Đừng nói một ai - Chương 05 + 06
5
Tôi nhìn không chớp mắt vào màn hình máy tính.
Tôi không
cử động nổi. Những giác quan bị quá tải quá mức. Mọi bộ phận cơ thể tê liệt.
Không thể
như thế được. Tôi biết mà. Elizabeth không bị rơi khỏi thuyền buồm rồi được giả
định là đã chết đuối, thi thể nàng không bao giờ được tìm thấy. Nàng đã không
bị thiêu đến nỗi không nhận dạng được hay đại loại thế. Thi thể nàng được tìm
thấy trong một cái rãnh dưới Đường 80. Bị biến dạng, có thể là thế, nhưng nàng
đã được nhận dạng một cách chắc chắn.
Không
phải mày nhận dạng...
Có thể
không phải, nhưng thi thể nàng đã được hai thành viên thân thiết trong gia đình
nhận dạng: cha và chú nàng. Thật ra thì, Hoyt Parker, bố vợ tôi, chính là người
nói với tôi Elizabeth đã chết. Ông cùng em trai, Ken, đến phòng bệnh không lâu
sau khi tôi hồi phục ý thức. Hoyt và Ken đều to lớn, mặt lạnh như đá, tóc hoa
râm, một người là cảnh sát thành phố New York, người kia là đặc vụ liên bang,
cả hai là cựu chiến binh với cơ bắp to lớn, rắn chắc cuồn cuộn.
Họ cởi mũ
ra và gắng nói với tôi bằng giọng thấu cảm của các chuyên gia, nhưng tôi đã
không tin và họ cũng không cố gắng thuyết phục.
Vậy, tôi
vừa mới nhìn thấy cái gì thế?
Trên màn
hình, dòng người đi bộ vẫn trào ra. Tôi cố nhìn thêm, mong ngóng nàng sẽ quay
lại. Không được. Dù sao đi nữa, nơi này ở đâu nhỉ? Một thành phố hối hả, đó là
tất cả những gì tôi có thể nói. Với tất cả những gì tôi biết, nó có thể là New
York.
Vậy hãy
tìm đầu mối đi, đồ ngốc.
Tôi cố
gắng tập trung. Quần áo. Tốt thôi, hãy xem xét quần áo. Hầu hết mọi người mặc
áo khoác hoặc jacket. Kết luận: có lẽ ở nơi nào đó tận phía Bắc, hay ít nhất, nơi
nào đó không đặc biệt ấm áp vào ngày hôm nay. Tuyệt. Tôi có thể loại ngay
Miami.
Gì nữa?
Tôi lom lom nhìn mọi người. Kiểu tóc ư? Không ích gì mấy. Tôi nhìn thấy một góc
của tòa nhà bằng gạch. Tôi tìm những đặc điểm giúp nhận dạng, thứ gì đó phân
biệt tòa nhà này với những tòa nhà thông thường. Không có gì. Tôi tìm trên màn
hình thứ gì đó, bất cứ thứ gì, khác thường.
Những cái
túi mua hàng.
Một vài
người mang túi mua hàng. Tôi cố gắng đọc dòng chữ trên chúng, nhưng mọi người
di chuyển nhanh quá. Tôi cầu cho họ đi chậm lại. Họ không làm thế. Tôi tiếp tục
nhìn chằm chằm chỗ ngang gối họ. Góc quay của chiếc camera ở chỗ này không rõ
được mấy. Tôi đưa mặt lại gần màn hình, tôi cảm nhận được hơi nóng.
Chữ cái R
viết hoa.
Đó là chữ
cái đầu tiên trên một cái túi. Phần còn lại nguệch ngoạc quá không nhìn ra
được. Nó trông như thể được viết bằng chữ lạ lùng nào đó. Được, gì nữa nào?
Thêm một đầu mối nữa là tôi có thể...?
Màn hình
chiếc camera trở thành màu trắng.
Mẹ kiếp.
Tôi nhấn phím load lại. Màn hình báo lỗi lại xuất hiện. Tôi mở lại lá thư đầu
tiên và nhắp chuột vào hyperlink. Một lỗi khác.
Thứ nuôi
tôi sống bị cướp đi rồi.
