Thần thoại Hy Lạp - Chương 06 - Phần 3
NỮ THẦN ATÊNA
Trong số các vị thần
của thế giới Ôlympia thì nữ thần Atêna[1] ra đời thần kỳ hơn cả. Đối với các vị
thần thì đương nhiên sự ra đời phải khác thường, phải thần kỳ rồi. Nhưng Atêna
thần kỳ hơn, khác thường hơn. Nàng không phải do mẹ sinh ra mà do bố sinh ra, và
sinh ra từ... từ... đầu! Thần Dớt lấy nữ thần Mêtix, một Titaniđ con của
Ôkêanôx và nữ thần Têtix. Theo người xưa kể thì chính Mêtix mới là người vợ đầu
tiên của Dớt chứ không phải Hêra. Mêtix là người đã nói cho biết thứ lá cây
thần diệu và bí hiểm để Dớt lấy về cho Crônôx uống vì thế nên Crônôx mới nôn
mửa ra hết những anh chị em của Dớt bị nuốt từ khi mới ra đời. Đứa con đầu lòng
của họ là một bé gái. Ngày sắp sinh đứa con thứ hai thì một lời sấm ngôn của nữ
thần Đất Mẹ Gaia truyền cho họ biết, đứa con này sẽ là con trai và lớn lên nó
sẽ mạnh hơn bố nó. Nó sẽ truất ngôi bố và tranh giành lấy quyền cai quản thế
giới Ôlympia và thế giới loài người.
[1] Athéna, thần thoại
La Mã: Minerve.
Dớt rất đỗi lo sợ về
lời sấm truyền đó. Thần nghĩ cách đối phó lại. Và có lẽ cách tốt nhất theo thần
nghĩ, là bắt chước Crônôx: nuốt! Dớt nghĩ thế và nuốt luôn người vợ đang bụng
mang dạ chửa của mình. Ít ngày sau Dớt mắc chứng đau đầu rất dữ, đau từng cơn
ong ong lục ục trong đầu. Trong một cơn đau muốn nổ tung bộ óc, Dớt gọi đứa con
què Hêphaixtôx lại và ra lệnh: "... Lấy búa bổ vào đầu ta ngay, làm ngay
đi...". Hêphaixtôx còn do dự trước cái lệnh kỳ quái đó nhưng Dớt trừng
mắt, quát: "... Bổ đi! Làm ngay không chết bây giờ!...".
Thế là Hêphaixtôx phải
tuân theo lời Dớt. Chàng nâng cây búa nặng ngàn cân lên dùng hết sức bình sinh
giáng vào đầu Dớt. Chát một cái! Hêphaixtôx nhắm mắt lại, rùng mình. Sọ của Dớt
nứt toác ra và từ kẽ nứt nhảy ra ngoài một người thiếu nữ nhung y võ phục gọn
gàng, tay kiếm tay cung, mắt sáng như gương, tiếng to như sấm. Vừa nhảy ra khỏi
đầu Dớt, nàng liền hét lên một tiếng vang động cả đất trời như khi xung trận.
Đó là Atêna, vị nữ thần Trí tuệ, Tri thức và Chiến trận. Atêna đội mũ đồng sáng
loáng, mặc áo dài, đứng uy nghi oai phong lẫm liệt như một vị nam thần. Vì là
nữ thần của Trí tuệ, Tri thức nên Atêna sáng tạo ra biết bao nhiêu điều để dạy
con dân Hy Lạp. Nàng đã ban cho người trần thế cái cày và cái bừa để họ có thể
làm ruộng, trồng lúa, trồng nho. Nàng trao cho những người phụ nữ cái xa quay sợi
và khung cửi dệt. Nàng dạy cho họ nghề dệt khéo léo và công phu để họ có thể
dệt nên những tấm vải dày, mỏng tùy theo ý thích, màu sắc rực rỡ như lòng họ
mong muốn. Vì thế người xưa còn gọi nàng là "Atêna Ergana" nghĩa là
"Atêna Thợ giỏi"[2] vị nữ thần bảo hộ cho nghề thủ công. Nàng còn là
người đặt ra các thiết chế, luật Pháp cho các đô thị để con người biết cách cai
quản điều hành cuộc sống của mình được trật tự và công bằng. Vì là nữ thần Trí
tuệ, Tri thức nên nàng phải được Dớt sinh ra từ... đầu, hay cũng vì sinh từ đầu
Dớt mà nàng phải là vị nữ thần của Trí tuệ, Tri thức. Do đó một chức năng nữa
mà Atêna phải đảm nhận là bảo đảm cho khoa học và kỹ thuật trong các đô thị sao
cho được phát triển rực rỡ, phục vụ hữu hiệu cho con người. Từ tất cả những công
việc ấy Atêna được gọi là vị nữ thần bảo hộ cho đô thị: Atêna Pôliađ[3].
