông ta đặt chiếc
áo trước mặt Hafid:

“Thưa ông, ông sở hữu tất cả những hàng hóa từng có
được của thế gian này, những thứ mà người mang tên Jesus này đã bỏ lại sau lưng.
Tất cả những gì mà ông Jesus này sở hữu, ông ta đã chia sẻ với toàn thế giới,
ngay cả cuộc sống của ông ta cũng vậy. Ở nơi giá treo, những người lính La Mã
đã vứt chiếc áo choàng đẫm máu này cho đám đông. Và tôi đã có được chiếc áo
thánh này sau bao nỗ lực tìm kiếm khi tôi còn ở thành Jerusalem.”

Mặt Hafid tái đi, tay ông run run ve vuốt chiếc áo
dài đẫm máu. Erasmus sửng sốt vì biểu hiện của ông Hafid, ông đi lại gần ông
chủ của mình. Hafid tiếp tục xoay chuyển chiếc áo dài trong tay cho đến khi ông
nhìn thấy ngôi sao nhỏ thêu trên cổ áo... dấu hiệu của ToLa, người làm những
chiếc áo mà ông Pathros bán ra. Cạnh bên ngôi sao nhỏ đó là hình một vòng tròn
trong hình vuông… dấu hiệu của Pathros.

Paul và Erasmus yên lặng đứng nhìn ông Hafid chậm
chạp úp mặt vào chiếc áo dài mầu đỏ thắm. Hafid lắc đầu. Không thể. Hàng ngàn
chiếc áo như vầy đã được bán ra bởi Pathros trong những năm buôn bán của ông.

Vẫn mân mê chiếc áo trong tay, giọng vỡ ra, Hafid
hỏi: “Hãy cho ta biết về những gì ngươi được biết về việc ra đời của ông Jesus
này?”

“Ông ta rời khỏi thế gian này với hai bàn tay trắng.
Ông đến một trăm lẻ hai đây cũng vậy, không hơn gì. Ông được sinh ra trong một
hang đá, nơi dùng làm chuồng gia súc ở Bethlehem trong thời gian kiểm kê dân số
của Augustus.”

Nụ cười của Hafid đầy vẻ ngu ngơ, hai người đàn ông
ngỡ ngàng nhìn người đàn ông già khi thấy nước mắt tuôn chảy trên hai gò má
nhăn nheo của Hafid. Ông ta nhìn hai người một lúc rồi hỏi:

“Và có phải lúc đó có một ngôi sao sáng rực, mà chưa
bao giờ người ta từng nhìn thấy, mọc lên ở nơi mà đứa trẻ này đã sinh ra?”

Paul há hốc miệng không thể nói gì, và cũng không
cần thiết phải nói. Hafid đứng dậy ôm lấy Paul và nước mắt của hai người đàn
ông hòa lẫn vào nhau.

Cuối cùng người đàn ông già quay lại với Erasmus và
nói: “Erasmus, hãy lên tháp lấy cho ta cái rương gỗ. Chúng ta cuối cùng cũng đã
tìm được người bán hàng mà chúng ta chờ đợi từ bao lâu nay.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3