Không bao giờ là thất bại, tất cả là thử thách - Phần I - II

Phần I: Con trai của một người nông dân(*)

(*) Trích từ
cuốn sách Không bao giờ là thất
bại, tất cả là thử thách - Lê Huy Khoa dịch. NXB Trẻ phát hành.

Con đường duy nhất: làm ruộng

TT - Tôi sinh năm 1915. Cha tôi là con cả trong
gia đình, kế ông là năm người em trai và một em gái. Ông nổi tiếng là một nông
dân cần cù chịu khó.

Ông tôi là thầy giáo
dạy học tại làng nhưng lại không biết làm ruộng, cũng chẳng biết cách để nuôi
sống gia đình, chính vì vậy cha tôi phải hoàn toàn gánh trách nhiệm chăm lo cho
sáu người em của mình.

Bao nhiêu người em là
bấy nhiêu lần cha tôi mua đất và dựng vợ gả chồng. Cuộc đời vất vả của cha tôi
có lẽ không nói hết thành lời. Còn mẹ tôi cũng chẳng nhàn hạ gì hơn cha. Ngày
đêm bà phải nuôi tằm, lo từng chiếc áo, thậm chí may cả đồ cưới cho mọi người
trong gia đình.

Tôi là con trưởng trong
gia đình có tám anh chị em, gồm sáu trai và hai gái. Cũng như cha tôi, tôi gánh
vác trách nhiệm lo lắng cho các em mình.

Tôi bắt đầu lao động từ
năm mười tuổi. Cha nói với tôi nếu tôi cũng muốn như ông, dựng vợ gả chồng cho
các em, mua đất xây nhà cho từng người thì phải làm việc thật chăm chỉ. Cho nên
ngay từ nhỏ, ngày nào cũng vậy, cứ đúng 4 giờ sáng là ông đánh thức tôi dậy và
dẫn ra đồng. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu
sách.]

Đến nơi thì mặt trời
cũng vừa ló dạng. Thế là tôi bắt đầu ngày làm ruộng vất vả ngoài đồng mà chẳng
lúc nào ngơi nghỉ. Tuy chỉ là cảm nhận của một đứa trẻ nhưng tôi cũng hiểu được
nghề nông chẳng mang lại bao nhiêu lợi ích so với công sức cực nhọc bỏ ra. Tôi
thở dài và tự hỏi chẳng lẽ cả đời mình sẽ sống cuộc sống thế này sao?

Cha tôi thì luôn nghĩ
sẽ nuôi tôi thành một anh nông dân giỏi. Và mặc cho ánh nắng như thiêu như đốt
của mặt trời, với cái mũ tre nhỏ trên đầu, cha đưa tôi ra đồng để bày cách cày
ruộng, vun đất cho từng khóm kê bằng tay không.

Mẹ tôi nuôi tằm, hết vụ
tằm xuân thì ra làm ruộng, rồi lại chuyển sang làm tằm mùa hè. Xung quanh nhà
chẳng có nhiều cây dâu, thế nên chúng tôi phải lên tận núi cao tìm kiếm mới hái
được lá dâu. Tôi cũng đã từng theo mẹ lên núi. Mẹ đội thúng lá trên đầu, còn
tôi cõng trên vai.

Tính cần cù của cha mẹ
là bài học quí giá trong cuộc đời tôi, là di sản đầu tiên để tôi trở thành con
người như ngày hôm nay.

Tìm tương lai với 47 chon làm lộ phí

Mười bốn tuổi, tôi tốt
nghiệp tiểu học. Điều đó có nghĩa là đã đến lúc tôi phải bắt đầu làm những công
việc nặng nhọc của nhà nông.

Một hôm tôi tình cờ đọc
thấy phần quảng cáo lớn trên nhật báo Đông Á rằng ở Chongjin, người ta mới
bắt đầu xây dựng nhà máy chế tạo thép và sân bay nên cần rất nhiều lao động.
Trống ngực tôi đập thình thịch. “Hãy đến Chongjin đi, dù đi đâu và làm gì cũng
có thể sẽ tốt hơn như thế này, cùng là chuột nhưng chuột ở nhà vệ sinh thì ăn
phân, còn chuột nhà kho thì ăn gạo.”