[2] Athéna Ergana,
tiếng Hy Lạp: Ergon: lao động, dịch sát là “người lao động”.
[3] Athéna Poliade, tiếng Hy Lạp:
Polias, từ Polis: đô thị.
Trong gia tài thần
thoại Hy Lạp có một số các vị thần ngoài tên chính còn nhiều biệt danh kèm theo
như: Apôlông Phêbuyx, Artêmix Tôrôpôn, Atêna Panlax... mà khoa thần thoại học
gọi là "Các thần có biệt danh".[4]
[4] Tiếng Hy Lạp: piklôros, chỉ một tên thêm của
người bố đặt cho con cái trong trường hợp không có con trai để thay quyền quản
lý tài sản ở Hy Lạp xưa kia.
Sự xuất hiện những biệt
danh đó gắn liền với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể: các công xã thị tộc Hy Lạp
dần dần thống nhất lại với nhau và từ đó nảy ra khuynh hướng tập trung những nghi
lễ, tập tục thờ cúng. Đương nhiên quá trình này không phải diễn biến theo một
con đường thẳng tắp. Một mặt nó dẫn đến kết quả như ta vẫn thường thấy việc
nhân hình hóa nhân cách hóa những hiện tượng tự nhiên và xã hội vào trong một
số vị thần gần như có quyền lực ngang nhau và có những chức năng tương tự như
nhau, giống nhau. Hêliôx, thần Mặt Trời với Apôlông, thần ánh sáng; Xêlênê, nữ
thần Mặt Trăng với Artêmix, nữ thần Mặt Trăng. Đã có nữ thần Hêra và nữ thần
Ilithi trông coi và bảo hộ cho hạnh phúc gia đình, sự sinh nở, việc hộ sinh,
lại thêm cho Artêmix những chức năng tương tự như thế,... Lại có khi hai chiều
hướng phát triển nói trên hợp nhất lại và xuất hiện một vị thần thống nhất.
Những vị thần tồn tại độc lập, không quan trọng ít ý nghĩa đối với đời sống xã
hội cụ thể dần dần lui bước khỏi "vũ đài" thần thoại và nhường tên nó
lại cho vị khác, vị thần của công xã chiến thắng. Và ngọn cờ chiến thắng chính
là biệt danh cắm vào với cái tên vốn có của vị thần được lịch sử xã hội
"phù hộ".
Atêna thường có một
biệt danh quen thuộc là Panlax (Pallas). Người xưa giải thích, sở dĩ nàng có
biệt danh này là do nàng đã đánh bại được tên khổng lồ Panlax trong một cuộc
giao tranh ác liệt. Để ghi nhớ chiến công hiển hách của mình, Atêna lột da địch
thủ căng lên tấm khiên. Có chuyện lại kể, Panlax không phải là một tên khổng lồ
đã bị đánh bại trong cuộc giao tranh giữa các thần và những tên Ghigăngtôx -
Đại khổng lồ. Panlax là một thiếu nữ, con vị thần biển Tơritông. Atêna chẳng
hiểu vì một chuyện gì đã vô tình gây ra cái chết của Panlax. Để bày tỏ tấm lòng
thương tiếc và hối hận đối với cái chết của người con gái bất hạnh, Atêna lấy
da của Panlax lợp lên chiếc khiên của mình và ghép tên nàng vào với tên mình.
Ngoài biệt danh Panlax, Atêna còn có những biệt danh như Prômakhôx[5] hoặc
Tơritôgiênia[6] và đôi khi là Hygia[7]. Atêna tham dự vào khá nhiều chuyện của
thế giới thiên đình và thế giới loài người. Đối với người Hy Lạp cổ xưa, Atêna
là vị nữ thần đã đem lại cho họ một cuộc sống văn minh hơn. Nàng là vị nữ thần
của Trí tuệ, Tri thức. Nàng là ánh sáng của khoa học, kỹ thuật, văn hóa, nghệ
thuật chiếu rọi xuống đời sống tối tăm của con người.
