Chiến Tranh Và Hòa Bình (Quyển 3) - Phần 11 - Chương 25 + 26

Phần
XI

Chương
- 25 -

Vào khoảng gần bốn giờ trưa, quân
đội của Mura tiến vào Moskva. Đi trước là một chi đội phiêu kỵ Vurtemberg, và tiếp
theo là đích thân "quốc vương thành Napoli"(1) cưỡi ngựa cùng đi với
một đoàn tuỳ giá rất đông.

(1)
Mura

Vào khoảng giữa Arbat, gần Lilolai
Yaivlenny, Mura dừng lại chờ tin tức của đạo tiến quân loan tin báo về tình
hình của thành "Kremlin".

Một tốp người gồm những cư dân ở lại
Moskva tụ tập lại xung quanh Mura. Mọi người đều rụt rè và ngỡ ngàng ngắm nghía
ông chỉ huy kỳ quặc để tóc dài, quân phục thêu thùa đầy những kim tuyến, mũ cắm
đầy những lông chim.

- Thế nào, Sa hoàng của họ đấy à?
Trông cũng bảnh đấy chứ! - Trong đám đông có tiếng nói khẽ.

Một viên thông ngôn cưỡi ngựa lại
gần. Trong đám đông có tiếng giục nhanh:

- Cất mũ đi. Cất.

Viên thông ngôn hỏi một người gác
cổng già, xem từ đây đến thành Kreml có còn xa không? Lão gác cổng nghe cái
giọng Ba Lan lạ tai quá, không nhận ra rằng đó là tiếng Nga không hiểu viên
thông ngôn muốn nói gì, và lẩn ra sau lưng mấy người khác.

Mura cho ngựa bước lại gần viên
thông ngôn, và bỗng có tiếng người cùng trả lời một lúc. Một viên sĩ quan Pháp
từ đạo tiến quân trở lại báo với Mura rằng cổng thành đã đóng và hình như có
quân mai phục bên trong.

- Được! - Mura nói, đoạn quay về
phía một sĩ quan trong đoàn tuỳ tùng, ra lệnh đem bốn khẩu khinh pháo bắn vào
cổng thành.

Đội pháo binh từ đạo quân đi sau
Mura tiến ra vào đoàn xe kéo pháo chạy dọc theo phố Arbat. Đi đến cuối phố
Vorevienka, đội pháo binh dừng lại và xếp thành thế trận trên quảng trường.

Mấy viên sĩ quan Pháp cho bố trí các
khẩu đại bác và bắc ống nhòm nhìn vào thành Kreml.

Trong thành bỗng vẳng ra tiếng chuông
nguyện buổi chiều.Hồi chuông làm cho quan Pháp hoang mang lo lắng. Họ tưởng là
hồi chuông báo động kêu gọi dân chúng cầm vũ khí chạy về phía cổng Kutafiev.
Cổng này có chống thêm những khúc gỗ và những tấm ván. Người sĩ quan vừa dẫn
đội bộ binh chạy lại phía cổng thì từ phía trong cổng nổ ra hai phát súng
trường. Viên tướng đứng cạnh bốn khẩu pháo liền ra lệnh cho viên sĩ quan dẫn
tốp lính chạy lùi lại.

Trong cổng còn nghe thêm ba tiếng
súng nổ. Một phát súng trường bắn trúng chân một người lính Pháp, phía sau đống
gỗ ván chống ở cạnh cổng bỗng vang lên mấy tiếng reo kì lạ của một nhóm người
không đông lắm. Vẻ vui tươi và điềm tĩnh trên gương mặt tên tướng Pháp, các sĩ
quan và binh lính Pháp, bỗng cùng một lúc, răm rắp như một mệnh lệnh nhường chỗ
cho một vẻ mặt đăm chiêu biểu lộ tinh thần sẵn sàng chiến đấu và chịu đựng đau
khổ. Đối với họ, kể từ viên thống soái cho đến người lính thường chỗ này không
phải là Vozdvizenka, Mokhovaya, Kutuafia hay là cửa ô Troixki mà là một địa
điểm mới của chiến trường mới, nơi có, lẽ sắp xảy ra một chận huyết chiến. Và
mọi người đều chuẩn bị bước vào trận chiến đấu này: những tiếng reo trong cổng
đã im bặt. Bốn khẩu pháo đã được đẩy tới. Mấy người pháo binh thổi cho bùi nhùi
cháy to lên.