Người tôi rắn chắc,
tinh thần mạnh mẽ. Đây là việc mà tôi có thể làm được. Không có cách nào khác,
tôi phải trốn nhà đi mà không được cho ai hay biết.

Tôi giở bản đồ, tìm
thấy Chongjin. Tôi giả vờ vô tình hỏi người lớn, họ nói đường đến đó xa
lắm, nếu đi tàu biển thì mất bốn ngày, còn đi bộ mất khoảng nửa tháng. Tiền
không có một xu nên tôi quyết định đi bộ.

Vì cảm thấy bất an khi
lần đầu tiên mạo hiểm ra đất khách nên tôi rủ người bạn cùng học hồi lớp 3 tên
là Chu Ji Won, lớn hơn tôi ba tuổi, cùng đi và anh ta nhanh chóng đồng ý. Có
một người bạn đồng hành như có cả một đội quân, dũng khí của tôi tăng lên gấp
trăm lần. Vào một đêm oi bức tháng bảy, chờ tất cả mọi người trong nhà ngủ hết,
tôi ra đi.

Cả hai chúng tôi chẳng
có hành lý gì ngoài cái quần vải và chiếc áo khoác đang mặc trên người. Gom hết
tiền bạc của hai đứa lại thì được đúng 47 chon làm lộ phí. Đó là tiền dự phòng
của chúng tôi.

Hôm đó lại đúng vào
ngày cuối tháng âm lịch, không có trăng, trời tối như mực, hai chúng tôi đi như
chạy vì cứ cảm tưởng là sau lưng có ai đó đang đuổi theo mình. Chúng tôi quên
cả sợ, đi vào tận đường sâu trong núi. Trong đêm tối chúng tôi đi mà không hề
dừng lại nghỉ, vượt qua ngọn đèo, rạng sáng hôm sau thì tới Hiopkoc. Vậy là
chúng tôi đã đi được sáu mươi dặm.

Bây giờ thì không còn
sợ bị ai bắt lại nữa, chúng tôi đã tạm yên tâm. Nhưng chỉ với bát cơm khoai tây
hồi chiều qua, lại đi cả đêm, qua bao ngọn đồi, cơn đói bắt đầu đến với hai đứa
tôi.

Trước hết phải kiếm cái gì cho vào bụng.

Tôi và Chu Ji
Won vào làng, chọn một ngôi nhà trông có vẻ khá rồi đi tới. Chúng tôi bước vào
sân ngay lúc cả nhà đang ngồi ăn sáng. Trước tiên chúng tôi cúi đầu chào ông
chủ nhà và nói: “Chúng tôi là khách qua đường, vì hết tiền nên ghé vào đây xin
cơm ăn. Xin ông giúp chúng tôi ít cơm.” Ông chủ nhà khoảng năm mươi tuổi, trông
đạo mạo, cười tròn miệng hỏi lại: “Ấy, cái thằng này mà không có cái gì à?”

“Vâng, thật sự chúng
tôi hết tiền rồi.” - tôi trả lời một cách nài nỉ. Lời nói của tôi nghe xót xa
như tiếng nói của người sắp chết. Ông chủ nhà cười và nói: “Cái thằng này, phải
biết dè sẻn cho nó đừng hết chứ, hết tiền rồi thì bây giờ còn làm cái gì được.”

Thà chịu đói chứ không
thể đứng đó chịu đựng xấu hổ thêm được nữa, chúng tôi bỏ đi như chạy trốn khỏi
ngôi nhà ấy.

Cơn đói

Chúng tôi tìm đến địa
chỉ của người bạn cũ Chon Un Hak không khó khăn lắm. Cứ ngỡ nó sẽ vui mừng khi
chúng tôi đến, nào ngờ Un Hak giơ tay ra xua như muốn đuổi chúng tôi. Cậu ta
nói rằng nếu ông chủ biết được sẽ la mắng, vì thế chúng tôi không được đứng
gần. Un Hak hẹn gặp chúng tôi ở cây cầu gần đó khoảng 8 giờ tối, sau khi cửa
hàng đóng cửa.