[5] Promachos, tiếng Hy
Lạp: "Người nữ chiến binh".
[6] Tritogénia (hồ
Tritonis, nơi nữ thần Atêna ra đời).
[7] Hygia (sức khỏe).
Nàng còn là vị nữ thần
của chiến trận, chiến thắng. Aten, một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
của thế giới Hy Lạp ngày xưa và là thủ đô của nước Hy Lạp ngày nay, là đô thị
mang tên nữ thần Atêna và được nữ thần Atêna bảo hộ. Con vật gắn bó với nữ thần
Atêna, một dấu vết về tiền sử tôtem của nữ thần, là con cú mèo. Vì thế nữ thần
thường có những định ngữ kèm theo: Atêna có đại mắt cú mèo, Atêna có đại mắt
xanh lục... Ngày nay trong văn học các nước phương Tây cái tên Atêna hoặc
Minervơ có một nghĩa bóng là: "người đàn bà thông minh", "người
phụ nữ tri thức", "thông tuệ". Từ đó con cú của nữ thần Atêna
cũng tượng trưng cho sự hiểu biết, tri thức, sự thông minh, thông tuệ.
Lại nói về chuyện thần
Dớt đẻ nữ thần Atêna. Đây là một sự tức khí của Dớt. Thần Dớt muốn chứng tỏ cho
thế giới Ôlympia biết, và nhất là cho Hêra biết rằng không phải chỉ có đàn bà
mới đẻ được, mới sinh con cái được. Đàn ông cũng đẻ được chứ đừng tưởng chỉ
riêng có đàn bà, đừng có lấy thế mà tỏ vẻ lên mặt, vênh váo! Tại sao lại có
chuyện tức khí như vậy? Đó là, dễ hiểu thôi, xã hội đã chuyển biến sang thời kỳ
thị tộc phụ quyền vì thế mới xuất hiện loại huyền thoại hạ uy thế của đàn bà!
ATÊNA THẮNG PÔDÊIĐÔNG,
ĐƯỢC CAI QUẢN MIỀN ĐỒNG BẰNG ATTÍCH
Attích[1] là một vùng
đồng bằng ở miền Trung Hy Lạp. Thuở xa xưa, nơi đây còn hoang vắng, làng thưa,
dân ít, chưa vị thần nào chú ý đến mảnh đất nhỏ hẹp này. Lúc đó cai quản Attích
là một vị vua tên là Kêcrốp (Cécrops). Nữ thần Đất Mẹ của muôn loài Gaia vĩ
đại, đã sinh ra Kêcrốp, một vị thần nửa người, nửa rồng. Kêcrốp lấy Aglôrôx
(Aglauros) sinh được một trai và ba gái. Năm tháng trôi đi, vùng đồng bằng
Attích cũng theo năm tháng mỗi ngày một thay đổi. Cảnh vật nom đầy đặn, ấm áp
hơn, vui mắt hơn. Kêcrốp bèn chia vùng đồng bằng Attích thành mười hai tiểu
khu, trong số đó tiểu khu Aten là trú phú, sầm uất hơn cả (thật ra lúc này nó
chưa có tên là Aten). Thấy một vùng đất giàu có, đẹp đẽ chưa có vị thần nào cai
quản, nữ thần Atêna liền đến bày tỏ nguyện vọng được cai quản vùng đồng bằng
Attích và bảo trợ cho tiểu khu Aten.
[1] Attque: tiếng Hy
Lạp: Attike, Attili.
Nhưng vừa lúc Atêna bày
tỏ nguyện vọng xong thì thần Pôdêiđông cũng từ dưới biển lên xin yết kiến nhà
vua Kêcrốp để thỉnh cầu nhà vua cho được cai quản vùng Attích và... nghĩa là
cũng giống như nguyện vọng của Atêna. Tình hình thật khó xử. Hai vị thần bèn
giao ước với nhau, mỗi vị sẽ tùy theo tài năng của mình ban cho Aten một tặng
vật. Tặng vật nào được coi là quý giá hơn hết thì người chủ của nó sẽ giành
được quyền cai quản và bảo trợ.