Viên sĩ quan hô to: "Bắn!"
và hai tiếng đạn rít kế tiếp nhau. Loạt đạn ria vỗ đôm đốp vào nền đá và đống
gỗ ván ở cổng thành; và hai đám khói lớn từ quảng trường bốc lên.

Tiếng vang của loạt đạn từ bức thành
đá của điện Kremli dội ra im đi được một lát thì trên đầu quân Pháp bỗng nghe có
một âm thanh kỳ lạ. Một đám quạ đông hàng nghìn con bay lên lượn vòng trên
thành, kêu quang quác và vỗ cánh rào rào. Đồng thời từ cánh cổng vang lên một
tiếng cười thét đơn độc và từ sau làn khói hiện ra một bóng người mặc kaftan
không đội mũ. Người đó cầm một khẩu súng chĩa vào quân Pháp.

Bắng viên sĩ quan pháo binh lại hô
và một phát súng trường cùng hai phát đại bác cùng nổ vào một lúc. Khói lại phủ
kín cổng thành.

Sau đống gỗ ván không thấy động đậy
gì nữa và đám quân lình và sĩ quan Pháp lại gần cổng. Trước cổng thành có ba
người bị thương và bốn người chết nằm ngổn ngang. Hai người mặc áo kaftan chạy
dọc theo bức thành, về phía Znamenka.

Viên sĩ quan chỉ đống gỗ và mấy xác
chết, nói:

- Hốt đi!

Quân Pháp bắn mấy người bị thương
cho chết hẳn và quăng xác qua tường. Những người ấy là ai, thì chẳng có người
nào biết.

Người ta chỉ có: "Hốt đi!"
rồi quẳng đi; về sau họ lại được mang đi lần nữa, cho khỏi thối. Chỉ có một
mình Tyer dành cho vong hồn họ mấy dòng chữ bao hàm nhiều ý nghĩa:

"Những
kẻ khốn nạn ấy đã xông vào thành Kreml thần thánh kiếm được mấy khẩu súng trong
kho vũ khí và bắn (cái quân khốn nạn) vào người Pháp. Người ta đã chém chết mấy
tên và quét sạch chúng ra khỏi điện Kremli".

Họ báo cáo với Mura là đường vào
thành đã mở. Quân Pháp tiến vào cổng thành và bắt đầu đóng thành doanh trại ở
quảng trường nguyên lão viện. Quân lính vứt ghế ra cửa sổ nguyên lão viện để
nhóm bếp.

Những đội quân khác kéo qua điện
Kreml và chia nhau hạ trại ở Mozaixeyka, Lebianka, Tverkaya, Nikolxkaya. Chẳng
có nơi nào còn chủ nhà nữa nên quân Pháp không đóng như khi trú quân ở nhà dân,
mà lại đóng thành một doanh trại dải rộng ra trong thành phố.

Mặc dầu rách rưới đói khát, mệt lả
và chỉ còn được một phần ba quân số cũ, quân Pháp vẫn tiến vào Moskva thành đội
ngũ chỉnh tề.

Đó là một quân đội đã mỏi mệt, kiệt
quệ nhưng vẫn là một quân đội thiện chiến hùng mạnh. Nhưng chỉ còn là một quân
đội cho tới khi các đơn vị phân tán ở rải rác trong các khu phố: quân lính vừa
chia nhau vào ở các toà nhà trống trải và sang trọng trong thành thì quân đội
đã vĩnh viễn mất đi, và thay vào đó là một thứ gì chẳng phải là dân, chẳng phải
là lính, mà là một hạng trung gian, thường gọi là những kẻ đi hôi của. Năm tuần
sau, khi chính những con người đó ra khỏi Moskva, thì họ không còn là một quân
đội nữa. Đó là một đám người đi hôi của, trong đó ai nấy đều chở hay mang theo
một đống đồ đạc mà họ cho là quý giá hay cần dùng. Mục đích của mỗi người khi
ra khỏi Moskva không còn là chinh phục đất người như trước kia nữa, mà chỉ là
làm sao giữ lại những của cải đã vớ được.

