Thần thoại Hy Lạp - Chương 07 - Phần 1

THẦN CHIẾN TRANH AREX

Thần chiến tranh
Arex[1], con của Dớt và Hêra, là một trong mười hai vị thần tối cao của thế
giới Ôlympia, xem ra không được thế giới thần linh tôn trọng, quý mến. Còn đối
với thế giới loài người thì Arex cũng chẳng được mấy ai tôn thờ, sùng kính. Vì
một lẽ đơn giản: chẳng mấy ai thích chiến tranh. Là vị thần của Chiến tranh và
những trận Giao chiến, cho nên tính khí của Arex rất nóng nảy và hung bạo. Hơi
bất bình một chút là mắt quắc lên, thét ầm ầm, rút gươm ngay ra khỏi vỏ. Nghe
đâu có chuyện xích mích, xô xát, xung đột là Arex lao tới ngay. Do tính khí
hung hăng, ngỗ ngược như thế nên thần Dớt chẳng yêu mến gì Arex, dù là con dứt
ruột đẻ ra. Dớt, thậm chí lại rất ghét Arex, coi Arex là đứa ghê tởm nhất, hư
hỏng nhất, là đồ phá hoại. Dớt đã từng nói với Arex nếu như Arex không phải là
con của Dớt thì Dớt đã quẳng xuống địa ngục Tartar từ lâu rồi. Còn Arex, tuy bị
mọi người chẳng ưa thích nhưng chứng nào vẫn tật ấy, không sao chừa được niềm
vui thích được tắm mình trong những trận giao tranh đẫm máu, được nghe tiếng hò
hét, rên la, kêu khóc hòa trộn với tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng, được
ngắm cảnh con người điên cuồng lao vào nhau đâm, chém, máu chảy thành sông, thây
chất thành núi.

[1] Arès, thần thoại La
Mã: Mars.

Arex lúc nào cũng đầu
đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, kiếm đeo bên sườn, khiên che trước ngực. Lao vào
cuộc hỗn chiến bạo tàn. Thần Arex hét lên những tiếng khoái trá. Theo sau Arex
là hai con trai: Đâymôx (Deinars, Terreur) và Phôbôx (Phobos, Crainte) tức thần
Khủng khiếp và Kinh hoàng, càng làm cho những cuộc giao tranh thêm muôn phần ác
liệt và thảm thương. Lại thêm nữ thần Êrix, vị nữ thần Bất hòa thường châm ngòi
cho các cuộc chiến tranh: nữ thần Êniô[2] mà niềm sướng vui là được thưởng
ngoạn cảnh đầu rơi, máu chảy, được nghe tiếng rên la của chiến binh tử thương,
hộ tống, càng làm cho Arex cuồng chiến hơn nữa. Arex tả xung hữu đột, lưỡi gươm
vung lên loang loáng, hạ hết địch thủ này đến địch thủ khác, khiên giáp thấm đỏ
máu người. Càng đánh càng hăng, Arex càng thêm phần tàn bạo, trái tim rắn như
sắt, cứng như đồng, chẳng hề mủi lòng xót thương trước cảnh bao sinh linh phải
từ giã cuộc đời ấm cúng bên vợ con, cha mẹ.

[2] Enyo, thần thoại La
Mã: Beleone.