Nhà vua Kêcrốp làm
trọng tài phán quyết việc hơn thua trong cuộc tranh giành này. Pôdêiđông lên
tiếng trước. Thần nói:
- Ta sẽ ban cho đô
thành trên ngọn đồi cao đây của nhà vua một tặng vật hiếm có trên đời này. Ta
chắc rằng khó mà nhà vua tìm được một vị thần nào có thể ban cho nhà vua một
thứ gì quý báu hơn.
Pôdêiđông nói, đoạn
xoay cây đinh ba lại và giáng một nhát vào vách đá. Vách đá nứt ra. Một tia
nước mặn từ kẽ nứt của đá vọt ra, xối chảy, chảy ngày càng mạnh và tuôn vào một
cái giếng sâu thẳm. Kêcrốp vô cùng kinh ngạc trước sự mầu nhiệm của cây đinh ba
thần thánh của vị thần cai quản mọi biển khơi. Đến lượt nữ thần Atêna. Nàng
nói:
- Ta sẽ ban cho con dân
của đất Attích một tặng vật vô cùng thân thiết với đời sống. Nó có thể đem lại
cho mảnh đất này sự hòa bình và thịnh vượng đời đời.
Nói xong nữ thần Atêna
cầm ngọn lao dài phóng mạnh xuống mặt đất. Khi nữ thần rút ngọn lao lên thì kỳ
lạ thay, từ kẽ nứt của mặt đất mọc lên một chiếc cây. Chiếc cây cứ lớn lên vùn
vụt, tỏa cành, đâm lá xum xuê. Rồi từ những cành lá xum xuê đó mọc ra những quả
nho nhỏ thon thon. Đó là cây ôlivơ, một cây mà tuổi thọ có thể tới một ngàn
năm. Còn quả ôlivơ chứa chất dầu rất quý.[2]
[2] Olive (chúng ta
thường phiên âm là "ôliu"), màu ôlivơ xanh nhạt, quả ôlivơ giống quả nhót.
Kêcrốp đến lượt mình
lên tiếng phán quyết. Nhà vua coi tặng phẩm của nữ thần Atêna là quý báu hơn
cả. Từ đó Atêna là vị nữ thần bảo hộ cho vùng đồng bằng Attích và tiểu khu
Aten. Có chuyện kể, không phải Kêcrốp đóng vai trò người phán định cuộc tranh
giành miền Attích giữa hai vị thần Atêna và Pôdêiđông, mà là hội nghị các vị
thần Ôlympia. Có chuyện kể chính những người dân Aten đóng vai trò quyết định.
Họ được chứng kiến tài năng thần kỳ của các vị thần trong cuộc đua tài và sau
đó họ bỏ phiếu cho Atêna. Số phiếu của Atêna hơn Pôdêiđông một, do đó Atêna
thắng cuộc. Người ta còn kể tặng vật của Pôdêiđông không phải là một mạch nước
mặn chảy ra từ vách đá, mà là một con ngựa...
Thua cuộc, Pôdêiđông
tức giận nhà vua Kêcrốp và con dân của đất Attích vô cùng. Và đối với các vị
thần một khi đã tức giận là phải có sự trừng phạt tiếp theo. Pôdêiđông lại dùng
cây đinh ba thần thánh của mình giáng xuống một vùng đất đồng bằng Attích khiến
cho vùng này sụt thấp hẳn xuống và biến thành một vùng đầm lầy nước mặn rộng
mênh mông, chẳng thể nào trồng trọt được. Atêna thắng lợi trong cuộc tranh
giành quyền bảo hộ cho đất Attích. Chính từ đây mới ra đời cái tên
"Aten"[3] với ý nghĩa là đô thị được nữ thần Atêna bảo hộ hoặc đô thị
của nữ thần Atêna. Còn cành ôlivơ trở thành một biểu tượng cho hòa bình và
thịnh vượng, hoặc sự hiểu biết sáng suốt.
[3] Athènes, tiếng Hy
Lạp: Athênai, Athina.