Giống như con khỉ thò tay vào hũ bốc
được một nắm hạt dẻ rồi không rút tay ra được vì miệng hũ quá hẹp, nhưng vẫn
không chịu thả hạt dẻ ra, cứ thế mà chịu chết, quân Pháp khi rút khỏi Moskva
hẳn là cũng sẽ phải chết vì cứ cố mang theo những vật đã cướp được mà không thể
nào bỏ những vật ấy lại, cũng như con khỉ không thể nào bỏ lại nắm hạt dẻ. Mười
phút sau khi một trung đoàn Pháp tiến vào một khu phố nào đấy ở Moskva và đã
không còn lại một người lính hay một sĩ quan nào nữa trong các khung cửa sổ có
thể thấy thấp thoáng những con người mặc áo ca-pốt và đi ghệt, cười ha hả đi
lang thang khắp các phòng; trong các gian chứa thức ăn và trong các hầm rượu
cũng có những người như vậy đang tha hồ sử dụng các thứ lương thực; trong các
sân cũng có những người như vậy đang mở và đập phá các cửa vựa thóc và tàu
ngựa; trong các bếp họ nhóm lửa, xắn tay áo lên, luộc, nấu, rán, nhào bột, doạ
nạt đàn bà trẻ con, trêu cho họ cười, vuốt ve họ. Và những người ấy thì dâu đâu
cũng có rất nhiều, trong các cửa hiệu trong các nhà; nhưng quân đội thì không
còn nữa.

Ngay hôm ấy các sĩ quan chỉ huy Pháp
đã ra hết lệnh này đến lệnh nọ cấm các đơn vị không được phân tán trong thành
phố, nghiêm cấm việc hành hung cư dân và trộm cắp của cải, ấn định ngay tối hôm
ấy sẽ tổng kiểm điểm quân số; nhưng dù có tiến hành biện pháp gì đi nữa thì
những con người mà trước đây đã từng làm thành một quân đội, đều vẫn cứ tràn
dần ra khắp cái thành phố trống trải giàu có và lắm tiện nghi, lắm thức ăn uống
này.

Moskva không còn dân cư nữa, và như
nước thấm vào cát, quân lính bị hút sâu vào các phố phường từ điện Kreml là nơi
họ vào trước tiên, toả ra bốn phía như những cánh sao, không gì cưỡng lại được.
Mấy người lính kỵ mã vào nhà một người lái buôn còn nguyên đồ đạc, tầu ngựa rộng
rãi thừa chỗ buộc ngựa, nhưng vẫn sang choán thêm ngôi nhà bên cạnh vì họ có
cảm tưởng là nhà này còn tốt hơn nữa. Nhiều người chiếm đến ba bốn nhà, lấy
phấn viết tên mình ở trước cổng, cãi cọ và thậm chí còn đánh nhau với đơn vị
khác để tranh nhà. Chưa kịp dọn xong chỗ ở, quân lính đã chạy ra ngắm cảnh phố
phường và khi nghe đồn là dân cư đã bỏ hết của cải lai, họ ùa nhau chạy đến
những nơi nào có thể vớ được nhiều đồ vật quý giá. Các sỹ quan chỉ huy đi gọi
quân lính trở về, cũng bất giác làm theo họ ở khu Karetny Riad có những cửa
hàng đóng xe còn để lại rất nhiều xe cộ, thế là các tướng tá tấp nập kéo đến để
chọn xe.

