Cái Chết Huy Hoàng - Chương 15 - Phần 2
Whitney bước đi trong yên lặng. “Cô ổn chứ?”
“Tôi từng đối mặt với điều tồi tệ hơn,” Eve nhếch vai. Trong cô chán chường vì tức giận và cảm giác tội lỗi. Chán chường đến mức cô muốn ở một mình đằng sau cánh cửa khép kín. “Xin lỗi Chỉ huy, nếu được, tôi muốn hoàn thành báo cáo này.”
“Dallas, Eve.” Chính sự mệt mỏi trong giọng nói của ông khiến cô thận trọng ngước lên. “Mirina đang thất vọng, có thể hiểu như vậy. Nhưng nó không biết tôn trọng chút nào cả, không biết tôn trọng.”
“Cô ấy phần nào có quyền chỉ trích tôi.” Vì rất muốn ấn mạnh bàn tay vào cái đầu đang đau nhói, cô lơ đễnh thọc tay vào túi. “Tôi vừa đưa những người còn lại của gia đình cô ấy vào nhà giam. Còn ai khác cô ấy có thể trút tức giận lên? Tôi có thể nhận trách nhiệm.” Ánh mắt cô vẫn lạnh lùng. “Cảm xúc không phải điểm mạnh của tôi.”
Ông ta gật đầu chậm rãi. “Tôi hiểu điều đó. Tôi để cô tham gia vụ này, Dallas, bởi vì cô là người tốt nhất tôi có. Lý trí cô sáng suốt, linh cảm cô tốt. Và cô quan tâm. Cô quan tâm đến nạn nhân.” Thở ra một tiếng thật dài, ông lấy tay vuốt tóc. “Sáng nay, lúc ở trong văn phòng, tôi đã sai, Dallas. Đã nhiều lần tôi xử sự không đúng với cô kể từ khi toàn bộ chuyện rối rắm này bắt đầu. Tôi xin lỗi về việc đó.”
“Không sao.”
“Tôi ước là không sao.” Ông dò xét khuôn mặt cô, nhận thấy sự kiềm chế cứng nhắc. “Nhưng tôi thấy là có. Tôi sẽ để ý đến Mirina, dàn xếp các cuộc viếng thăm.”
“Vâng, thưa Chỉ huy. Tôi muốn tiếp tục thẩm vấn Marco Angelini.”
“Ngày mai,” Whitney nói và khó chịu khi cô không giấu được vẻ chế nhạo. “Cô mệt rồi, Trung úy, cảnh sát mà mệt mỏi là dễ mắc sai lầm và bỏ qua các chi tiết. Để ngày mai hãy thẩm vấn.” Ông tiến ra cửa, lại chửi thề, và dừng bước mà không nhìn lại cô. “Ngủ một chút đi, và vì Chúa, hãy dùng thuốc giảm đau để trị cơn đau đầu. Trông cô tệ quá.”
Cô kìm nén, không đóng sầm cửa lại sau lưng ông. Kìm nén bởi như thế thật nhỏ nhặt và không chuyên nghiệp. Nhưng cô ngồi xuống, nhìn lên màn hình vờ như đầu mình không run lẩy bẩy vì đau đớn.
Khi bóng người đổ lên bàn một lúc sau đó, cô ngước lên, mắt nảy lửa để chiến đấu.
“À,” Roarke nói dịu dàng và rướn người hôn đôi môi càu nhàu của cô. “Đấy không hẳn là chào đón.” Anh vỗ nhẹ vào ngực. “Anh có chảy máu không?”
“Ha ha.”
“Đấy là sự hóm hỉnh sinh động mà anh đã nhớ.” Anh ngồi lên thành bàn, nơi anh có thể nhìn cô và liếc qua dữ liệu trên màn hình để xem đấy có phải là nguyên nhân gây ra sự tức giận đau đớn trong mắt cô không. “Trung úy, ngày hôm nay thế nào?”
“Để xem nào. Em cho con trai đỡ đầu yêu quý của cấp trên vào phòng giam vì cản trở công lý và một số cáo buộc khác, và tìm ra thứ có lẽ là vũ khí giết người trong ngăn bàn hắn ta, nhận được lời thú tội từ cha của kẻ tình nghi chính, ông này nhận đã giết người, và vừa bị cô chị gái của hắn ném vào mặt mấy lời xỉ vả, người đã cho rằng em là con điếm truyền thông.” Cô cố mỉm cười. “Ngoài những chuyện đó ra, mọi thứ khá yên bình. Còn anh?”
