Vụ Án Trường Oxford - Chương 06
Chương
6
Khi
tôi tỉnh dậy vào buổi sáng, Beth đã đi khỏi. Hơi sững người lại, tôi nhìn mãi
vào khoảng trũng mềm mại mà thân hình cô để lại trên giường. Tôi với tay mò
đồng hồ: đã mười giờ sáng. Tôi nhảy dựng dậy vì đã hẹn gặp Emily Bronson ở Viện
trước giờ ăn trưa, thế mà vẫn chưa đọc xong bài của bà. Trong người cảm thấy
điều gì khang khác, tôi bỏ thêm cả vợt và quần áo chơi quần vợt vào túi đem
theo. Hôm ấy là thứ Năm, và như thường lệ tôi có hẹn chơi vào buổi chiều. Trước
khi đi, tôi liếc một vòng quanh bàn và giường, thất vọng. Giá có một lời nhắn
nào của Beth để lại, dù chỉ ngắn ngủi đôi dòng thôi thì tôi cũng vui lòng rồi,
và tôi tự hỏi không biết việc cô biến mất mà không nhắn lại gì có phải chính là
thông điệp của cô không.
Đó
là một buổi sáng yên tĩnh, ấm áp, và chuyện ngày hôm qua có vẻ như điều gì xa
vời và mơ hồ không có thật. Nhưng khi tôi ra tới vườn thì bà Eagleton đã không
còn đấy nữa để dọn các luống hoa, và dải băng vàng của cảnh sát vẫn bao quanh
hàng giậu. Trên đường đến Viện, tôi dừng lại ở một sạp báo
để mua tờ báo và bánh doughnut. Tại văn phòng, tôi bật máy pha cà phê và trải
rộng tờ báo trên mặt bàn. Tin về cái chết của bà Eagleton là câu chuyện nổi bật
nhất trên tờ báo địa phương, với hàng tít chạy ngang tờ báo “Cựu nữ anh hùng
thời chiến bị sát hại”. Có một tấm hình của bà Eagleton lúc còn trẻ, khó nhận
mặt, và tấm hình khác chụp cảnh trước cửa nhà, với rào chắn và xe của cảnh sát
ở ngoài. Bài tường thuật cho biết thi hài đã được phát hiện do người ở trọ, một
sinh viên toán người Argentina, và người cuối cùng gặp nạn nhân lúc còn sống là
cháu nội duy nhất của bà, Elizabeth.
Trong bài không có gì
tôi chưa được biết, xét nghiệm tử thi đêm qua không tìm ra thêm điều gì mới.
Trong một cột khác có chi tiết về cuộc điều tra của cảnh sát. Bài viết không ký
tên, nhưng đằng sau phong cách có vẻ vô tư tôi nhận ngay ra giọng điệu xỏ lá
của gã phóng viên đã phỏng vấn tôi. Hắn tuyên bố rằng cảnh sát đã loại trừ khả
năng có kẻ đột nhập tấn công, dù rằng lúc bấy giờ cửa trước không khóa. Trong
nhà không có thứ gì bị đụng chạm hay lấy cắp. Có vẻ như cảnh sát đã có một đầu
mối nào đó mà thanh tra Petersen không muốn vội tiết lộ. Người phóng viên đã có
căn cứ để gợi ý rằng đầu mối có thể đi đến kết tội “những thành viên gần gũi
trong gia đình bà Eagleton”. Và hắn nói thẳng luôn rằng Beth là người có huyết
thống trực hệ duy nhất còn sót lại, và sẽ thừa kế một “gia tài khiêm nhường”.
Trong mọi trường hợp, bài báo kết luận, cho đến khi có những biến chuyển
mới, Thời báo Oxford xin nhắc lại khuyến cáo của thanh tra
Petersen là các cư dân nên quên đi những thời kỳ xa xưa tốt đẹp, và luôn luôn
khóa cửa nhà mình.