Tuy là thần Chiến
tranh, tính khí hung hăng, tàn bạo song Arex không phải là vị thần võ nghệ cao
cường, đánh đâu thắng đấy. Tính cuồng chiến và thói ngang ngược với tài thao
lược và óc cơ mưu là hai chuyện khác nhau. Vì lẽ đó vị thần Chiến tranh đã từng
một đại lần được nếm cái mùi vị không dịu ngọt chút nào của chiến tranh. Trong
những trận giao tranh ở chân thành Tơroa, Arex giúp quân Tơroa đánh lại quân Hy
Lạp. Biết bao dũng sĩ ưu tú của quân Hy Lạp phải gục ngã dưới ngọn lao, lưỡi
kiếm bạo tàn của Arex. Nhưng quân Hy Lạp không vì thế mà nao núng. Dũng tướng
Điômeđ xuất trận đương đầu với thần Arex. Gặp địch thủ, Arex hét lên và phóng
luôn ngọn lao đồng. Ngọn lao bay đi, bay vèo đi, không trúng người Điômeđ vì nữ
thần Atêna đã lái ngọn lao bay chệch đích và quay ngoắt xe ngựa của Điômeđ sang
một bên để tránh đòn ác hiểm. Điômeđ thoát chết, phóng lao đánh trả. Ngọn lao
đồng xé gió bay đi và nhờ sự điều khiển của nữ thần Atêna, lao xuyên ngay vào
bụng, chỗ dưới thắt lưng của thần Arex. Arex rú lên một tiếng kinh hoàng. Tiếng
rú tưởng như long trời chuyển đất có dễ đến hàng nghìn chiến binh hai bên hét
cũng không dữ dội bằng. Một cơn gió lốc cuốn cát bụi mù mịt cao lên đến tận
trời xanh. Arex bị thương, đau quá, phải trở về thế giới Ôlympia. Arex tâu với
thần Dớt rằng, nữ thần Atêna đã giúp một người trần, một người trần to gan đánh
lại cả con của thần Dớt, khiến cho nó bị thương đau đớn đến thế này. Nhưng thần
Dớt vốn không ưa Arex nên chẳng những không bênh vực mà lại còn mắng cho Arex
một trận tối tăm cả mặt mũi.

Vợ của thần Arex là nữ
thần Tình yêu và Sắc đẹp Aphrôđitơ cũng bị dũng tướng Điômeđ phóng lao vào cánh
tay, làm bị thương, đến nỗi Aphrôđitơ đang bế đứa con trên tay, rùng mình một
cái buông rơi con xuống đất. May thay có thần Apôlông đến cứu giúp nếu không
thì chưa biết sự thể sẽ ra thế nào. Lúc này Arex bị thương. Thần phải cho vợ
mượn ngựa để bay về trời cứu giúp. Xem thế thì thần Arex không phải giỏi giang
"côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài" gì!

NỮ THẦN APHRÔĐITƠ

Nữ thần Aphrôđitơ[1],
nữ thần Tình yêu và Sắc đẹp, chẳng được thần Dớt ban cho một đặc ân gì, chẳng
có vũ khí gì đặc biệt nhưng lại là một vị nữ thần có sức mạnh khác thường. Cả
thế giới Ôlympia cho đến thế giới loài người trần tục đoản mệnh đều phải khuất
phục trước quyền lực của nàng, quỳ gối nộp mình dưới chân nàng. Một chuyện xưa
kể, nàng là con của Dớt và tiên nữ Điônê. Nhưng xem ra chuyện này không được
đông đảo mọi người chấp nhận. Người Hy Lạp xưa kia vẫn quen coi quê hương của
Aphrôđitơ ở đảo Síp vì nàng sinh ra ở vùng biển của đảo Síp[2]. Thần Crônôx
trong khi thực hiện mưu đồ lật đổ vua cha Uranôx đã dùng lưỡi hái chém chết
Uranôx. Máu của Uranôx từ trời cao nhỏ xuống vùng biển Síp hòa tan vào những
con sóng bạc đầu. Và từ một đám bọt sóng trong như ngọc trắng như ngà ấp ủ được
tinh khí của trời biển giao hòa đã nảy sinh ra nữ thần Aphrôđitơ. Aphrôđitơ ra
đời từ một đám bọt của một con sóng trên mặt biển. Nàng hiện ra trên mặt biển
trong nhịp ru lâng lâng của sóng và tiếng ca dìu dặt của gió biển Nam.
Biết diễn tả thế nào cho đúng, cho hết được vẻ đẹp của Aphrôđitơ, vị nữ thần
Sắc đẹp. Chỉ có thể nói đó là vẻ đẹp bao la, lồng lộng của bầu trời xanh, là
ánh sáng trong trẻo, ngời ngợi tràn lên những áng mây trắng muốt đang lững
thững êm trôi, là vẻ đẹp mênh mông căng đầy.