Khoảng hơn 8 giờ, chúng
tôi gặp Un Hak trên cầu. Tôi cứ tưởng ít ra nó cũng hỏi chúng tôi đã ăn tối
chưa, thế thì tốt biết mấy.

Nhưng Un Hak không hỏi
điều đó, cũng không mời đi ăn mà rủ chúng tôi đi ngắm thành phố. Trong đôi mắt
của thiếu niên nông thôn như chúng tôi, đêm nội thành Wonsan thật là
lộng lẫy, tất cả mọi thứ đều vĩ đại. Tuy nhiên, cơn đói cồn cào khiến chúng tôi
không thể nghĩ được điều gì khác hơn ngoài cái bụng trống rỗng của mình. Tôi
băn khoăn không biết là nên rủ Un Hak đi ăn cơm hay nói hắn đãi một bữa.

Nhưng mãi mà người bạn
chúng tôi tưởng sẽ giúp mình có cơm ăn và chỗ ngủ miễn phí chẳng tỏ vẻ gì là
muốn chúng tôi dùng bữa tối cả. Có lẽ nó cũng không đủ tiền. Tiền để dành còn
lại 42 chon, chúng tôi không thể lãng phí dùng để ăn cơm vì giờ đây còn có thêm
Un Hak. Còn chỗ ngủ cũng thật khó xử, Un Hak chỉ cho chúng tôi một chỗ bên cạnh
nhà kho văn phòng thuế.

Bụng đói, muỗi đốt, ba
chúng tôi vẫn nói đủ thứ chuyện. Đột nhiên chúng tôi thấy một đứa bé đang đứng
trước mặt một bà bán dưa xin tiền. Có lẽ đứa bé đã nài nỉ quá lâu khiến bà bán
dưa nổi giận, thình lình bà ta đánh mạnh vào tay đứa bé, hai quả dưa rơi xuống
đất, vỡ ra. Tôi nuốt nước bọt ừng ực. Nếu biết không phải trả tiền thì chắc là
tôi đã chạy ra nhặt lấy quả dưa vỡ còn nhanh hơn cả đứa bé ăn xin kia. Việc đó
xảy ra đã hơn sáu mươi năm, vậy mà tôi vẫn nhớ như in cái bến đò đêm ấy, cảnh
đêm hôm ấy và cái đói ấy.

Tôi và Ji Won đã rời
khỏi nhà và đi gần hai mươi tư tiếng đồng hồ mà không nghỉ. Sức lực kiệt quệ,
cơ thể nặng nề và mệt lả, chúng tôi ngủ thiếp đi giữa những đàn muỗi to như én
vây quanh. Đang ngủ say như chết chợt chúng tôi thấy có ai đá giày vào mông
mình. Thì ra đó là mấy ông cảnh sát đi tuần, họ hỏi chúng tôi là ai rồi đưa về
đồn cảnh sát. Chúng tôi thành thật trả lời những câu hỏi của những viên cảnh
sát, rồi tôi quay sang nói với họ rằng: “Ông ơi, ông xin việc giúp tụi cháu
đi.”

Không biết vì mệt mỏi
do chúng tôi nài nỉ nhờ xin việc hay thấy chúng tôi chẳng có gì mà điều tra nên
họ đã thả bọn tôi ra. Un Hak trở về cửa hàng, còn tôi và Chu Ji Won lại thẳng
hướng Chongjin đi tiếp.

Đói khát và tủi nhục cũng không làm Chung Ju Yung
nhụt chí. Nhưng để mơ được giấc mơ về tương lai, dù là để được bán sức lao động
lấy những đồng tiền ít ỏi, cậu còn phải đi qua rất nhiều cay đắng...

_________________

Phần II: Cái tát của người lái đò

Đồng tiền khó nhọc

TT - Đường đến Chongjin phải đi qua
Munshon và Gowon.