Tôi lật giở các trang
báo, tìm mục cáo phó. Ở đây có một danh sách dài bên dưới cáo phó của bà
Eagleton, bao gồm Hội Chơi Scrabble Anh quốc và Viện Toán học, trong đó có nhắc
tên cả Emily Bronson lẫn Seldom. Tôi xé trang báo ra và đút vào ngăn kéo, rồi
rót một cốc cà phê và chìm đắm vào công trình của vị phụ trách nghiên cứu của
tôi trong vài tiếng đồng hồ. Đến một giờ chiều, tôi xuống văn phòng bà ở tầng
dưới và thấy bà đang ăn một bánh mì kẹp, với chiếc khăn giấy trải ra phủ trên
đám sách. Bà reo khẽ một tiếng vui mừng khi thấy tôi mở cửa, làm như tôi vừa
trở về từ một cuộc viễn du nguy hiểm nào. Chúng tôi nói chuyện về vụ án mạng
khoảng vài phút, và tôi kể cho bà tất cả những gì có thể kể, nhưng không nhắc
gì đến Seldom. Bà có vẻ mất tinh thần và thành thật quan tâm về tôi. Bà hy vọng
cảnh sát không làm phiền tôi quá mức. Họ có thể làm cho người ngoại quốc rất
khó chịu, bà cho biết. Bà gần như sắp đi đến chỗ xin lỗi tôi vì đã gợi ý cho
tôi thuê phòng ở chỗ bà Eagleton. Chúng tôi nói chuyện thêm một lúc nữa, trong
khi bà kết thúc chiếc bánh kẹp. Bà đưa nó lên bằng hai tay, mổ nhấm nháp một
cách rất gọn ghẽ như một con chim nhỏ.
“Em không biết là
Arthur Seldom đang ở Oxford đấy.” Tôi nói một lúc nào đấy giữa câu chuyện.
“Tôi lại không nghĩ
là có khi nào ông ấy đi khỏi!” Emily mỉm cười đáp. “Cũng giống như tôi, Arthur
tin là cứ đợi một thời gian đủ lâu, sẽ gặp tất cả các nhà toán học hành hương
về Oxford. Ông ấy có một chức vụ vĩnh viễn ở bên Merton. Nhưng không thấy ông
ấy chường mặt ra nhiều lắm đâu. Em thấy ông ấy ở đâu thế?”
“Em nhìn thấy tên ông
trong bản báo tử của Viện,” tôi đáp, thận trọng.
“Nếu em muốn, tôi có
thể thu xếp cho em gặp ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy nói tiếng Tây Ban Nha rất giỏi.
Vợ đầu của ông ấy là người Argentina,” bà cho biết. “Bà ấy là chuyên gia phục
chế ở bảo tàng Ashmolean, lo về cây xà ngang Assyria lớn.”
Bà vội ngừng lại, như
thể vừa vô ý nói lỡ lời.
“Bà ấy... mất rồi ạ?”
Tôi ướm thử.
“Phải,” Emily đáp.
“Nhiều năm rồi. Bà ấy mất trong cùng một tai nạn với cha mẹ của Beth. Cả bốn
người khi ấy cùng ngồi trong một chiếc xe. Họ là bạn thân lắm. Họ đang trên
đường đi tới Clovelly chơi vào dịp cuối tuần. Chỉ còn một mình Arthur sống sót
thôi.”
Bà gấp tấm khăn giấy
lại rồi thảy vào trong sọt rác, chú ý không để vung vãi mảnh vụn nào. Bà nhấp
một ngụm nước từ cái chai nước khoáng nhỏ, rồi sửa lại cặp kính trên sống mũi:
“Còn bây giờ,” bà vừa
hỏi, vừa ngó tôi bằng cặp mắt xanh bạc màu, gần như ngả sang màu trắng: “em đã
có thì giờ đọc mấy bài viết của tôi chưa?”