Những người dân còn ở lại mời các sỹ
quan chỉ huy về nhà, mong dựa vào họ để khỏi bị quân lính cướp bóc. Của cải
nhiều vô số tưởng chừng không sao kể xiết; quanh những nơi có quân Pháp đóng,
đâu đâu cũng thấy còn những nơi chưa khám phá, chưa bị chiếm và quân Pháp cứ có
cảm giác là những nơi ấy, lại còn có nhiều của cải hơn. Và Moskva nỗi lúc một
hút sâu quân Pháp vào lòng. Khi đổ nước xuống đất khô, thì nước cũng biến mất,
mà đất khô cũng không còn; khi một quân đội đói khát tiến vào một thành phố trù
phú bị bỏ trống cũng vậy; quân đội cũng biến mất, mà thành phố trù phú cũng
chẳng còn: chỉ còn lại rác rưởi, trộm cắp và hoả hoạn.

Người Pháp gán việc đốt cháy Moskva
cho lòng ái quốc hung tàn và Raxtovsin; người Nga gán việc đó cho sự tham tàn
dã man của quân Pháp. Thật ra không có và không thể có nguyên nhân nào gây nên
vụ hoả hoạn Moskva, nếu hiểu nguyên nhân đây là phần trách nhiệm của một người
hay một số người nào đó tới Moskva cháy là vì nó được đặt vào những điều kiện
mà bất cứ thành phố nào làm bằng gỗ cũng phải cháy, bất luận trong thành phố đó
có hay không có một trăm ba mươi cái vòi chữa cháy hạng tồi, Moskva tất phải
cháy là vì dân cư đã đi hết. Nó cũng cháy một cách tất nhiên như một đống vỏ
bào tất phải cháy nếu cứ có những tán lửa liên tiếp rơi xuống trong mấy ngày
liền. Một thành phố làm bằng gỗ mà ngay khi các dân cư các chủ nhà còn ở lại và
trong thành phố còn có một đội cảnh sát, hầu như ngày nào cũng có đám cháy, thì
không thể nào không cháy khi trong thành phố không có dân ở nữa mà chỉ có những
đội quân hút thuốc, lấy ghế của viện nguyên lão ra đun bếp trên quảng trường
của viện, mỗi ngày hai lần thổi nấu. Vào thời bình, chỉ cần có những đơn vị bộ
đội trú quân ở trong các làng thuộc một địa phương nhất định là số đám cháy
trong địa phương ấy tăng lên. Thế thì khả năng xảy ra hoả hoạn còn tăng lên đến
chừng nào khi một đội quân ngoại quốc đóng trong một thành phố bằng gỗ không dân?
Cái lòng ái quốc hung tàn của Raxtovsin và sự tham tàn dã man của quân Pháp
không hề dính dáng gì ở đây cả.

Moskva cháy là vì những tẩu thuốc,
những cái bếp, những đống lửa, vì sự cẩu thả của quân lính địch, của những kẻ ở
trong nhà nhưng không phải là chủ nhà. Và chăng dù có những kẻ cố tình đi đốt
chăng nữa. - Điều này rát khó tin, vì chẳng có lý do gì để đốt nhà, và dù sao
đốt nhà như vậy cũng là một công việc khó khăn và nguy hiểm, thì cũng không thể
xem những người đó là nguyên nhân, bởi vì không có họ thì cơ sự cũng vẫn thế.

Dù người Pháp lấy làm thích thú buộc
tội cho tính hung tàn của Raxtopsin, dù người Nga lấy làm thích thú buộc tội
cho tên giặc Bonaparte, rồi về sau lại cho rằng bàn tay nhân đạo họ đã giơ ngọn
đuốc anh hùng lên đốt cháy kinh đô, thì cũng không thể nào không thấy rằng vụ
hỏa hoạn này không thể có một nguyên nhân trực tiếp như vậy, bởi vì thế nào rồi
Moskva cũng phải cháy, như bất cứ làng nào, bất cứ nhà máy nào, bất cứ ngôi nhà
nào mà các chủ nhà đã bỏ đi để cho người lạ vào làm chủ và tha hồ nấu nướng.
Moskva đã bị dân đốt cháy, quả đúng như vậy; nhưng đây không phải là những
người dân ở lại trong thành phố mà là những người dân đã bỏ đi.

Khi bị địch quân chiếm đóng, Moskva
không còn nguyên vẹn được như Berlin, Viên và các thành phố khác, chỉ vì dân cư
của nó không bưng bánh mỳ và muối(2), không mang chìa khóa(3) ra đón quân Pháp,
mà lại bỏ thành phố ra đi.