[1] Aphrodite, thần
thoại La Mã: Vénus, tiếng Nga: Afro-dita, Venera.

[2] Chyprie, tiếng Nga:
Kipr, do đó Aphrodite còn có biệt danh là Cypris Chypride.

Tóm lại, đó là vẻ đẹp
bao la, bát ngát, vô tư bình thản của Trời và Biển, vẻ đẹp của Tự nhiên đang
sinh thành, đang sống, đang dạt dào sức sống và luôn luôn khát khao được sống.
Aphrôđitơ ra đời. Nàng từ đám bọt bể hiện lên hiện lên dần, tươi tắn, ngời ngợi
như một đóa hoa xòe nở. Sóng và gió dịu hiền đưa nàng tới hòn đảo Síp. Các nữ
thần Hơr - Thời gian đã chờ sẵn để đón nàng. Họ mặc cho nàng một tấm áo vàng
rượi mịn như da trời, mỏng như mây trắng. Họ đội cho nàng một vòng hoa thơm
ngát lên đầu và đưa nàng lên cung điện Ôlympia. Các vị thần đều rất vui mừng và
sung sướng được đón nhận vào thế giới vĩnh hằng của mình một nữ thần có sắc đẹp
tuyệt diệu và tươi trẻ như thế. Người xưa kể lại, mỗi khi xuống trần, nữ thần
Aphrôđitơ với dáng người thanh tao, với khuôn mặt diễm lệ và dáng đi khoan
thai, duyên dáng đã làm cho trời đất tưng bừng, rạng rỡ hẳn lên như đổi sắc
thay da.

Mái tóc vàng óng ả búi
cao để lộ ra chiếc cổ cao cao, đầy đặn, tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Mỗi bước
đi của nàng tới đâu là làm cho mặt đất ở đó nở ra muôn hồng nghìn tía. Các nữ
thần Duyên sắc - Kharít và các nữ thần Hơr - Thời gian luôn luôn đi theo bên
nàng để chăm sóc đến trang phục và sắc đẹp của nàng. Chim chóc từng đàn bay
lượn trên đầu nàng ríu ra ríu rít, nô đùa, vờn lướt trước mặt nàng, bên vai
nàng. Bướm dập dờn tung tăng quanh quẩn theo những bước đi của nàng. Những loài
thú dữ như hổ, báo, gấu, sói... lặng lẽ đến ngồi bên đường đi của nàng như muốn
chiêm ngưỡng sắc đẹp diệu kỳ của một vị nữ thần đẹp có một không hai của thế
giới thần thánh. Sau đó, chúng lặng lẽ bước đi nối gót theo nàng. Cả thế giới
thần thánh và loài người đều phải khuất phục trước quyền lực của Aphrôđitơ vì
thần thánh và loài người chẳng thể sống mà không có tình yêu, chẳng thể sống mà
không rung động trước sắc đẹp, nhắm mắt trước cái đẹp, và hơn nữa lại chẳng thể
yêu cái xấu, cái dị dạng dị hình. Tuy thế cũng có một, hai vị thần bất tuân
theo quyền lực của Aphrôđitơ. Nữ thần Atlna chẳng yêu đương cũng chẳng chồng
con. Các nữ thần Hexchia, Artêmix cũng vậy. Còn các nam thần? - Có lẽ không vị
nào dám hiên ngang đương đầu, đối chọi lại với quyền lực của Aphrôđitơ. Quyền
lực của Aphrôđitơ biểu hiện ở chiếc thắt lưng của nàng. Đây là một chiếc thắt
lưng huyền diệu. Hễ ai thắt nó trong người thì có phép làm cho người mình yêu
trở thành người yêu của mình. Hễ ai thắt nó trong người thì có phép làm cho
người mình yêu vốn kiêu kỳ hoặc lạnh nhạt, đã từng làm cho mình đêm năm canh,
ngày sáu khắc thao thức, trằn trọc tơ tưởng, tưởng tơ thì bỗng chốc trở thành
người yêu của mình, người yêu của mình đích thực, yêu mình say đắm, đam mê. Nữ
thần Aphrôđitơ đã cho chàng Parix mượn chiếc thắt lưng này, nhờ đó Parix đã
chinh phục được nàng Hêlen, vợ của Mênêlax ở vương triều Xpart trên đất Hy Lạp.
Vì lẽ đó mà người Hy Lạp phải kéo quân sang đánh thành Tơroa để giành lại nàng
Hêlen.