Khi đó tại Gowon, công
trình xây dựng đường xe lửa từ Bình Nhưỡng tới Gowon vừa khởi công nên cần rất
nhiều lao động. Tôi và Ji Won bàn bạc với nhau, cả hai nhất trí sẽ ở đây làm
việc rồi dành dụm tiền đi Chongjin.

Việc của chúng tôi là
xúc đất đầy lên mấy cái xe goòng, đưa lên đường ray rồi đẩy tới một nơi khá xa,
đổ vào những chỗ thấp. Đưa cái xe đầy đất lên đường ray không phải là việc có
thể sử dụng sức bình thường mà làm được. Nó là việc nặng nhọc nhất trong những
công việc lao động nặng. Và công việc cực nhọc đến thở tóe khói ra mũi này chỉ
mang đến cho chúng tôi 45 chon mỗi ngày, nhưng đó là món tiền lớn ngoài sức
tưởng tượng của chúng tôi.

Mỗi ngày tôi phải mất
30 chon tiền ăn và tiền nhà, tính ra chỉ còn 15 chon, như vậy một tháng gom
được 4 won và 15 chon. Ngày nào cũng vậy, chúng tôi thức dậy sớm, ăn cơm rồi đi
làm tới tối mịt mới về, mỗi ngày làm cả mười lăm đến mười sáu tiếng đồng hồ, ăn
cơm tối xong thì mệt rã rời và lao vào ngủ. Tuy nhiên tôi với Chu Ji Won
vẫn làm việc chăm chỉ vì tự hào rằng mình đang sống bằng chính sức của mình.

Bỗng một hôm gần Tết Trung
thu, đã hai tháng kể từ khi tôi bỏ nhà ra đi, tôi được báo là có khách đến tìm
trong lúc đang làm việc, chạy ra tới nơi thì thấy cha tôi đang đứng đó. Mắt tôi
nhòa đi. Thời ấy có tàu hỏa từ Songchon đến Gowon, nhưng cha tôi muốn tiết kiệm
tiền nên đã đi bộ ròng rã hai ngày qua ba trăm dặm để đến đây.

“Con là con trưởng của
dòng họ nhà ta. Dù có bao nhiêu anh em thì con trưởng cũng là trụ cột trong gia
đình. Thiếu trụ cột đó thì tất cả mọi người còn lại trong nhà đều sụp đổ. Có
chuyện gì đi nữa thì con cũng phải có trách nhiệm giữ gìn quê hương với tư cách
là một người nông dân đúng nghĩa. Mấy đứa em của con có bỏ nhà ra đi thì cha
cũng không đi tìm như thế này đâu.” - cha nói.

Tôi xin cha cho tôi
tiếp tục ở lại Gowon nhưng cha không đồng ý. Tôi và Ji Won đành phải cuốn gói
theo cha.

Chúng tôi cũng lại đi
bộ ba trăm dặm mà về.

Bỏ nhà lần thứ hai

Tôi bị cha bắt về quê,
lại miệt mài với công việc nhà nông ngày nào. Nhưng với tôi, đã một lần ra ngắm
nghía thế giới bên ngoài thì lúc nào cũng ám ảnh cái suy nghĩ rằng dù có làm
việc đến mòn ngón tay cũng không tránh khỏi cảnh ăn cháo vỏ đậu và sẽ lãng phí
cuộc đời.

Lần này chúng tôi dự
định đến Seoul. Nhưng mùa đông năm ấy quê tôi tuyết rơi nhiều quá. Vì thế
chúng tôi quyết định đến mùa xuân mới đi, trong thời gian đó thì gom thêm tiền
lộ phí. Nếu có cách nào để dành dụm những đồng tiền khó nhọc mà làm quần quật
cũng không kiếm được, thì đó chính là chặt củi rồi đem ra chợ bán, mỗi ngày bớt
lại 2,5 hay 3, 4 chon.

Trước khi lên đường
chúng tôi gom tiền lại, mỗi đứa đều gom được khoảng ba mươi mấy chon. Để khỏi
bị gia đình đuổi theo, chúng tôi rời làng vào ban đêm khi mọi người đã ngủ say.