Tôi nhìn
vào màn hình trống không, và sự thật đập vào tôi một lần nữa: Tôi vừa trông
thấy Elizabeth.
Tôi cố
dùng lý trí xua nó đi. Nhưng đây không phải là một giấc mơ. Tôi đã chiêm bao
những giấc mơ Elizabeth còn sống. Quá nhiều thể loại đó. Hầu hết trong những
giấc mơ này, tôi đón nhận nàng từ cái chết trở về, biết ơn đến nỗi không buồn
hỏi han hay nghi ngờ. Tôi đặc biệt nhớ một giấc mơ, chúng tôi ở bên nhau - tôi
không nhớ chúng tôi đang làm gì hay thậm chí là ở đâu - và ngay lúc dó, giữa
những tiếng cười đùa, tôi đã nhận ra với sự chắc chắn đến nghẹn thở tôi đang
mơ, rằng chẳng chóng thì chầy, tôi sẽ tỉnh dậy, một mình. Tôi nhớ giấc mơ - tôi
giơ tay ra trong khoảnh khắc ấy, vồ lấy nàng, kéo nàng lại thật gần, cố gắng
đến tuyệt vọng để lôi Elizabeth trở lại với mình.
Tôi biết
những giấc mơ chứ. Cái mà tôi vừa nhìn thấy trên màn hình không phải một giấc
mơ.
Nó cũng
không phải là một hồn ma. Không phải tôi tin có hồn ma, nhưng khi nghi ngờ,
người ta cũng nên có đầu óc thoáng một chút. Nhưng hồn ma không già đi.
Elizabeth trên máy tính già đi. Không nhiều lắm, nhưng đã tám năm rồi. Hồn ma
cũng không cắt tóc. Tôi nghĩ đến bím tóc buông dài xuống lưng nàng trong đêm
trăng ấy. Tôi nghĩ đến kiểu tóc ngắn thời trang mà tôi vừa nhìn thấy. Và tôi
nghĩ đến đôi mắt, đôi mắt tôi đã nhìn sâu tận đáy khi tôi mới bảy tuổi.
Đó là
Elizabeth. Nàng vẫn còn sống.
Tôi thấy
nước mắt mình lại trào ra, nhưng lần này tôi nén lại. Buồn cười. Tôi luôn dễ
khóc, nhưng sau khi than khóc Elizabeth, dường như tôi không thể nào khóc được
nữa. Không phải là tôi đã khóc quá nhiều và bao nhiêu nước mắt đã bị dùng hết
rồi, hay thứ gì vớ vẩn đại loại thế. Hay là tôi đã trở nên tê dại vì đau buồn,
mặc dù hẳn là có một phần nhỏ như thế. Điều tôi nghĩ đã xảy ra, đó là tôi, một
cách đầy bản năng, đóng sập mình vào tư thế bảo vệ. Khi Elizabeth mất, tôi mở
toang tất cả các cửa và để nỗi đau tràn vào. Tôi để chính mình cảm nhận tất cả.
Và nó đau lắm. Đau khủng khiếp đến nỗi bây giờ có thứ gì đó, quan trọng đến mức
sống còn, đảm bảo để chuyện đó không xảy ra thêm một lần nào nữa.
Tôi không
biết mình đã ngồi ở đó bao lâu. Có lẽ nửa tiếng. Tôi cố thở chậm lại và làm dịu
đầu óc. Tôi muốn lý trí. Tôi cần phải lý trí. Tôi đáng lẽ phải ở nhà bố mẹ
Elizabeth rồi, nhưng tôi không thể tượng tượng vào ngay lúc này phải đối mặt
với họ.
Rồi tôi
nhớ ra một thứ khác.
Sarah
Goodhart.
Cảnh sát
trưởng Lowell đã hỏi tôi liệu tôi có biết tí gì về cái tên này không. Tôi biết.
Elizabeth
và tôi thường chơi một trò hồi còn bé. Có thể bạn cũng từng chơi trò đó. Lấy
tên đệm của mình, coi là tên và lấy tên con đường thuở ấu thơ, coi là họ. Chẳng
hạn, tên đầy đủ của tôi là David Craig Beck và tôi lớn lên ở Darby Road. Vì vậy
tôi sẽ là Craig Darby và Elizabeth sẽ là...