Lúc tôi rời khỏi
Viện, tay mang theo vợt thì đã hai giờ chiều. Đó là một ngày nóng nực thực sự,
và đường phố có vẻ như đang nằm say ngủ dưới mặt trời hè. Một chiếc xe bus hai
tầng của công ty hướng dẫn du lịch Oxford rẽ vào góc phố trước mặt tôi, chậm
chạp và nặng nề như một con sên. Trên xe chất đầy du khách người Đức đeo kính
râm và đội mũ lưỡi trai, chỉ trỏ tòa nhà đỏ của phân viện Keble đầy vẻ ngưỡng
mộ. Trong khu Công viên Đại học, nhiều sinh viên đang hưởng chuyến picnic trên
thảm cỏ. Tôi hoàn toàn bị bao trùm bởi một cảm giác ngỡ ngàng không thể tin, y
như cái chết của bà Eagleton đã hoàn toàn tan biến mất. Những án mạng không thể
nhận ra, Seldom từng nói. Nhưng thực sự vụ giết người nào, cái chết nào cũng
chỉ làm mặt nước khẽ rung, rồi nhanh chóng biến thành không nhận ra được. Chưa
hết hai mươi bốn giờ, mà mọi việc đã hệt như không hề có sự xáo trộn nào xảy
ra. Không phải ngay chính tôi giờ cũng đang đi chơi quần vợt, giống như mỗi
ngày thứ Năm khác? Tuy nhiên, bước đi trên lối mòn cong cong dẫn đến sân quần vợt,
tôi nhận thấy một sự thinh lặng khác thường, như thể những thay đổi nhỏ đã bí
mật xảy ra. Chỉ có mỗi tiếng động nhịp nhàng của một trái banh lẻ loi đập vào
tường, với âm vang kỳ diệu mỗi lúc một lớn dần.
Không thấy cả xe của
John lẫn Sammy trong bãi đậu, nhưng chiếc Volvo đỏ của Lorna đậu ngay trên cỏ
bên cạnh hàng rào dây thép của một trong mấy mảnh sân chơi. Tôi đi vòng quanh
tòa nhà đến phòng thay quần áo, và thấy cô đang luyện cú tạt trái vào tường với
sự tập trung cao độ. Ngay từ xa, tôi đã có thể thưởng thức đường nét tuyệt mỹ
của cặp chân thon, rắn chắc bên dưới chiếc váy rất ngắn, cũng như nhìn thấy bộ
ngực cô căng lên và ra mỗi lần vung vợt. Cô ngừng lại khi thấy tôi và mỉm cười,
giống như cười một mình.
“Tôi còn tưởng anh sẽ
không đến chứ,” cô nói. Cô lấy mu bàn tay gạt mồ hôi trán, rồi hôn lướt qua
trên má tôi. Cô nhìn tôi với nụ cười tò mò thích thú, như thể cô muốn hỏi tôi
điều gì, hay chúng tôi đang cùng nhau tham gia một âm mưu nhưng cô còn chưa rõ
vai trò của mình.
“John và Sammy có
chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
“Tôi biết đâu,” cô
đáp, cặp mắt xanh lục mở to một cách ngây thơ. “Có ai gọi tôi đâu. Tôi đang
nghĩ hay các anh cùng quyết định bỏ rơi tôi kia đấy.”
Tôi vào phòng thay
quần áo và thay đồ rất nhanh, trong lòng ngạc nhiên một cách sung sướng vì sự
may mắn bất ngờ này. Mảnh sân nào giờ cũng vắng. Lorna đứng đợi tôi bên cánh
cổng. Tôi nhấc then cổng lên và nàng đi vào trước. Trên quãng đường ngắn đi tới
chỗ băng ghế, nàng quay sang nhìn tôi một lần nữa, ngần ngừ. Cuối cùng, làm như
không kìm nổi, nàng lên tiếng:
“Tôi đọc tin về vụ
giết người trên báo.” Mắt cô sáng lên, gần như háo hức. “Lạy Chúa, tôi biết bà
cụ ấy mà,” cô nói, hệt như vẫn còn kinh ngạc, hay làm như điều đó lẽ ra đã phải
bảo vệ bà Eagleton đáng thương. “Tôi cũng có gặp cháu gái vài lần ở bệnh viện.