* * *
Nói về Kêcrốp, sinh
được một trai là Êriđíchtông (Eris'ichthon) và ba gái là Aglôrô (Aglanros),
Hêrxê (Hersé) và Păngđrôxôx (Pamdrosos). Để ghi nhớ công ơn của nữ thần Atêna,
nhà vua cho xây đền thờ nữ thần mang tên là Kêcrôpia[4] và đặt ra các nghi lễ
tập tục thờ cúng các vị thần thay cho những nghi lễ và tập tục cũ phải giết
người để hiến tế thần linh. Kêcrốp còn đặt ra luật Pháp và truyền dạy cho nhân
dân chữ viết... làm cho đời sống của nhân dân vùng đồng bằng Attích ngày càng
văn minh hơn, giàu có hơn. Kêcrốp làm vua được bao lâu và có truyền ngôi lại
cho con cháu trải qua mấy đời như tục lệ thường thấy không, chúng ta không thấy
chuyện xưa kể lại rành rõ. Nhưng truyền thuyết xưa cho ta biết người kế tục sự
nghiệp của Kêcrốp cai quản vùng đồng bằng Attích và đô thị Aten là nhà vua
Êrichtôniôx[5]. Êrichtôniôx là con của thần Thợ Rèn Hêphaixtôx và nữ thần Đất
Gaia, có người nói chàng là con của Hêphaixtôx và nữ thần Atêna nhưng lại được
sinh ra từ đất. Một hôm nữ thần Atêna trao cho ba người con gái của nhà vua
Kêcrốp một cái vại (có chuyện kể: một cái giành) đậy kín và căn dặn phải giữ
gìn cẩn thận và cấm ngặt không được mở ra xem. Nhưng thói tò mò mà vốn là cái
"tiền oan nghiệp chướng" từ người đàn bà đầu tiên của thế gian,
Păngđor truyền lại, cho nên ba người con gái của Kêcrốp không sao mà áp chế nổi
cái thói tò mò đang bật dậy trong trái tim họ. Họ đã mở cái vại ra xem. Ôi
chao! Khủng khiếp quá! Khủng khiếp hết chỗ nói! Trong vại có một đứa bé nằm,
nằm lọt thỏm giữa một lũ rắn đệm, dát ở xung quanh. Ba người con gái của Kêcrốp
chỉ kịp thét lên một tiếng rồi ôm đầu chạy. Họ đã hóa điên vì sợ hãi. Có thể nữ
thần Atêna làm cho họ mất trí vì họ đã không tuân theo lời căn dặn của thần. Và
cả ba người con gái của Kêcrốp đâm đầu từ trên ngọn núi Acrôpôn[6] xuống, kết
liễu cuộc đời. Đứa bé trong cái vại đó chính là Êrichtôniôx. Nữ thần Atêna đưa
chú bé vào trong đền và nuôi dạy chú thành một chàng trai tài giỏi, xứng đáng
là con cháu của các vị thần. Êrichtôniôx thừa kế sự nghiệp của Kêcrốp, cai quản
vùng đồng bằng Attích và đô thị Aten. Nhà vua đặt ra nghi lễ thờ cúng nữ thần
Atêna và đặt ra "Hội Panatênê"[7], xây đền thờ nữ thần Atêna và Pôdêiđông
đặt tên là Êrêchtêiông (Erichthéion). Nhà vua cũng là người sáng tạo ra chiếc
xe tứ mã. Do "dây mơ, rễ má" của chuyện những người con gái của
Kêcrốp với Atêna nên nữ thần Atêna thường có những định ngữ kèm theo như Atêna
Aglôrôx, Atêna Păngđrôxôx.
[4] Cecrooia, lúc đầu
có nghĩa là "xứ sở của Hêcrốp" sau mở rộng chỉ những đền điện thờ,
những công trình kiến trúc ở Aten. Cecropiades nghĩa là: "Con cháu của
Kêcrốp" chỉ những người dân ở Aten hoặc vùng đồng bằng Attích.
[5] Erichthonlos, tiếng
Hy Lạp: "eri": khỏe mạnh, tốt đẹp; "khteni": đất.
[6] Acropole, tiếng Hy
Lạp: "akrôs”: trên cao; "polis": đô thị. Một đô thị cổ ở Hy Lạp
gồm có hai khu vực. Khu vực ở dưới thấp và khu vực ở trên cao. Khu vực trên núi
cao gồm các đền, điện thờ các vị thần, và một lâu đài, nơi tiến hành các nghi
lễ thiêng liêng.