(2)
Tượng trưng cho lòng mến khách (theo phong tục Nga)

(3)
Chìa khóa tượng trưng của thành phố, để tỏ ra rằng thành phố mở cửa không chống
cự.

Phần
XI

Chương
- 26 -

Suốt ngày mồng hai tháng chín, quân
Pháp ngấm dần vào Moskva, tỏa rộng ra bốn phía như những cánh sao. Đến tối ngày
hôm ấy nó mới ngấm đến tận khu vực mà Piotr hiện trú ngụ.

Sau hai ngày vừa qua sống cô độc
trong một trạng thái gần như bệnh điên, một ý nghĩa độc nhất đang ám ảnh chàng.
Chàng cũng không biết ý nghĩ này đến với chàng như thế nào và từ bao giờ, nhưng
bây giờ nó khống chế chàng dến nỗi chàng không còn nhớ gì những việc xảy ra
trong quá khứ, mà cũng chẳng hiểu tí gì về những việc đang diễn ra hiện nay; và
tất cả những điều mà chàng thấy trước mắt và nghe bên tai đều mờ ảo như trong
giấc mộng.

Piotr bỏ nhà ra đi chỉ vì muốn thoát
khỏi những yêu cầu rối ren hỗn tạp của cuộc sống đang vấy bọc lấy chàng như một
màng lưới mà trong tình trạng hiện nay chàng không sao đủ sức gỡ ra được…

Chàng đến nhà Ioxif Alekxeyevich lấy
cớ là để chọn sách vở giấy tờ của người quá cố, nhưng thực ra chỉ là để tìm
cách khuây khỏa những mối lo âu bứt rứt của cuộc sống. Và trong tâm trí chàng,
những kỷ niệm về Ioxif Alekxeyevich gắn liền với cái thế giới của những tư
tưởng vĩnh hằng yên tĩnh và trang nghiêm, hoàn toàn trái ngược với những nỗi lo
lắng rối ren mà chàng đang cảm thấy mình bị lôi cuốn vào. Chàng tìm ra một nơi
trú ẩn tĩnh mịch, và quả nhiên đã tìm thấy chỗ ẩn náu đó trong gian phòng làm
việc của Ioxif Alekxeyevich. Trong căn phòng im phăng phắc, khi chàng ngồi
xuống, chống hai khuỷu tay lên cái bàn giấy phủ bụi của người quá cố trong
tưởng tượng của chàng lần lượt hiện ra, thanh thản và đầy ý nghĩa, những kỷ
niệm của những ngày vừa qua, đặc biệt là của trận Borodino và cái cảm giác mà
chàng không sao cưỡng nổi. - rằng mình vô nghĩa và dối trá quá chừng so với sự
chân thật, giản dị và mạnh mẽ của lớp người đã in sâu vào lòng chàng thành một
chữ giản đơn: họ. Khi Geraxim vào phòng đột ngột làm cho chàng sực tỉnh, chàng
bỗng nảy ra ý nghĩ mình sẽ cùng nhân dân tham dự vào công cuộc phòng thủ Moskva
sắp tới mà chàng biết là đã được dự định. Và để thực hiện ý định ấy chàng lập tức
bảo Geraxim kiếm cho chàng một chiếc áo kaftan và một khẩu súng ngắn, và cho
người lão bộc biết rõ là chàng sẽ giấu kín tên tuổi và ở nhà Ioxif
Alekxeyevich. Rồi, trong cái ngày đầu sống cô độc và nhàn rỗi (Piotr dã mấy lần
cố gắng lưu ý đến cái bản thảo viết tay của hội Tam điểm, nhưng không được),
chàng nhiều lần nhớ đến ý nghĩa thần bí của cái quan hệ giữa tên chàng với bên
Bonaparte. Russie Besuhof(1), là người có sứ mệnh chấm dứt sự hoành hành của
con ác thú ấy. Trước đây chàng cũng đã nhiều lần nghĩ đến điều này, nhưng đó
chỉ là một ước mơ vụt thoáng qua trong tưởng tượng một cách vô cớ và không để
lại dấu vết gì.