Sarah
Goodhart.
Chuyện
quái quỷ gì đang xảy ra ở đây thế?
Tôi nhấc
điện thoại lên. Đầu tiên, tôi gọi cho bố mẹ Elizabeth. Họ vẫn sống ở căn nhà đó
trên Goodhart Road. Mẹ nàng nhấc máy. Tôi bảo bà tôi đến muộn. Với bác sĩ,
người ta chấp nhận chuyện đó. Một trong những phụ cấp của nghề này.
Khi tôi
gọi cho cảnh sát trưởng Lowell, điện thoại trả lời tự động của ông ta đáp lại.
Tôi bảo ông ta nhắn vào máy nhắn tin của tôi khi ông ta có thể. Tôi không có
điện thoại di động. Tôi nhận ra điều này sẽ khiến tôi thuộc vào loại thiểu số,
nhưng máy nhắn tin giúp tôi phong tỏa với thế giới bên ngoài.
Tôi ngồi
lại, nhưng Homer Simpson lôi tôi ra khỏi cơn mê bằng một tiếng hét: “Thư ở
đây!” Tôi chồm tới và tóm chặt con chuột. Địa chỉ người gửi không quen biết,
nhưng tiêu đề lá thư là Camera đường phố. Một tiếng thịch khác trong lồng ngực
tôi.
Tôi nhấp
chuột vào biểu tượng nhỏ và lá thư xuất hiện.
Ngày mai
cũng thời gian này cộng thêm hai tiếng nữa tại Bigfoot.com
Một thông
điệp gửi cho bạn sẽ được để lại dưới:
Username:
Bat Street
Password:
Teenage
Dưới
những dòng này, dính chặt vào phần dưới cùng của màn hình, chỉ có tám từ:
Chúng
đang theo dõi. Đừng nói một ai.
Larry
Gandle, gã đàn ông với đám tóc xấu xí nhìn Eric Wu im lặng tẩy rửa.
Wu, một
tên Hàn Quốc hai mươi sáu tuổi với một tổ hợp đáng kinh ngạc gồm những lỗ xiên
và vết xăm trên cơ thể, là một tay cực đoan nhất mà Gandle từng biết. Người Wu
như thể một chiếc xe tăng quân sự nhỏ, nhưng chỉ riêng điều đó thôi không có ý
nghĩa gì nhiều lắm. Gandle biết rất nhiều thằng có cơ thể như thế. Quá thường
xuyên, cơ bắp được khoe ra là cơ bắp vô dụng.
Trường
hợp Eric Wu không phải thế.
Bắp thịt
như đá tảng của hắn đẹp, nhưng bí mật sức mạnh chết người thực sự của Wu nằm ở
đôi tay chai cứng - hai khối xi măng với những ngón móng vuốt thép. Hắn dành
hàng giờ luyện tay, đấm vào khối muội than còn nóng, để ngón tay trần trong
nhiệt độ cực nóng và cực lạnh, tập các bài hít đất bằng một ngón tay. Khi Wu sử
dụng những ngón tay này, khả năng phá hủy xương và mô của chúng là không thể
tưởng tượng nổi.
Tin đồn
bí ẩn xoay quanh những kẻ như Wu hầu hết đều tào lao, nhưng Larry Gandle đã
chứng kiến hắn giết một thằng bằng cách ấn sâu những ngón tay vào mặt và bụng
thằng kia. Gã cũng đã trông thấy Wu túm lấy tai một thằng và xé toạc chúng ra
bằng một cú giật nhẹ nhàng. Gã đã chứng kiến Wu giết bốn người bằng bốn cách
rất khác nhau, không bao giờ sử dụng một loại vũ khí nào.
Không một
cái chết nào đến nhanh chóng.
Không ai
biết chính xác Wu quê ở đâu, nhưng hầu hết tin vào một câu chuyện có liên quan
gì đấy về một tuổi thơ dữ dội ở Bắc Triều Tiên. Gandle chưa bao giờ hỏi. Có
những con đường mòn ban đêm mà trí óc tốt hơn là không nên ngang qua; phần tối
của Eric Wu - đúng thế, cứ như là có một phần sáng ấy - là một trong những con
đường mòn ban đêm đó.