[7] Pana thénéer, tiếng
Hy Lạp: "pan": tất cả, hoàn toàn. (Hội của toàn dân Aten). Quadrige:
xe bốn ngựa chạy song song.
"Hội
Panatênê" lúc đầu chỉ mở ở tiểu khu Aten, giới hạn trong những công xã ở
địa phương này. Sau dần nó trở thành ngày hội của toàn thể nhân dân vùng đồng
bằng Attích. Lúc đầu hội được mở mỗi năm một lần vào những ngày cuối của tháng
tám (tháng hêcatombơ) đến thời Pidixtơrát[8] mở bốn năm một lần và mở vào trước
"Hội Ôlanhpích" một năm gọi là "Hội lớn Panatênê" (Giandes
Panathénées).
[8] Pisistrale, nhà cầm
quyền ở Aten quãng thế kỷ VI trước Công nguyên.
Cũng như các "Hội
Ôlanhpích" và "Hội Pitích", trong những ngày "Hội
Panatênê" người Hy Lạp tổ chức thi đấu võ nghệ, thể dục, thể thao. Từ thời
Pidixtơrát[9] đưa thêm các môn thi đọc thơ (kể chuyện thơ) cho các nghệ nhân
dân gian rápxôđ (rapshade), đến thời Pêriclex đưa thêm vào môn thi ca hát và
biểu diễn âm nhạc. Những người chiếm giải trong cuộc thi được tặng thưởng một
vòng hoa ôlivơ và một chiếc bình đựng dầu ôlivơ, thứ dầu thiêng liêng là tặng
vật của nữ thần Atêna ban cho con dân Hy Lạp.
[9] Périclès, nhà cầm
quyền ở Aten, (495 - 492 trước Công nguyên).
Tục lệ ấy ngày nay còn
lưu giữ lại trong sinh hoạt thi đấu thể dục thể thao của chúng ta. Giải thưởng
cho những cá nhân và tập thể thắng cuộc thường là một chiếc bình, lọ dáng thon
thả, thanh thoát có hai quai như chiếc bình đựng dầu ôlivơ của người Hy Lạp xưa
kia.[10]
[10] Từ "cúp"
mà ngày nay chúng ta thường gọi là Việt hóa từ "coupe" trong tiếng
Pháp, "Coupe" tiếng Pháp nghĩa là một chiếc cốc to, một chiếc bình
đồng thời cũng có nghĩa là phần thưởng trong các nước thi đấu thể dục thể thao.
ATÊNA BIẾN ARAKHNÊ
THÀNH CON NHỆN
Xưa kia ở xứ Liđi,
thành Côlôphông có một người con gái tên là Arakhnê[1]. Nàng nổi danh vì sắc
đẹp thì ít nhưng về tài dệt vải, dệt lụa thì nhiều. Không một người phụ nữ xứ
Liđi nào có thể sánh tài với nàng về nghệ thuật dệt. Nhìn những tấm lụa do bàn
tay nàng dệt ra người ta tưởng chừng như Arakhnê đã lấy những tia nắng làm sợi
cho nên nó mới óng ả, trau chuốt và mịn mỏng đến như thế. Còn khi những thiếu
nữ Liđi mặc những tấm lụa do Arakhnê dệt, tham dự vũ hội thì thật là tuyệt đẹp.
Người ta bảo đó là những nàng tiên, những Nanhphơ đang ca múa trong những buổi
sớm mai dưới lớp sương mù mờ mờ ảo ảo. Đến cả những vị thần, nam thần và nữ
thần cũng phải khâm phục tài dệt khéo léo của nàng và nhiều vị đã từng xuống
tận nơi để xem Arakhnê dệt.
[1] Arachné, tiếng Hy
Lạp: "Con nhện"
Song thói đời kẻ có tài
lại dễ mắc cái bệnh kiêu căng. Arakhnê mất tỉnh táo trước những lời khen ngợi,
quá say mê, nhấm nháp tán thưởng những công trình lao động của mình đến nỗi coi
rằng trên thế gian này ngoài Arakhnê ra thì không có người thứ hai nào dệt nổi
được những tấm vải, tấm lụa đẹp đẽ đến như thế. Có người nhắc nàng đừng quên
tài nghệ của nữ thần Atêna, vì một người trần không thể nào có tài sánh ngang
với các bậc thần linh được. Nhưng Arakhnê chẳng thèm để ý đến lời khuyên nhủ
chân thành ấy mà lại còn ăn nói sỗ sàng hơn:
- Thì ta thách cả nữ
thần Panlax tới đây thi tài dệt với ta đấy! Atêna cũng không thắng nổi Arakhnê
này đâu. Ta sẵn sàng thử tài một phen với nữ thần.