Xuống vùng đồng bằng,
tuyết đang tan dần, chúng tôi dừng chân ngồi nghỉ. Đối diện hai đứa tôi là một
người đàn ông ăn mặc tươm tất, độ năm mươi tuổi, đến gần chúng tôi và ngồi
phịch xuống.

- Chúng mày đi đâu đấy?
- Ông ta hỏi.

- Chúng cháu
lên Seoul, vừa kiếm tiền, vừa học.

- Có người thân
trên Seoul không?

- Dạ chẳng có ai cả,
tụi cháu tìm việc rồi kiếm tiền.

Ông ta khịt mũi:

- Đừng có mà nói giọng
của người không biết gì về nơi đó, Seoul đầy người không có việc làm,
ai dùng mấy thằng ngốc quần vải áo bông như chúng mày. Lên đó chỉ có mà chết
đói.

Người đàn ông tiếp tục:

- Đã bỏ nhà đi kiếm
tiền thì chẳng việc gì phải lên Seoul cho khổ, theo tao vào núi Tanbal đi.

Ông ta cho biết mình là
một đầu bếp có tên tuổi tại Seoul. Vào mùa xuân, một khách sạn lớn ở núi
Tanbal có đông khách nên mời ông về, nếu chúng tôi đi theo ông ta thì xin việc
chẳng khó khăn gì. Nghe thế chúng tôi mừng húm. Trước khi đứng dậy, ông ta hỏi
tôi và Cho On Ku có bao nhiêu tiền.

- Hai chúng tôi có 76
chon. - chúng tôi đáp.

- 76 chon, vậy là được.

Chúng tôi đã tin ông ta
như tin vào sắt đá. Chúng tôi đã trả hết tiền cơm, tiền nhà trọ cho ông ta. Từ
nhà trọ Changansa, ông ta dẫn chúng tôi đến nhà trọ Kyongson nhỏ xíu rồi nói là
ông ta phải đến khách sạn nghỉ. Tò mò muốn biết khách sạn nơi người đàn ông này
làm việc ra sao nên tôi và Cho On Ku bám theo ông ta. Khách sạn Dân Quốc quả là
to lớn và lộng lẫy. Sau đó chúng tôi quay về nhà trọ Kyongson.

Hai ngày rồi bốn ngày
trôi qua không thấy tăm hơi ông ta đâu cả. Bà chủ nhà trọ thì suốt ngày đốc
thúc trả tiền trọ. Không thể chờ lâu hơn được nữa, chúng tôi tìm đến khách sạn
Dân Quốc. Từ nhà bếp bước ra, vừa trông thấy chúng tôi mặt ông ta thất sắc,
liền quay lưng và la mắng, giục chúng tôi đi cho nhanh kẻo chủ khách sạn thấy.

Lúc đó chúng tôi mới
hay mình bị lừa. Chúng tôi chán nản bước về nhà trọ, bà chủ nhà không cho ăn
cơm tối và ráo riết đòi tiền nhà. Khi chúng tôi trả lời không còn một đồng chon
nào, bà chủ nhà lập tức nhảy cẫng lên: “Thật là xui xẻo gặp phải mấy thằng khốn
như tụi mày.”. Sau đó bà bảo gần đấy có ruộng sâm, ra đó kiếm việc làm rồi trả
tiền nhà trọ. Nghe thế chúng tôi mừng rỡ nhanh chân chạy ra ruộng sâm. Nhưng
tiền công làm ruộng mỗi ngày chỉ được 40 chon. Tiền nhà trọ mỗi ngày 40 chon,
làm sao trả nợ, những ngày mưa không làm được thì lấy gì mà sống?

Tôi quay trở về nhà
trọ. Bà chủ nhà vô cùng bực tức, la mắng và đuổi hai đứa chúng tôi ra đường
không hề thương xót. Ở ngọn núi Tanbal không nơi nương tựa, cũng không một xu
dính túi, chúng tôi giờ đây như đôi giày cũ mà người ta vứt đi khi không còn
dùng nữa.