Khi hoàn
thành việc bọc lại cái đống chất nguyên sinh vốn trước đó là Vic Letty bằng tấm
bạt, đôi mắt Wu ngước lên nhìn Gandle. Đôi mắt chết, Larry Gandle nghĩ. Đôi mắt
của đứa trẻ trong một thước phim ngắn quay cảnh chiến tranh.
Wu không
buồn tháo tai nghe ra. Chiếc stereo cá nhân của hắn không om sòm nhạc hip hop,
rap hay ngay cả rock ‘n’ roll. Hắn liên tục nghe những CD loại nhạc êm dịu có
thể tìm thấy ở Sharper Image như Ocean Breeze và Running Brook.
“Tao có
nên mang nó đến chỗ Benny không?” Wu hỏi. Giọng hắn có một điệu chầm chậm, kỳ
quặc khi nói câu này, như một nhân vật trong phim hoạt hình Peanuts.
Larry
Gandle gật đầu. Benny quản lý một lò hỏa thiêu. Cát bụi lại trở về cát bụi.
Hay, trong trường hợp này, từ cặn bã trở về cát bụi. “Và tống khứ cái này đi.”
Gandle
chìa cho Eric Wu khẩu hai mươi hai. Khẩu súng nhìn nhỏ bé yếu đuối và vô dụng
trong bàn tay vĩ đại của Wu. Wu cau mày nhìn nó, có lẽ thất vọng vì Gandle đã
chọn nó chứ không chọn những tài năng độc nhất của riêng Wu, rồi nhét chặt khẩu
súng vào túi. Với một khẩu hai mươi hai, có ít vết thương. Điều đó nghĩa là có
ít bằng chứng. Máu được bọc bằng một tấm nhựa vinyl. Không lộn xộn, không ồn
ào.
“Để sau,”
Wu nói. Hắn nâng cái xác lên bằng một tay như thể cái cặp đựng tài liệu và mang
ra ngoài.
Larry
Gandle gật đầu chào tạm biệt. Gã cảm thấy hơi vui từ những đau đớn của Vic
Letty - nhưng rồi cũng một chút khó chịu. Thực ra là một vấn đề đơn giản.
Gandle phải tuyệt đối chắc chắn Letty hành động một mình và thằng này không để
lại bằng chứng nào để ai đó có thể mò ra. Điều đó nghĩa là gã buộc phải đi quá
điểm giới hạn. Không có cách nào khác.
Cuối
cùng, còn lại một lựa chọn rõ ràng - hoặc gia đình Scope hoặc Vic Letty. Gia
đình Scope là những người tốt. Họ chưa hề làm gì tồi tệ với Vic Letty. Vic
Letty, mặt khác, lại ra khỏi đường của mình và tìm cách làm hại gia đình Scope.
Chỉ một trong hai có thể vô sự thoát khỏi mọi thứ - nạn nhân ngây thơ, đầy
thiện chí hay kẻ ăn bám sống bằng nỗi đau đớn của người khác. Khi nghĩ như thế,
không còn lựa chọn nào khác.
Điện
thoại di động của Gandle rung lên. Gã trả lời và nói, “Vâng.”
“Họ đã
nhận dạng được hai cái xác chỗ khu hồ.”
“Và?”
“Đó là
chúng. Chúa ơi, đó là Bob và Mel.”
Gandle
nhắm mắt lại.
“Điều này
có nghĩa gì, Larry?”
“Tao
không biết.”
“Thế
chúng ta sẽ làm gì bây giờ?”
Larry
Gandle hiểu không có sự lựa chọn nào khác. Hắn sẽ phải nói chuyện với Griffin
Scope. Những ký ức không mấy dễ chịu bị bới lên. Tám năm. Tám năm sau. Gandle
lắc đầu. Điều này sẽ lại làm tan nát trái tim ông già.
“Tao sẽ
lo chuyện này.”
6
Kim Parker, mẹ vợ tôi, đẹp. Bà lúc nào trông cũng
hệt Elizabeth
đến nỗi khuôn mặt bà đối với tôi trở thành thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể cuối cùng.
Nhưng cái chết của Elizabeth dần ăn mòn bà. Khuôn mặt bà giờ đây u sầu, những
đường nét trở nên khắc khổ. Đôi mắt có ánh nhìn của những viên bi đã rạn vỡ từ
sâu bên trong.