(1)
Người Nga Beduhop

Sau khi mua được chiếc áo kaftan
(chỉ nhằm mục đích tham dự vào việc bảo vệ Moskva và nhân dân), Piotr đã gặp
gia đình Roxtov, và khi Natasa đã nói với chàng: "Anh ở lại à? Chà, hay
quá!" thì chàng bỗng có ý nghĩ rằng quả cũng hay thật, dù Moskva có thất
thủ thì chàng cũng nên ở lại để hoàn thành cái nhiệm vụ tiền định cho chàng.

Ngày hôm sau, với một ý nghĩ duy
nhất là quyết không tiếc thân cho mình và không thua kém họ chút nào, Piotr đã
ra cửa ô Trigorư. Nhưng khi chàng quay về nhà vì đã biết rõ người ta không bảo
vệ thì điều mà trước kia chàng xem như một khả năng thôi nay đã trở thành một
việc tất nhiên phải làm và không sao tránh khỏi.

Chàng nhất định phải dấu kín tên họ
ở lại Moskva tìm cách gặp Napoléon và giết hắn đi: một là chết, hai là chấm dứt
cơn hoạn nạn của toàn thể châu Âu, cơn hoạn nạn mà Piotr cho là chỉ do một mình
Napoléon gây ra. Piotr biết rất rõ vụ mưu sát Napoléon do người sinh viên
Đức(2) tiến hành ở Viên năm 1809, và cũng biết người sinh viên đó đã bị xử bắn.
Và điều nguy hiểm có thể hy sinh cả tính mạng, trong khi thực hiện ý định lại
càng cổ vũ Piotr thêm.

Hai tình cảm có sức mạnh ngang nhau
không sao cưỡng nổi đang lôi cuốn Piotr tới chỗ thực hiện ý định đó. Trước hết,
Piotr thấy mình nhất thiết phải hy sinh và đau khổ khi đã nhận thức được tai
hoạ chung: Đó chính là cái tình cảm đã khiến chàng đến Mozaisk vào ngày hai
mươi nhăm tháng trước và dấn thân vào nơi lửa đạn, rồi đến nay bỏ nhà ra đi, từ
giã cảnh sinh hoạt sang trọng và xa xỉ đến ngủ trên một chiếc đi-văng cứng
không cởi áo ngoài, và cũng chia sẻ bữa ăn với Geraxim; tình cảm thứ hai là
lòng khinh miệt mơ hồ mà chỉ riêng người Nga mới có đối với tất cả những cái gì
ước lệ giả dối, nhân tạo, đối với tất cả những cái gì mà người đời thường xem
là hạnh phúc tuyệt dỉnh của nhân loại. Lần đầu tiên, Piotr có cái tình cảm kỳ
lạ và đầy sức quyến rũ ở cung Xlobodxki, khi mà chàng chợt hiểu rằng của cải,
quyền binh, tính mệnh, tất cả những điều mà con người ta ra sức xếp đặt và giữ
gìn. - Tất cả những thứ đó nếu có chút giá trị gì thì chẳng qua cũng là ở cái
khoái cảm mà người ta có được khi vứt bỏ nó đi. Đó chính là cái tình cảm khiến
người lính chí nguyện đem nướng đồng kô-pếch cuối cùng của mình trong quán
rượu, khiến người quá chén vô cớ đập vỡ gương và kính, tuy cũng biết rằng sẽ
phải đem những đồng tiều cuối cùng trong túi ra đền. Đó là cái tình cảm khiến
người ta làm những việc điên rồ (theo con mắt người tục) như để thử thách sức
mạnh và quyền lực của mình, cái tình cảm chứng tỏ rằng có một toà án cao cả
đứng ở bên trên những quy ước của nhân loại và xét xử cuộc sống.