Những lời thách thức
ngạo mạn ấy không cánh mà bay đến tai nữ thầnz. Và bữa kia, một bà già đầu tóc
bạc phơ, lưng còng, chống gậy lần bước tới xứ Liđi tìm gặp Arakhnê. Cụ già nói
với nàng:
- Ta nghe nói con có ý
định thách thức nữ thần Atêna đua tài dệt với con. Con hãy từ bỏ ý định đó đi
vì dù sao đây cũng là lời khuyên bảo của một người nhiều tuổi hơn con. Năm
tháng trôi đi mang theo của ta sức khỏe và cũng để lại cho ta nhiều kinh nghiệm
bổ ích. Những người trần thế chẳng thể nào tài giỏi hơn các vị thần. Con hãy
đua tài với các bạn con nhưng đừng có thách thức các vị thần. Con phải dâng
ngay lễ vật cầu xin nữ thần Atêna tha thứ cho những lời nói phạm thượng của
con.
Nghe cụ già nói xong,
Arakhnê chẳng cần bình tâm suy nghĩ, nàng trả lời ngay bà cụ:
- Cụ già ơi! Đúng là
tuổi tác đã làm cho cụ trở thành lẩm cẩm mất rồi. Thôi cụ hãy trở về nhà và đem
những lời khuyên bảo ấy mà dạy cho con cháu của cụ. Còn ta, ta chẳng nghe cụ
đâu. Ta vẫn muốn thi tài với nữ thần Atêna một phen cho tỏ tường cao thấp. Lời
thách thức của ta chắc rằng đã đến tai nữ thần Atêna từ lâu, thế mà nàng vẫn
không đến. Hay nàng không dám thi tài với ta?
Arakhnê vừa nói dứt lời
thì bà cụ già thét lên một tiếng:
- Ta đây, nữ thần Atêna
con của Dớt đấng phụ vương đây! Hỡi Arakhnê, ta sẵn sàng chấp nhận cuộc thi tài
dệt với nàng!
Và phút chốc bà cụ già
lưng còng, tay chống gậy yếu đuối, run rẩy đã hiện lại nguyên hình là nữ thần
Atêna mắt sáng long lanh, đầu đội mũ trụ, tay cầm ngọn lao đồng uy nghi, lộng
lẫy, ánh sáng tỏa ra ngời ngợi.
Các thiếu nữ Liđi đứng
xung quanh đó thấy vậy vội đến trước nữ thần Atêna kính cẩn cúi chào. Chẳng mấy
chốc từ khắp nơi kéo đến đông nghịt những người. Ai ai cũng muốn được chiêm
ngưỡng vị nữ thần danh tiếng lẫy lừng con của Dớt. Riêng có Arakhnê vẫn giữ
nguyên thói kiêu căng, chẳng từ bỏ ý định thi tài mà lại tỏ ra bất kính. Nàng
không biết rằng nàng đang dấn thân vào cái chết. Còn nữ thần Atêna thì tỏ ra
không kìm nổi sự giận dữ. Khuôn mặt xinh đẹp của nữ thần ửng đỏ lên như nàng
Bình Minh Êôx mỗi sáng chắp đại cánh hồng từ dưới biển bay lên.
Cuộc thi bắt đầu. Nữ
thần Atêna dệt tấm khăn choàng cảnh vật đô thị Aten. Đây là ngọn đồi Acrôpôn
vươn cao lên trên những xóm làng. Theo từng bậc đá đi lên, những thiếu nữ Aten
đang nối gót nhau mang lễ vật đến dâng cúng các vị thần ở những đền thờ đẹp đẽ,
uy nghi. Nữ thần Atêna dệt cảnh cuộc tranh giành quyền cai quản vùng đồng bằng Attích
và đô thị Aten, giữa nữ thần và thần Pôdêiđông, vị thần cai quản mọi biển khơi
suối nguồn, sông nước. Các vị thần Ôlympia dưới quyền điều khiển của thần Dớt
tối cao ngồi xem cuộc tranh đua để giám định kết quả. Thần Pôdêiđông, vị thần
làm rung chuyển mặt đất, giáng cây đinh ba vào một tảng đá làm nước chảy vọt ra
tung tóe. Đến cảnh nữ thần Atêna phóng lao xuống lòng đất, những đường dệt mới
nổi bật lên đẹp đẽ làm sao! Cây ôlivơ từ lòng đất sâu, xanh thẳm mọc lên. Thần
Dớt tươi cười đưa tay ra chỉ vào cây ôlivơ, quyết định Atêna thắng cuộc. Xung
quanh tám khăn choàng nữ thần Atêna dệt những cành lá ôlivơ và cảnh những người
trần thế bị các vị thần trừng phạt vì tội kiêu căng, khinh thị thánh thần.