Cái tát của người lái đò

Đi Seoul thì phải qua
xã Tumok, huyện Kimhwa, nơi người em của ông nội tôi đang sinh sống. Khi còn
chừng mười dặm nữa thì đến xã Tumok, bất ngờ chúng tôi gặp phải một khó khăn
không hề lường tới là phải đi đò để vượt qua con sông mới đi tiếp được. Tôi và
Cho On Ku đứng nhìn nhau, chẳng biết kiếm đâu ra tiền để đi đò bây giờ. “Chúng
ta thử trình bày hoàn cảnh với người lái đò xem sao.” - Cho On Ku nói. “Không
được đâu, đi theo tao nhưng đừng nói năng gì.” Tôi nắm lấy tay Cho On Ku kéo ra bến đò.

Người lái đò độ năm
mươi tuổi, đang đứng đợi khách. Tôi đi trước Cho On Ku, dáng vẻ tự tin và đàng
hoàng, đĩnh đạc bước lên đò. Tục ngữ có câu “Kẻ không có tiền lên đò trước”,
trường hợp của chúng tôi hiện giờ chứng minh cho câu tục ngữ đó.

Khách lên đò chỉ chừng
bốn, năm người. Chúng tôi ngồi lên thành đò một cách thoải mái, mắt nhìn xuống
dòng nước trôi thong thả mà bụng thì cứ phấp phỏng không yên. Người lái đò sẽ
thu tiền khi đò cập bến bên kia. Đò vừa chạm vào bến, ông lái đò dừng tay chèo
và đưa bàn tay thô kệch về phía chúng tôi.

Tôi làm vẻ mặt xấu hổ,
cúi đầu.

- Xin lỗi ông, chúng cháu
chẳng có xu nào cả.

- Cái gì, mấy thằng oắt
con này, không có tiền sao lên đò?

Cùng với tiếng quát của
ông là cái bạt tai, mắt tôi nảy đom đóm, tôi nhảy vụt lên bờ. Cho On Ku cũng bị
tát nhưng rồi cậu ta nhảy thoát theo tôi. “Một cái tát tai trả tiền đò cũng
rẻ”.

Ông trẻ sống ở xã Tumok
và ông nội tôi tuy là hai anh em ruột, nhưng vì khoảng cách quá xa nên có khi
mấy năm mới gặp nhau một lần. Do đó, sự xuất hiện của tôi, đứa cháu đích tôn,
làm cho cả nhà mừng rỡ, họ nấu cơm đậu đỏ đãi tôi như đế vương.

Chúng tôi chẳng hay
biết gì cho đến tối hôm đó, ông trẻ và thím tôi gọi tôi vào phòng. Họ cho biết
cha tôi đã đến đây tìm tôi và vừa về sáng hôm qua. Cha tôi dặn nếu tôi có ghé
vào đây thì dù bất cứ lý do gì cũng phải đưa tôi về nhà bằng được.

Tôi vẫn nằng nặc đòi
đi Seoul, ông trẻ nói: “Ông đã hứa với cha cháu rồi nên không thể để cháu
đi Seoul được”. Còn thím tôi thì bảo: “Đã mấy năm rồi thím chưa về quê nên
cũng muốn về, cháu cứ nghỉ ở đây hai ba hôm rồi cùng về với thím.”. Đến đây thì
chuyến rời quê hương thứ hai của tôi sau mười ngày lại thất bại, tôi cùng với
Cho On Ku buộc phải trở về.

Chung Ju Yung còn bỏ nhà ra đi thêm một lần nữa,
trộm cả tiền bán bê, bán bò của cha và chú mà đi, lấy đó làm học phí vào trường
kế toán Seoul. Cả lần này người cha nông dân cũng lại đưa được cậu con trai trở
về con đường làm ruộng. Đói khát không làm cậu chùn bước, nhưng nước mắt của
người cha nghiêm khắc đã làm cậu mềm lòng…

Rồi một ngày, một con ếch xanh đã đốt lên trong
Chung Ju Yung một ngọn lửa. Cậu trốn nhà lần thứ tư…

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3