Aphrôđitơ có nhiều cuộc
tình duyên với thần thánh và hơn nữa cả với người trần. Chồng nàng là
Hêphaixtôx, vị thần Thợ Rèn chân thọt. Nhưng nàng chẳng chung thủy với chồng mà
lại đi lăng nhăng với thần Chiến tranh Arex. Có lần đã bị Hêphaixtôx chăng lưới
sắt chụp xuống bắt quả tang, gây ra một vụ phiền hà trong thế giới thần linh.
Rồi Aphrôđitơ lấy Arex. Đôi vợ chồng này sinh được năm con: một gái là thần Hài
hòa - Harmôni (Harmonie) và bốn trai là Êrôx, Ăngtêrôx, Đâymôx và Phôbôx. Và
còn mối tình với Điônidôx, với Hermex, với một người trần thế Ăngkhidơ. Như vậy
Aphrôđitơ là vị nữ thần của tình yêu say đắm, tình yêu dục vọng thường làm cho
con người ta mất tỉnh táo đến nỗi nhiều khi xảy ra điều tiếng. Vì thế người Hy
Lạp xưa kia, những nhà triết học thế kỷ V-IV trước Công nguyên phân chia ra hai
loại nữ thần Aphrôđitơ. Một là Aphrôđitơ Păngđêmôx (Pandémos) tượng trưng cho
tình yêu của những cảm xúc cao thượng, tình yêu có tâm hồn, có lý tưởng. Người
ta lại thêm cho Aphrôđitơ một định ngữ: Anađiômen (Anadiomène), Aphrôđitơ
Anađiômen nghĩa là Aphrôđitơ từ biển sinh ra. Trước khi được gia nhập vào thế
giới Ôlympia, Aphrôđitơ là vị nữ thần của sự phì nhiêu. Những loại quả có nhiều
hạt tượng trưng cho sự phát triển, sự phong phú như quả lựu, quả anh đào, quả
táo thường được dâng cúng cho Aphrôđitơ. Người ta cũng đã từng tôn thờ
Aphrôđitơ như là một nữ thần Biển, người bảo hộ cho sự giao lưu trên mặt biển
được thuận buồm xuôi gió, vạn sự bình an. Tàn dư của tôtem giáo trong việc thờ
cúng Aphrôđitơ còn ở lễ hiến tế các con vật mắn đẻ như chim sẻ, thỏ, bồ câu.
Quê hương của Aphrôđitơ ở đảo Síp vì thế đảo Síp là một trong những trung tâm
thờ cúng nữ thần Aphrôđitơ với những nghi lễ trọng thể nhất. Trên bán đảo Hy
Lạp cũng có nhiều nơi thờ cúng nữ thần Aphrôđitơ như Đenphơ, Côranhtơ.