Arakhnê quyết không chịu thua kém nữ thần Atêna. Nàng dệt lên tấm thảm của mình
biết bao cảnh sinh hoạt của thế giới thần linh. Chỗ này là chiến công của các
vị thần Ôlympia đối với những tên Đại Khổng lồ, chỗ kia là cảnh yến tiệc tưng
bừng của các vị thần trên đỉnh Ôlympia trong tiếng đàn ca của Apôlông và các nàng
Muydơ. Arakhnê còn dệt nên biết bao cảnh các vị thần đắm đuối trong dục vọng ái
ân với người trần thế. Nàng cũng không quên dệt cả những cảnh ghen tuông và
những thú vui trần tục, những cơn giận dữ gớm ghê và những sự trừng phạt bất
công. Xung quanh chiếc thảm Arakhnê còn dệt những vòng dây leo quấn quít, uốn
lượn rất khéo léo.
Có thể nói tấm thảm của
Arakhnê dệt thật là hoàn mỹ và dù là một vị thần hoặc một người trần thế có đại
mắt tinh tế nhất cũng khó mà quyết định được rằng tấm thảm của Arakhnê thua kém
chiếc khăn của Atêna ở chỗ nào. Điều đó khiến nữ thần Atêna phật ý. Nhưng điều
làm nữ thần bất bình hơn hết là trên tấm thảm dệt khéo léo đó, Arakhnê đã miêu
tả thế giới thần linh với một thái độ bất kính. Arakhnê đã phơi bày tất cả
những thói xấu của các vị thần, những dục vọng trần tục của các vị mà trong
thâm tâm các vị không muốn ai hoặc cho phép ai nói đến. Những người trần thế
đoản mệnh phải biết tôn kính, phục tùng các vị thần, phải giữ đúng bổn phận
dâng cúng lễ vật đều đều và nhất nhất tuân theo những lời phán truyền của thế
giới thần linh. Và tốt hơn hết là ca ngợi. Như vậy là Arakhnê đã phạm tội bất
kính đến hai lần đối với thần thánh: dám đua tài với thần thánh và bôi nhọ thần
thánh.
Nữ thần Atêna không thể
chịu được một hành động vô đạo đến như vậy. Nàng xé tan ngay tấm thảm của
Arakhnê và cầm con thoi vụt, đánh túi bụi vào mặt Arakhnê, Arakhnê ôm đầu chạy.
Uất ức và đau đớn, nàng treo cổ tự tử. Nhưng Atêna đuổi theo và kịp thời gỡ
Arakhnê ra khỏi dây treo cổ. Nữ thần bằng một giọng đầy khiêu khích nói với
nàng:
- Hỡi cô gái ương
bướng, cô không chết được đâu! Cô sẽ phải sống mãi, sống đời đời để dệt tấm
thảm của cô. Và con cháu cô đời đời kiếp kiếp cũng sẽ phải dệt mãi, dệt mãi như
cô.
Nói rồi Arakhnê lấy một
thứ nước cỏ thần nhỏ vào người Arakhnê. Thế là toàn thân nàng co rúm lại, mớ
tóc dài óng chuốt, đẹp đẽ là thế bỗng nhiên rụng hết, nàng biến thành con nhện
với những cái chân dài nghêu ngao, lông lá. Và thế là cũng từ đó trở đi con
nhện Arakhnê cứ treo thân trên tấm thảm do mình dệt ra và cứ thế dệt mãi, dệt
mãi, dệt hết ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác kiếp kiếp đời đời
trên tấm thảm của mình.