Ngôi nhà
của gia đình Parker đã trải qua rất ít đổi thay từ những năm bảy mươi - tường
gỗ dán, thảm lông dày vừa phải, xanh màu da trời nhạt điểm những vết đốm trắng
phủ kín sàn, một lò sưởi đắp nổi giả đá bên ngoài kiểu Brady Bunch. Kệ để TV có
giá xếp lại được, loại có phần trên bằng nhựa trắng và chân kim loại màu vàng,
đặt sát tường. Bức họa thằng hề và đĩa trang trí Rockwell. Thứ hiện đại duy nhất
dễ nhận thấy là cái tivi. Nó lớn lên trong suốt những năm qua từ một gã trắng
đen mười hai inch sung sức đến gã màu năm mươi lăm inch khổng lồ, giờ đây ngồi
khom khom lù lù ở một góc nhà.
Mẹ vợ tôi
ngồi trên cùng một chiếc đi văng Elizabeth và tôi thường rất nhiều lần hôn hít,
thậm chí cả làm tình nữa. Tôi mỉm cười trong thoáng chốc và nghĩ, à, giả sử cái
đi văng ấy biết nói nhỉ. Nhưng cái khúc to uỳnh oàng để làm chỗ ngồi với những
hình trang trí hoa lá sặc sỡ nắm giữ rất nhiều thứ, không chỉ những kỷ niệm gợi
tình kia.
Elizabeth
và tôi đã ngồi ở đó, mở giấy báo nhập học đại học của chúng tôi. Chúng tôi nằm
cuộn mìn ôm nhau xem One Flew Over the Cuckoo’s Nest và The
Deer Hunter và tất cả những phim cổ của Hitchcock. Chúng tôi làm bài tập về
nhà, tôi ngồi thẳng còn Elizabeth nằm gối đầu lên đùi tôi. Tôi bảo Elizabeth
tôi muốn trở thành một bác sĩ - một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng, hoặc đại loại
thế, tôi nghĩ. Nàng bảo với tôi nàng muốn có bằng luật và làm việc với những
đứa trẻ. Elizaberh không chịu đựng nổi ý nghĩ trẻ con phải chịu đau đớn.
Tôi nhớ
lần nàng thực tập trong kỳ nghỉ hè sau năm đầu tiên ở đại học. Nàng làm việc
cho Covenant House, giải cứu trẻ vô gia cư và trẻ lang thang khỏi những khu phố
tồi tệ nhất ở New York. Tôi đi cùng nàng một lần trên chiếc xe tải của Covenant
House, dọc Phố 42 đoạn trước Giuliani, rà đi rà lại giữa hàng đống những thể
loại thối tha có vẻ có đặc điểm người, tìm những đứa trẻ cần nơi nương tựa.
Elizabeth tìm thấy một con bé mười bốn tuổi làm điếm, nó chơi ma túy phê đến nỗi
đùn hết ra người. Tôi nhăn mặt ghê tởm. Tôi không tự hào về điều đó. Những con
người này lẽ ra là con người, nhưng - thành thật ở đây - những kẻ rác rưởi làm
tôi ghê tởm. Tôi giúp đỡ. Nhưng tôi nhăn mặt.
Elizabeth
chưa bao giờ nhăn mặt. Đó là bản năng của nàng. Nàng tự tay kéo những đứa trẻ
lên. Nàng ẵm chúng. Nàng tắm rửa cho đứa con gái kia, săn sóc và trò chuyện với
nó suốt đêm. Nàng nhìn thẳng vào mắt chúng. Elizabeth thực sự tin mọi người đều
tốt và có giá trị; nàng ngây thơ theo một kiểu mà tôi ước gì mình có thể như
vậy.
Tôi đã
luôn tự hỏi liệu có phải nàng cũng chết một cách tương tự như thế không - còn
nguyên vẹn sự ngây thơ - vẫn mãi giữ, dù trong đau đớn, niềm tin vào con người
và tất cả những thứ ngớ ngẩn tuyệt vời. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi ngờ
KillRoy có lẽ đã bẻ gãy nàng.