Xưa kia những thiếu nữ
Hy Lạp đi dự lễ cưới thường dâng cúng cho nữ thần Aphrôđitơ những chiếc thắt
lưng do chính bàn tay mình dệt ra dường như muốn được nữ thần ban cho quyền lực
mầu nhiệm ở chiếc thắt lưng của nữ thần, để mình đạt được những ước mơ trong
con đường tình duyên, hạnh phúc đại lứa. Trong văn học thế giới điển tích -
thành ngữ Chiếc thắt lưng của Aphrôđitơ hoặc Chiếc thắt lưng của
Vênuyx
ám chỉ một vật gì, một chuyện gì, một sự việc nào đó có khả năng làm
say mê con người, chinh phục tình cảm của con người. Trong tập tục tôn giáo,
nghi lễ thờ cúng nữ thần Aphrôđitơ xưa kia, có tục lệ những thiếu nữ xinh đẹp
nhất phải hiến thân cho những người đàn ông để chứng tỏ quyền uy của nữ thần
Aphrôđitơ, để những người thiếu nữ được hưởng quyền sử dụng trinh tiết của
mình. Nghi lễ tôn giáo nhục cảm này diễn ra trong đền thờ nữ thần Aphrôđitơ
mang tính chất thiêng liêng, cao cả. Những người đàn ông được dự cuộc
"hành lễ" này phải nộp một khoản tiền để bỏ vào quỹ của đền thờ.
Enghen coi đó là hình thức mãi dâm đầu tiên trong lịch sử. Không phải chỉ riêng
ở Hy Lạp chúng ta mới thấy có tập tục này. Những người Babilon, những người
Armêni cổ xưa cũng đều có những tập tục nghi lễ tôn giáo nhục cảm như vậy. Đối
với người Hy Lạp xưa kia, Aphrôđitơ là vị nữ thần thể hiện vẻ đẹp nhục cảm của
người phụ nữ, một vẻ đẹp hấp dẫn nhất trong mọi vẻ đẹp của thế gian. Khác hẳn
với vẻ đẹp "liễu yếu đào tơ", "yểu điệu thục nữ" mềm yếu,
thướt tha, ẩn giấu, kín đáo của phương Đông, châu á chúng ta, vẻ đẹp của
Aphrôđitơ là vẻ đẹp phô diễn, biểu hiện sự mềm mại uyển chuyển của đường nét,
sự đầy đặn, nở nang, khỏe khoắn, cân đối của thân hình, Aphrôđitơ là vị nữ thần
của thiên hướng tình dục - thẩm mỹ của con người. Những bức tượng Aphrôđitơ của
thời cổ đại thường được các nghệ sĩ thể hiện khỏa thân hay nửa khỏa thân diễn tả
vẻ đẹp lý tưởng về người phụ nữ, qua đó dẫn đến, gợi đến một ý niệm về sự trong
sáng, thanh cao, hài hòa, hoàn thiện. Và thật lạ lùng, những bức tượng thần đó
chẳng có gì là thần thánh, thoát tục, siêu nhiên cả. Vì lẽ đó cho nên ngày nay
ở châu âu người ta thường gọi những bức tranh, bức tượng phụ nữ khỏa thân là
Vênuyx.

APHRÔĐITƠ BAN PHÚC CHO PIGMALIÔNG

Ở đảo Síp có một vị vua
đồng thời lại là một nhà điêu khắc đại tài tên gọi là Pigmaliông (Pygmalion).
Không rõ trong đời riêng có gặp chuyện gì bất hạnh mà Pigmaliông, lại theo như
những người chung quanh nhận xét, nuôi giữ một mối ác cảm với phụ nữ nói chung,
không phân biệt kẻ hay, người dở, vì thế mà quyết định sống độc thân suốt đời.
Pigmaliông quả thật chẳng hề bận tâm suy tính đến những chuyện mà người đời
thường cho là đại sự: tình yêu, hôn nhân và gia đình. Đối với chàng hình như
những chuyện đó, tình yêu đối với một người đàn bà, rồi cưới xin và cuộc sống
gia đình chẳng thể đem lại hạnh phúc cho chàng mà còn có thể phá hoại mất tình
yêu của chàng đối với nghệ thuật điêu khắc. Chàng thường nghĩ, chỉ cần yêu nghệ
thuật cũng đủ rồi. Tình yêu đó thật cao thượng đẹp đẽ, thật lớn lao và phong
phú. Nó cũng đem lại sự say mê đắm đuối, nhớ nhung, khắc khoải, thao thức,
sướng vui chẳng khác chi tình yêu đối với một người phụ nữ. Và, cũng theo chàng
nghĩ, nó cũng đem lại cho chàng những phút dằn vặt, khổ đau, bực bội, quằn
quại, day dứt trong lòng. Nhưng kỳ lạ sao, chàng lại tìm thấy ở đó một hạnh
phúc lớn lao, một niềm tin trong sáng vào cuộc đời và con người, một khát vọng
được sống say mê, sôi nổi hơn nữa, được suy nghĩ, được khổ đau vì nghệ thuật
hơn nữa. Còn phụ nữ, chàng thở dài, đàn bà thì dù sao cũng cứ là đàn bà!