“Được tiền, mất tiền,” anh nói nhẹ nhàng, lo lắng cho cô. “Không có gì hấp dẫn như công việc cảnh sát.”
“Em không biết tối nay anh về.”
“Anh cũng không biết. Việc xây dựng ở khu nghỉ dưỡng khá suôn sẻ. Anh có thể ở đây xử lý công việc.”
Cô cố không tỏ ra nhẹ nhõm. Điều khiến cô khó chịu là trong vỏn vẹn vài tháng cô đã quen với việc có anh bên cạnh. Thậm chí lệ thuộc vào điều đó. “Tốt quá.”
“Ừm.” Anh hiểu rõ cô. “Vụ án có gì không?”
“Báo chí nói hết rồi. Cứ chọn một kênh.”
“Anh muốn nghe em nói.”
Cô cập nhật cho anh hầu như theo cách cô làm báo cáo: những lời lẽ ngắn gọn, hiệu quả, nhấn mạnh vào sự kiện, tránh nhận xét cá nhân. Và, cô nhận ra, cô cảm thấy dễ chịu hơn sau đấy. Roarke có cách lắng nghe khiến cô hiểu rõ mình hơn.
“Em tin đó là Angelini con.”
“Bọn em có phương tiện và cơ hội, và khá rõ động cơ. Nếu con dao trùng khớp... Mà dù gì, ngày mai em phải gặp bác sĩ Mira để bàn về việc kiểm tra tâm lý anh ta.”
“Còn Marco,” Roarke nói tiếp. “Em nghĩ sao về lời thú tội của ông ta?”
“Đó là cách khá hiệu quả để làm rối tung mọi thứ, cản trở việc điều tra. Ông ta là người thông minh, ông ta sẽ tìm ra cách làm rò rỉ thông tin cho báo chí.” Cô nhìn vào vai Roarke. “Nó sẽ làm xáo trộn mọi việc hồi lâu, khiến bọn em tốn chút thời gian và rắc rối. Nhưng bọn em sẽ giải quyết ổn thỏa.”
“Em nghĩ ông ta thú tội giết người để làm phức tạp chuyện điều tra?”
“Đúng vậy.” Cô ngước nhìn anh, nhíu mày. “Anh có giả thiết khác.”
“Đứa con đang chết chìm,” Roarke nói. “Người cha tin con trai ông ta bị chìm ở lần thứ ba, nên nhảy xuống dòng sông. Tính mạng của ông ta thay thế cho đứa con trai. Tình yêu, Eve.” Anh nắm cằm cô. “Tình yêu không có giới hạn. Marco tin con trai ông ta có tội, và ông bố muốn hy sinh bản thân thay vì chứng kiến đứa con trai phải trả giá.”
“Nếu ông ta biết, hoặc thậm chí tin, rằng David giết những phụ nữ kia, thì việc bảo vệ anh ta thật là điên rồ.”
“Không, chỉ có thể là tình yêu thôi. Có lẽ không điều gì mạnh mẽ hơn tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Em và anh không được trải nghiệm điều đó, nhưng nó tồn tại.”
Cô lắc đầu. “Thậm chí khi đứa con mắc khiếm khuyết?”
“Có lẽ thế càng đặc biệt. Lúc anh còn nhỏ, ở Dublin, một phụ nữ có đứa con gái bị mất một cánh tay vì tai nạn. Bà ta không có tiền để thay cánh tay khác. Bà ta có năm đứa con, và yêu tất cả như nhau. Nhưng bốn đứa kia đều lành lặn, chỉ có đứa con gái ấy bị tàn tật. Bà ta xây dựng rào chắn xung quanh đứa con gái, để bảo vệ nó khỏi những ánh nhìn và lời xì xào thương hại. Với đứa con tàn tật, bà ta dành tình yêu thương hơn cả. Những đứa con khác không cần bà ta nhiều, em thấy đấy, như đứa con mang nhiều khiếm khuyết.”
“Có sự khác nhau giữa khiếm khuyết thể chất và khiếm khuyết tâm thần,” Eve phản bác.
“Anh không biết, đối với người làm cha mẹ, họ có phân biệt sự khác nhau đó không.”
“Cho dù động cơ của Marco Angelini là gì, bọn em cũng sẽ tìm ra sự thật.”
“Chắc chắn em sẽ làm được. Bao giờ em hết ca?”
“Sao?”
“Ca làm việc,” anh nhắc lại. “Bao giờ hết?”
Cô liếc nhìn màn hình, xem thời gian ở góc bên dưới. “Cách đây khoảng một tiếng.”
“Tốt lắm.” Anh đứng dậy và đưa tay ra. “Đi với anh.”