Kim
Parker ngồi nghiêm nghị tay đặt lên đùi. Bà vẫn luôn quý mến tôi vừa phải, mặc
dù trong suốt thời niên thiếu, hai cặp bố mẹ đã không ngừng lo lắng vì chúng
tôi quá gần gũi. Họ muốn chúng tôi chơi với những đứa khác. Họ muốn chúng tôi
chơi với nhiều bạn bè hơn. Không có gì là lạ, tôi cho là như vậy.
Hoyt
Parker, cha Elizabeth, vẫn chưa về, vì vậy Kim và tôi tán gẫu những chuyện
không đâu - hoặc cùng nói một thứ theo cách khác nhau, chúng tôi trò chuyện về
tất cả mọi thứ, trừ Elizabeth. Tôi giữ cho mắt mình nhìn tập trung vào Kim bởi
tôi biết mặt lò sưởi kia đầy ngập những bức ảnh Elizabeth và nụ cười làm người
ta đau xé lòng của nàng.
Nàng
còn sống...
Tôi không
thể khiến bản thân mình tin vào điều đó. Trí óc, tôi biết từ kỳ thực tập bác sĩ
tâm thần ở trường y (đó còn chưa nói đến tiền sử gia đình), có năng lực bóp méo
kỳ diệu. Tôi không tin tôi đủ điên để ảo tưởng ra hình ảnh của nàng, nhưng mà
này, những người điên không bao giờ biết mình điên. Tôi nghĩ đến mẹ và tự hỏi
bà đã nhận ra điều gì về tình trạng tâm thần của chính mình, liệu bà từng có
khả năng nhìn nhận một cách nghiêm túc nội tâm mình.
Có lẽ là
không.
Kim và
tôi nói chuyện thời tiết. Chúng tôi nói chuyện về các bệnh nhân của tôi. Chúng
tôi nói chuyện về công việc bán thời gian của bà ở cửa hàng Macy. Và rồi Kim
làm tôi điếng người.
“Con có
đang gặp gỡ ai không?” bà hỏi.
Đây là
câu hỏi thực sự riêng tư đầu tiên bà từng hỏi tôi. Nó đẩy tôi lùi lại một bước.
Tôi tự hỏi bà muốn nghe điều gì. “Không ạ,” tôi nói.
Bà gật
đầu và nhìn như thể bà muốn nói điều gì đó khác nữa. Tay bà run run đưa lên
mặt.
“Nhưng
con có hẹn hò,” tôi nói.
“Tốt,” bà
đáp lại với một cái gật đầu quá mức nồng nhiệt. “Con nên thế.”
Tôi nhìn
tay mình và tự lấy làm ngạc nhiên khi nói, “Con vẫn nhớ cô ấy nhiều lắm.” Tôi
không định nói thế. Tôi định tiếp tục giữ im lặng và đi theo con đường an toàn
mọi khi của chúng tôi. Tôi liếc nhìn lên gương mặt bà. Bà trông vừa đau đớn vừa
biết ơn.
“Mẹ biết
con thế, Beck ạ,” Kim nói. “Nhưng con không nên cảm thấy tội lỗi khi gặp gỡ
người khác.”
“Con
không,” tôi nói. “Ý con là, chuyện không phải thế.”
Bà buông
không bắt chéo chân nữa và nhướng người về phía tôi. “Vậy thì là gì hả con?”
Tôi không
thốt nên lời. Tôi muốn. Vì bà. Bà nhìn tôi bằng đôi mắt rạn vỡ, nhu cầu được
trò chuyện về con gái mình lộ quá rõ, quá sống động. Nhưng tôi không thể. Tôi
lắc đầu.
Tôi nghe
tiếng chìa khóa ở cửa. Cả hai chúng tôi đột ngột quay lên, ngồi thẳng người như
đôi tình nhân bị bắt gặp. Hoyt Parker đẩy vai mở cửa và gọi vợ. Ông bước vào
phòng, thốt ra tiếng thở dài nặng nhọc rồi bỏ chiếc túi đựng quần áo tập thể
dục xuống. Cà vạt nới lỏng, áo sơ mi nhàu nát, tay áo xắn lên tận khuỷu. Cẳng
tay Hoyt như Popeye vậy. Khi nhìn thấy chúng tôi ngồi trên đi văng, ông thốt ra
một tiếng thở dài nữa, lần này sâu hơn và lộ rõ hơn hàm ý không bằng lòng.