Nhưng chàng lại đang
say mê tạc bức tượng một người đàn bà, đúng hơn, tạc bức tượng một thiếu nữ,
một người thiếu nữ xinh đẹp bằng ngà voi trắng muốt. Chàng làm việc quên ăn,
quên ngủ. Hết đêm lại đến ngày, hết ngày này lại sang ngày khác. Pigmaliông cặm
cụi với bức tượng của mình. Chàng vui sướng khi bức tượng từ một chiếc ngà voi
khổng lồ cong vút dần thành hình, thành dáng như người thiếu nữ trong trí tưởng
tượng của chàng. Chàng xót xa trước mỗi nhát gọt, nhát đục không chính xác như
xót xa đã phạm tội bất kính với thần thánh. Nhưng rồi bàn tay khéo léo của
chàng đã làm cho người thiếu nữ ngày càng đẹp hơn lên. Dường như chàng muốn tạo
ra một người phụ nữ thật đẹp đẽ, thật hoàn thiện để nói với người đời rằng,
người phụ nữ đích thực phải đẹp như thế, phải hoàn thiện như thế, như bức tượng
chàng sáng tạo ra đây này.

Bức tượng được hoàn
thành, Pigmaliông hết sức hài lòng và sung sướng trước thành công của mình.
Chàng say sưa ngắm nghía nó và càng ngắm nghía, suy tưởng trước vẻ đẹp của tác
phẩm chàng lại càng yêu quý, say mê người thiếu nữ ngà voi do chàng sáng tạo
ra. Có những lúc chàng tưởng chừng như đây là một con người thật, một người
thiếu nữ bằng da bằng thịt có một sắc đẹp chiếm đoạt tâm hồn con người mà trong
đời chàng có một đại lần thoáng gặp song nhớ mãi. Nhiều lúc chàng tưởng như
người thiếu nữ ấy đang muốn nói với mình nhiều điều lắm, nhiều lắm, nhưng nói
những gì thì chàng cũng không rõ nữa. Và cứ thế ngày này qua ngày khác,
Pigmaliông bị sắc đẹp diệu kỳ, bí ẩn của bức tượng người thiếu nữ chinh phục.
Chàng đeo vào bộ ngực trần của người thiếu nữ chuỗi ngọc, chàng mặc thêm cho
người thiếu nữ tấm áo lụa mỏng, chàng đội lên đầu bức tượng vòng hoa nguyệt
quế, vòng lá ôlivơ. Và chàng tưởng như nàng, người thiếu nữ bằng ngà voi đó hết
sức cảm động trước tình yêu chân thành của chàng mà không nói được nên lời.
Nhiều lúc Pigmaliông đứng lặng hồi lâu trước bức tượng và từ trái tim chàng cất
lên những tiếng thì thầm như gió thoảng:

- Em! Em!... Có thể nào
như thế được không? Em! Em! Em nhìn đi đâu? Kìa em, sao em không nói?...