Anh đã phát hiện ra thi thể, thật thế à?”
Tôi gật đầu, tay lo
tháo cái bọc ra khỏi cây vợt.
“Hứa đi, là anh sẽ kể
hết mọi chuyện cho tôi.”
“Tôi đã phải hứa là
sẽ không nói gì hết rồi,” tôi đáp.
“Thật à? Nghe vậy còn
làm câu chuyện hấp dẫn thêm nữa. Tôi biết còn có chuyện gì đó nữa!” cô reo lên.
“Không phải là cô cháu gái chứ, phải không? Tôi cảnh cáo anh đấy,” cô nói, ấn
ngón tay vào ngực tôi, “anh không được quyền giấu giếm gì người bạn chơi cặp
đôi ưa thích nhất của anh nhé. Anh phải kể cho tôi mới được.”
Tôi bật cười và trao
banh cho nàng qua lưới. Trong sự yên lặng vắng vẻ của câu lạc bộ, chúng tôi đập
banh cho nhau từ tận cuối sân. Trong quần vợt có một niềm thích thú còn hơn là
giành giật vất vả để ghi được một điểm, và đó là bài dợt khởi động từ vạch kẻ
cuối, trong đó ngược lại với luật chơi, ta cố giữ cho banh được chuyền qua lại
không gián đoạn càng lâu càng tốt. Lorna tự tin một cách tuyệt vời với cả cú
tạt phải lẫn tạt trái, và nàng giữ vững vị trí, áp sát đường vạch cho đến khi
tìm ra một chỗ hở cho một quả bạt, phản công từ góc sân với cú đập chéo.
Chúng tôi tiếp tục
nhắm vào quả banh mỗi khi lọt vào tầm với, càng lúc càng gia tăng nhịp độ di
chuyển. Lorna chống cự rất quả cảm, vạch những dấu trượt sâu trên mặt đất khi
nàng chồm từ bên này sân qua bên kia, càng lúc sự cố gắng của nàng càng mãnh
liệt. Sau mỗi điểm nàng lại trở về tuyến giữa, thở hổn hển, hất đuôi tóc ra sau
vai bằng một cử chỉ duyên dáng. Nàng đang quay mặt về phía mặt trời, nên cặp
chân dài, rám nắng bóng loáng lên dưới tà váy. Chúng tôi chơi trong yên lặng,
tập trung tinh thần, hệt như một điều gì đó quan trọng đang được dàn xếp bằng
cuộc chơi này. Trong một đường bóng dài, nàng đang chạy ngược trở lại giữa sân
sau một cú vụt bóng ở góc xa thì lại phải xoay mình một cách bất tiện để với
tới cú trả banh của tôi bằng đòn tạt trái. Giữa lúc xoay mình, một chân của
nàng bước hụt, và nàng nghiêng một cú rất nặng. Nàng nằm yên, ngửa mặt lên
trời, vợt văng ra xa.
Lo lắng, tôi chạy bổ
tới bên lưới, nhưng hóa ra nàng không bị thương tích gì, chỉ kiệt sức. Nàng thở
không ra hơi, hai tay chìa ra, giống như không còn sức để đứng dậy. Tôi nhảy
qua lưới và quỳ xuống bên cạnh nàng. Nàng đưa mắt nhìn tôi, đôi mắt xanh lục
lấp lánh lạ lùng dưới ánh nắng, vừa đùa cợt vừa chờ đợi. Tôi nâng đầu nàng lên
và nàng tự nhấc mình dậy bằng một cùi chỏ, cánh tay kia luồn quanh cổ tôi.