“Anh khỏe
không, David?” ông nói với tôi.
Chúng tôi
bắt tay. Bàn tay ông, như mọi khi, vẫn đầy những vết chai xước, và quá rắn
chắc. Kim xin lỗi và vội ra khỏi phòng. Hoyt và tôi nói với nhau vài câu lịch
sự, rồi im lặng ngồi xuống. Hoyt Parker chưa bao giờ thoải mái với tôi. Có lẽ ở
đây có mặc cảm Electra[1] nào đó,
nhưng tôi luôn cảm thấy ông coi tôi như một mối đe dọa. Tôi hiểu. Đứa con gái
bé bỏng của ông đã dành trọn thời gian của nó cho tôi. Trong suốt những năm
trước kia, chúng tôi luôn cố đấu tranh với sự oán giận của ông và tiến đến một
thứ tình bạn nào đó. Cho đến khi Elizabeth chết.
[1] Electra: Mặc cảm con gái yêu cha ghét mẹ theo lý thuyết Phân tâm
học của S. Freud.
Ông đổ
lỗi cho tôi về việc đã xảy ra.
Dĩ nhiên,
ông chưa bao giờ nói ra, nhưng tôi nhìn thấy điều đó trong mắt ông. Hoyt Parker
là một người đàn ông mạnh mẽ, vạm vỡ. Rắn chắc như đá, một người Mỹ điển hình
trăm phần trăm. Ông luôn khiến Elizabeth cảm thấy an toàn vô điều kiện. Hoyt sở
hữu loại hương bảo vệ đó. Không một thứ tổn hại nào có thể xảy đến với con gái
bé bỏng của ông chừng nào Hoyt Bự còn ở bên cạnh con bé.
Tôi không
nghĩ có lúc nào tôi từng khiến Elizabeth cảm thấy an toàn được đến thế.
“Công
việc tốt chứ?” Hoyt hỏi tôi.
“Ổn,” tôi
nói. “Bố thế nào?”
“Hơn một
năm nữa là nghỉ hưu.”
Tôi gật
đầu và chúng tôi lại rơi vào im lặng. Trên đường lái xe đến đây, tôi quyết định
không nói bất cứ điều gì về thứ mà tôi đã nhìn thấy trên máy tính. Quên đi sự
thật nghe có vẻ điên rồ. Quên đi sự thật nó sẽ rạch vào những vết thương cũ và
làm đau đớn đến phát điên. Sự thật là, tôi không có một chút manh mối về việc
gì đang diễn ra. Càng nhiều thời gian trôi qua, toàn bộ đoạn cuối càng trở nên
không thực. Tôi cũng quyết định suy nghĩ nhiều hơn về email vừa mới đây. Đừng
nói một ai. Tôi không hình dung được tại sao hay cái gì đang xảy ra, nhưng
bất cứ mối liên hệ nào mà tôi đã tạo ra đều có cảm giác mỏng manh khủng khiếp.
Tuy
nhiên, tôi vẫn thấy mình phải kiểm tra chắc chắn để Kim không nghe được câu
chuyện. Rồi tôi nhướng người lại gần Hoyt và nhẹ nhàng nói, “Con có thể hỏi bố
một điều không?”
Ông không
trả lời, thay vào đó đáp lại bằng cái nhìn nghi ngờ kiểu của riêng ông.
“Con muốn
biết...” tôi ngừng lại. “Con muốn biết bố tìm thấy cô ấy như thế nào.”
“Tìm thấy
con bé?”
“Ý con là
khi bố lần đầu tiên vào nhà xác, con muốn biết bố nhìn thấy gì.”
Có điều
gì đó diễn ra trên khuôn mặt ông, như những vụ nổ nhỏ làm đổ sụp nền móng. “Vì
tình yêu dành cho Chúa, tại sao anh lại hỏi bố điều đó?”
“Con chỉ
đang nghĩ về chuyện đó,” tôi e dè nói. “Bởi lễ kỷ niệm hàng năm và tất cả mọi
thứ.”
Ông đột
ngột đứng dậy và chùi lòng bàn tay vào gấu quần. “Anh muốn uống gì đó không?”