“Roarke, có mấy việc em phải làm ở đây. Em muốn xem lại nội dung thẩm vấn Marco Angelini. Có thể em sẽ tìm ra lỗ hổng.”
Anh kiên nhẫn bởi vì anh chắc chắn sẽ đạt được ý mình. “Eve, em quá mệt mỏi, nên cái lỗ hổng rộng hàng trăm mét em cũng chẳng thấy được đâu chừng nào em chưa bị rơi vào trong đó.” Kiên quyết, anh nắm tay cô và kéo cô đứng lên. “Đi với anh nào.”
“Được rồi, có lẽ em nên nghỉ ngơi.” Cô tỏ chút càu nhàu, ra lệnh tắt máy tính và khóa cửa. “Em sẽ phải thúc đít mấy tay kỹ thuật ở phòng xét nghiệm. Bọn họ định giữ mãi con dao.” Bàn tay cô thoải mái trong tay anh. Cô không còn lo lắng về lời chọc ghẹo của những cảnh sát khác, những người có thể sẽ trông thấy họ trong hành lang hoặc thang máy. “Chúng ta đi đâu đây?”
Anh nâng tay cô đưa lên môi mình và mỉm cười. “Anh chưa quyết định.”
Anh muốn đến Mexico. Đó là một chuyến bay nhanh chóng, thuận lợi và ngôi biệt thự của anh ở bờ biển dậy sóng phía Tây luôn sẵn sàng. Không như ngôi nhà của anh ở New York, anh để nó ở chế độ hoàn toàn tự động, chỉ cần người giúp việc khi có ý định ở lại dài ngày.
Trong suy nghĩ của Roarke, người máy và máy tính tuy tiện lợi nhưng vô cảm. Tuy nhiên, để phục vụ chuyến đi này, anh hài lòng dựa vào chúng. Anh muốn Eve được yên ả, anh muốn cô thư giãn, và anh muốn cô hạnh phúc.
“Lạy Chúa, Roarke.”
Cô trợn tròn mắt nhìn về tòa nhà nhiều tầng cao ngất, bên mép một vách đá. Nó giống như phần nhô ra của vách đá, như thể một bức tường hoàn toàn bằng thủy tinh đã được mài nhẵn từ vách đá ấy. Những khu vườn trải ra trên các sân thượng với nhiều màu sắc rực rỡ, hình khối và hương hoa.
Phía trên, bầu trời cao thẳm không có một luồng giao thông. Chỉ màu xanh, những đám mây cuộn bay, những cánh chim hối hả. Trông như một thế giới khác.
Trên máy bay, cô đã ngủ như một hòn đá, chỉ tỉnh giấc khi phi công thực hiện cú tiếp đất đầy kiểu cọ đặt họ gọn gàng xuống chân một trong những bậc đá ngoằn ngoèo chạy lên tận mỏm đá. Cô chệnh choạng đưa tay lên để biết chắc rằng anh không đeo mắt kính thực tại ảo cho cô trong khi cô ngủ.
“Chúng ta ở đâu đây?”
“Mexico,” anh nói gọn.
“Mexico?” Cô kinh ngạc, cố dụi mắt xóa đi cơn buồn ngủ và sự choáng váng trong mắt. Roarke nghĩ, đầy xúc động, rằng cô trông như đứa trẻ nũng nịu thức dậy sau một hồi chợp mắt. “Nhưng em không thể ở Mexico được. Em phải...”
“Đi xe hay đi bộ?” Anh hỏi, kéo cô theo như một chú cún khó bảo.
“Em phải...”
“Đi xe,” anh quyết định. “Em vẫn còn chệnh choạng lắm.”
Cô có thể thưởng thức các bậc đá sau, anh nghĩ, cả ngắm nhìn biển cả và mỏm đá nữa. Thay vì thế, anh đẩy cô vào chiếc xe bay nhỏ bóng loáng, cầm lấy điều khiển và phóng thẳng lên với một tốc độ có thể đẩy tung cơn buồn ngủ ra khỏi người cô.
“Chúa ơi, đừng nhanh quá.” Bản năng sinh tồn khiến cô chộp tay lên thành xe, cau mặt khi những tảng đá, bông hoa và làn nước rít qua. Anh cười rộ lên khi cho chiếc xe nhỏ vào trong sân trước.
“Tỉnh chưa em yêu?”
Cô lấy lại hơi. “Em sẽ giết anh ngay khi biết lục phủ ngũ tạng của em không sao. Chúng ta đang làm quái gì ở Mexico?”