Miệng nàng đưa sát vào miệng tôi và tôi cảm thấy được hơi thở ấm áp, vẫn còn
nặng nhọc của nàng. Tôi hôn nàng và nàng ngả mình lại xuống đất, kéo theo cả tôi.
Chúng tôi tách ra khỏi nhau một khoảnh khắc, và nhìn nhau với cái nhìn đầu
tiên, sâu thẳm, hạnh phúc, hơi bỡ ngỡ giữa hai người tình. Tôi hôn nàng thêm
lần nữa và cảm thấy ngực nàng áp sát vào ngực mình. Tôi luồn tay vào dưới áo
thun của nàng, và nàng để yên cho tôi mân mê núm vú mình một lúc, nhưng nàng
hoảng hồn, khi tôi định luồn tay kia vào dưới váy.
“Khoan, khoan đã,”
nàng thì thầm, đưa mắt liếc xung quanh. “Ở nước anh người ta làm tình trên sân
quần vợt thế này à?” Nàng lồng các ngón tay vào ngón tay tôi để đẩy tay tôi ra
một cách dịu dàng, rồi cho tôi thêm một cái hôn ngắn. “Tới nhà em đi.” Nàng
đứng dậy, kéo lại quần áo, rồi giũ bụi đất sét khỏi thân mình. “Anh lấy đồ đạc
xong rồi đừng tắm nhé.” Nàng thì thầm. “Em đợi ở ngoài xe.”
Nàng lái xe lặng lẽ,
mỉm cười một mình và chốc chốc lại hơi xoay đầu sang nhìn tôi. Đến một chỗ đèn
đỏ, nàng đưa tay ra và vuốt ve mặt tôi.
“Vậy là chuyện của
John với Sammy...” Tôi lên tiếng.
“Không liên quan gì
đến em hết,” nàng cười, nhưng lần này nghe không thuyết phục bằng lần trước.
“Không phải các nhà toán học tin ở sự trùng hợp à?”
Chúng tôi đậu trong
một hẻm nhỏ ở Summertown, rồi trèo hai tầng lầu lên chỗ ở của Lorna, một căn hộ
áp mái trong căn nhà lớn kiểu Victoria. Nàng mở cửa và chúng tôi lại hôn nhau
tiếp ngay sau khi bước chân vào nhà.
“Em đi tắm một lúc,
nhé,” nàng nói và bước theo lối đi về phía một cánh cửa có khung kính mờ.
Tôi ngồi đợi trong
căn phòng khách nhỏ, nhìn quanh quất. Nó bừa bộn một cách duyên dáng, chất đầy
những thứ lặt vặt đủ kiểu - ảnh ngày lễ, đồ chơi chất dẻo, poster phim và một
đống sách nhồi vào một cái tủ nhỏ. Tôi nhoài người tới đọc một vài tên sách.
Toàn là loại tiểu thuyết trinh thám. Tôi nhìn vào phòng ngủ. Giường ngủ được
dọn gọn ghẽ, khăn trải giường rủ ngang mặt sàn, và một cuốn sách đang mở úp mặt
xuống chiếc bàn nhỏ bên cạnh giường. Tôi bèn sang xem thử nhan đề, và cứng
người lại vì kinh ngạc: đó chính là cuốn sách của Seldom về các liên chuỗi
logic, đầy những gạch dưới có vẻ giận dữ và ghi chú bên lề không đọc được. Tôi
nghe thấy âm thanh từ vòi hoa sen và một lát sau, tiếng Lorna đi chân trần đang
giẫm trên lối đi và tiếng nàng gọi tôi. Tôi đặt trả cuốn sách lại chỗ cũ, rồi
đi trở vào phòng khách.
“Rồi,” nàng nói từ
bên cửa, phô bày cho tôi thấy nàng đã hoàn toàn khỏa thân, “anh vẫn còn mặc
quần à?”