“Có.”
“Bourbon
được chứ?”
“Cái đó
tuyệt lắm.”
Ông đi
lại phía quầy bar cũ kỹ gần mặt lò sưởi và cả những tấm ảnh. Tôi cố giữ mắt
mình dán chặt xuống nền nhà.
“Hoyt?”
tôi đánh liều.
Ông vặn
một nắp chai. “Anh là bác sĩ,” ông nói, cầm cái ly giơ về phía tôi. “Anh đã
từng nhìn thấy những thi thể.”
“Vâng.”
“Vậy thì
anh biết mà.”
Quả đúng là
như vây.
Ông đưa
ly rượu cho tôi. Tôi cầm lấy cái ly hơi nhanh quá mức và nhấp luôn một ngụm.
Ông nhìn tôi và rồi đưa ly của mình lên môi.
“Con biết
con chưa bao giờ hỏi bố các chi tiết,” tôi bắt đầu. Còn hơn thế, tôi đã cố tình
tránh chúng. “Thân nhân của các nạn nhân” khác, như cái kiểu báo chí nói đến
chúng tôi, ngập chìm trong chúng. Họ có mặt thường trực tại ở phiên xử KillRoy,
nghe rồi khóc. Tôi thì không. Tôi nghĩ như thế sẽ giúp họ hướng trực tiếp vào
nỗi đau. Tôi chọn cách hướng nỗi đau của tôi quay lưng lại với chính tôi.
“Anh
không muốn biết những chi tiết đâu, Beck ạ.”
“Cô ấy đã
bị đánh?”
Hoyt nhìn
ly rượu của ông. “Tại sao anh lại làm thế này?”
“Con cần
biết.”
Ông liếc
nhìn tôi qua ly rượu. Ánh mắt ông dịch chuyển dọc theo khuôn mặt tôi. Có cảm
giác như thể chúng đang đâm thọc vào da tôi. Tôi giữ cho ánh mắt mình vững
vàng.
“Có những
vết bầm, đúng vậy.”
“Ở đâu?”
“David...”
“Trên mặt
cô ấy?”
Mắt ông
nheo lại, như thể ông phát hiện điều bất ngờ. “Ừ.”
“Cả trên
cơ thể cô ấy nữa?”
“Bố không
nhìn cơ thể con bé,” ông nói. “Nhưng bố biết câu trả lời là có.”
“Tại sao
bố không nhìn cơ thể cô ấy?”
“Bố ở đó
với tư cách là bố của nó, không phải là một thanh tra - vì mục đích duy nhất là
nhận dạng.”
“Chuyện
đó dễ dàng thế à?” tôi hỏi.
“Cái gì
dễ dàng?”
“Nhận
dạng. Ý con là, bố nói mặt cô ấy bị bầm tím.”
Cơ thể
ông cứng đờ. Ông đặt ly rượu xuống, và với nỗi sợ hãi đang vọt lên, tôi nhận ra
mình đã đi quá đà. Tôi đáng lẽ nên kiên trì với kế hoạch của mình. Tôi đáng lẽ
nên ngậm miệng lại.
“Anh thực
sự muốn nghe tất cả những chuyện này?”
Không, tôi nghĩ. Nhưng tôi gật đầu.
Hoyt
Parker khoanh tay lại và nhướng mình đứng thẳng lại trên đôi chân. “Mắt trái
của Elizabeth bị sưng phồng, nhắm lại. Mũi con bé bị gãy và thẳng bẹt ra như
đất sét nhão. Có một vết rạch dài trên trán nó, có lẽ do một con dao chuyên
dụng chém. Hàm nó bị xé toạc ra khỏi khung, tất cả các dây chằng đều lòi ra.”
Giọng ông đều đều tuyệt đối. “Chữ cái K được đóng dấu trên má phải con bé. Mùi
da cháy vẫn còn vảng vất rõ.”
Bụng tôi
quặn lên.
Mắt Hoyt nhìn
tôi dữ dội. “Anh có muốn biết phần tồi tệ nhất là gì không, Beck?”
Tôi nhìn
ông và chờ đợi.
“Không
mất lấy một phần giây nào cả,” ông nói. “Bố biết ngay lập tức đó là Elizabeth.”