Nhưng nghệ thuật vẫn là
nghệ thuật và cuộc đời vẫn là cuộc đời. Nghệ thuật dẫu sao cũng chẳng thay thế
được cuộc đời và đẹp đẽ, sinh động như cuộc đời thực. Pigmaliông đặt bàn tay
nóng ấm của mình lên vai người thiếu nữ. Một cảm giác khô cứng, giá lạnh thực
sự truyền vào người chàng, thức tỉnh ảo mộng của chàng. Chàng thất vọng gục đầu
xuống chân bức tượng. Tất cả những gì diễn ra trong căn nhà của người nghệ sĩ
điêu khắc giàu trí tưởng tượng ấy, không ai biết cả. Duy chỉ có nữ thần
Aphrôđitơ biết. Vị nữ thần Tình yêu và Sắc đẹp hết sức xúc động trước tình yêu
mãnh liệt và sự rung động nồng cháy của tâm hồn người nghệ sĩ Pigmaliông. Ngày
lễ nữ thần Aphrôđitơ tới như thường lệ. Đảo Síp tưng bừng trong cảnh những đại
trai gái nô nức kéo nhau đến đền thờ nữ thần Tình yêu và Sắc đẹp để cầu nguyện
cho tình yêu và hạnh phúc. Người ta đem đến đền thờ những con bò cái có bộ lông
trắng muốt như tuyết, có bộ sừng vàng để làm lễ hiến tế. Hương thơm bay ngào
ngạt, lan tỏa đi khắp mọi nơi trên đảo, Pigmaliông cũng đem những lễ vật tới
dâng lên bàn thờ nữ thần Aphrôđitơ. Chàng thì thầm cầu nguyện:

- Hỡi nữ thần Tình yêu
và Sắc đẹp! Nàng Aphrôđitơ tóc vàng! Cầu xin nữ thần với quyền lực vô biên của
mình ban cho tôi một người vợ xinh đẹp, duyên dáng như người thiếu mà tôi đã
sáng tạo ra, như bức tượng bằng ngà voi trong căn phòng vắng vẻ của tôi!

Chàng chẳng thể cầu xin
gì thêm nữa, nhiều nữa vì chàng e sẽ phạm tội bất kính đối với thánh thần.
Nhưng nữ thần Aphrôđitơ đã chấp nhận lời cầu xin của chàng. Ba lần ngọn lửa
thiêng liêng trước bàn thờ dưới chân bức tượng nữ thần Aphrôđitơ bùng cháy bốc
lên cao, rực sáng thì cũng là ba lần Pigmaliông nhìn thấy với biết bao hồi hộp.
Pigmaliông trở về nhà. Chàng đẩy cửa. Kìa lạ lùng sao, người thiếu nữ của chàng
nhìn chàng đăm đắm và đẹp đẽ hơn lên gấp bội phần, tươi tắn, sinh động hơn lên
gấp bội phần! Chàng tiến đến bên nàng, đặt tay lên vai nàng. Một cảm giác nóng
ấm, mềm mại, hấp dẫn truyền nhanh vào người chàng khiến chàng ngỡ ngàng, lùi
lại một bước. Nhưng người thiếu nữ đã nhoẻn miệng cười. Nàng rời khỏi bệ và ngả
người vào trong vòng tay của chàng.

Ước nguyện của
Pigmaliông đã được thực hiện. Bức tượng đã được Aphrôđitơ biến thành người
thật. Pigmaliông đặt tên cho vợ mình là Galatê. Đôi vợ chồng sống với nhau thật
đầm ấm, hạnh phúc. Họ sinh được một con trai đặt tên là Paphôx lớn lên kế
nghiệp cha làm vua. Chàng cho xây dựng Galatée, Galatéa, một đô thành trên đảo
Síp và lấy tên mình đặt tên cho đô thành. Chàng cũng cho xây một đền thờ khá
nguy nga để hiến dâng cho nữ thần Aphrôđitơ. Và vì lẽ đó nữ thần Aphrôđitơ có
một (trong những) biệt danh là Paphôx.

Ngày nay trong văn học
thế giới, Pigmaliông chuyển nghĩa, chỉ một con người quá say sưa, yêu mến, tán
thưởng công trình tác phẩm, công việc của mình đến nỗi mất cả sự tỉnh táo khách
quan.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3