“Nghỉ ngơi. Anh cần nghỉ ngơi.” Anh bước ra khỏi xe và vòng sang cửa bên cô. “Chắc chắn em cũng vậy.” Vì cô vẫn giữ tay vào thành xe, khớp tay bám chặt, anh bước đến, nhấc cô lên, bế cô qua tảng đá có hình dạng kỳ lạ đi về phía cửa.
“Thả em xuống. Em đi được.”
“Đừng phàn nàn.” Anh quay đầu, tìm thấy môi cô như bao lần, hôn thật sâu cho đến khi tay cô thôi đẩy vào vai anh và bắt đầu vuốt nhẹ.
“Khỉ thật,” cô lầm bầm. “Sao anh cứ làm thế với em?”
“May mắn thôi, chắc thế. Roarke, mở cổng,” anh nói, và những thanh chắn bắt ngang cửa trượt mở. Đằng sau chúng, những cánh cửa kính chạm trổ khắc axit bật mở và đẩy vào trong chào đón. Anh bước vào. “Đóng lại,” anh ra lệnh, cánh cửa liền đóng lại tức thì trong khi Eve ngó chằm chằm.
Một bên tường của lối vào được làm bằng kính, xuyên qua nó cô có thể thấy biển cả. Cô chưa bao giờ nhìn thấy Thái Bình Dương, và tự hỏi sao nó lại có cái tên thanh bình thế khi mà trông nó thật sống động và sẵn sàng sục sôi.
Lúc ấy vừa đúng buổi hoàng hôn, và trong khi cô ngắm nhìn, không nói nên lời, bầu trời bừng lên rồi mờ dần với những tia và luồng màu sắc hoang dại. Và quả cầu đỏ rực theo lệ dần dần chìm xuống làn nước xanh.
“Em sẽ thích nơi này,” anh thì thầm.
Cô choáng ngợp trước vẻ đẹp của buổi ngày tàn. Dường như thiên nhiên đã lắng lại, đã níu giữ hình ảnh này, để chờ cô. “Đẹp quá. Em không thể ở lại được.”
“Mấy tiếng thôi.” Anh hôn vào thái dương cô. “Chỉ qua đêm nay thôi mà. Chúng mình sẽ trở lại đây nghỉ mấy ngày khi có nhiều thời gian hơn.”
Vẫn bế cô, anh bước lại gần bức tường kính hơn cho đến khi dường như với Eve toàn bộ thế gian được cấu tạo bởi sắc màu rực rỡ và những hình thù chuyển động.
“Anh yêu em, Eve.”
Cô rời mắt khỏi mặt trời, đại dương, mà nhìn vào mắt anh. Thật tuyệt diệu, và trong giây phút ấy, thật giản dị. “Em nhớ anh.” Cô áp má vào má anh và ôm chặt lấy anh. “Em nhớ anh quá. Em đã mặc áo của anh.”
Giờ cô có thể mỉm cười chế giễu bản thân vì anh đã ở đây. Cô có thể ngửi thấy anh, chạm vào anh. “Em tới tủ đồ của anh và trộm một chiếc sơ mi - chiếc áo tơ tằm màu đen mà anh có hàng tá ấy. Em mặc vào, rồi lẻn ra khỏi nhà như một tên trộm nên Summerset không thể tóm được em.”
Xúc động một cách khó hiểu, anh dũi vào cổ cô. “Đêm nay anh sẽ tắt hết điện thoại của em, như vậy anh mới có thể ngắm nhìn em, nghe em nói.”
“Thật sao?” Cô khúc khích, một âm thanh hiếm hoi ở cô. “Lạy Chúa, Roarke, chúng ta thật ngốc nghếch.”
“Hãy xem đây là bí mật nhỏ của chúng ta.”
“Đồng ý.” Cô ngả người ra để nhìn vào mặt anh. “Em phải hỏi anh một điều, thật xấu tính, nhưng em phải hỏi.”
“Điều gì?”
“Đã bao giờ…” Cô nhăn mặt, ước mình có thể ngăn cái thôi thúc muốn hỏi ấy. “Trước đây, đã có ai...”
“Không.” Anh hôn lên lông mày, lên mũi, lên cằm cô. “Chưa bao giờ, không có ai cả.”
“Cả em cũng vậy.” Cô hít hơi thở của anh. “Đặt tay lên em. Em muốn tay anh để trên người em.”
“Anh có thể làm thế.”
Anh làm và cùng cô đổ người xuống những tấm nệm trải rộng trên sàn nhà trong khi mặt trời đỏ rực chìm xuống đại dương.