(2)
Tên là Phridrich Sttap (1792 - 1809)

Từ ngày Piotr thử nghiệm lần đầu tiên
cái tình cảm này ở cung Xlobodxki, chàng đã luôn luôn chịu ảnh hưởng của nó,
nhưng mãi đến bây giờ chàng mới có khả năng thoả mãn tình cảm đó một cách trọn
vẹn. Hơn nữa, trong giây phút này việc mà Piotr đã làm theo hướng ấy khiến
chàng giữ vững ý định và không cho phép chàng từ bỏ nó nữa. Việc chàng bỏ nhà
ra đi, chiếc áo kaftan, khẩu súng ngắn, những lời chàng nói với gia đình Roxtov
rằng chàng sẽ ở lại Moskva, tất cả những điều đó không những sẽ mất hết ý
nghĩa, mà còn lại đâm ra đáng khinh và lố bịch nữa (Piotr rất sợ điều này), nếu
như sau đó chàng lại rời Moskva ra đi như những người khác.

Cơ thể của Piotr lúc bấy giờ - Đó là
lệ thường đối với bất kỳ ai. - Cũng phù hợp với tâm trạng của chàng. Những thức
ăn thô tạp mà chàng vốn không quen ăn, những cốc rượn vodka mà chàng uống mấy
hôm nay, tình trạng thiếu rượu nho và xì-gà, bộ đồ lót bẩn lâu ngày không thay,
hai đêm gần như mất ngủ trên chiếc đi-văng ngắn thay giường, tất cả những cái
đó khiến cho Piotr luôn luôn ở trong tình trạng thần kinh khích động gần như
điên.

Bấy giờ đã hơn một giờ trưa. Quân
Pháp đã tiến vào Moskva. Piotr biết thế, nhưng chàng vẫn chưa hành động, mà chỉ
ngồi nghĩ đến ý định của mình, suy đi tính lại thật tỉ mỉ những việc sẽ làm.

Trong khi mơ tưởng như vậy, chàng
không hình dung được rõ rệt khi chàng hoạt động, khi Napoléon chết sẽ ra sao,
nhưng lại hình dung được cảnh mình bị sát hại và thái độ dũng cảm của mình một
cách rõ rệt lạ thường, và thấy khoái trá nhưng cũng buồn buồn khi nghĩ đến cảnh
ấy.

"Phải, vì mọi người, một mình
ta phải làm tròn việc đó, hay là chết! - Pier thầm nghĩ. - Phải, ta sẽ đi… rồi
đột nhiên… Dùng súng hay dùng hay dao găm?… thì cũng thế thôi. Đây không phải
là cá nhân ta, đây là bàn tay của Thượng đế trừng phạt ngươi… ta sẽ nói thế
(Piotr sắp sẵn những lời sẽ đem ra nói khi giết Napoléon) - "Thôi được các
ngươi bắt ta đi, hay hành hình ta đi" - Piotr nhẩm nói một mình vẻ mặt
buồn rầu nhưng rắn rỏi, đầu cúi gằm.

Trong khi Piotr đứng ở giữa phòng
suy nghĩ mình như vậy thì cửa phòng bỗng mở toang ra và Makar Alekxeyevich xuất
hiện trên ngưỡng cửa. Cái dáng dấp xưa nay vẫn rụt rè của hắn ta bây giờ đã
thay đổi hẳn. Chiếc áo dài của hắn phanh rộng ra; mặt hắn đỏ gay và trông rất
dễ sợ. Rõ ràng là hắn đang say rượu. Thoạt mới trông thấy Piotr, hắn luống cuống
một lúc, nhưng khi nhận thấy vẻ mặt chàng cũng có vẻ luống cuống, hắn dạn dĩ
lên ngay và bước loạng choạng trên đôi chân khẳng kheo tiến vào giữa phòng.

- Chúng nó sợ rồi. - Makar
Alekxeyevich nói, giọng khàn khàn, có vẻ tin cậy. - Tôi đã bảo là tôi không
hàng, tôi đã bảo mà… có phải không thưa ngài?- Hắn ngẫm nghĩ một lát rồi chợt
trông thấy khẩu súng ngắn để trên bàn, hắn chộp lấy một cách nhanh nhẹn không
ngờ và chạy ra hành lang.

Geraxim và người gác cổng chạy theo
Makar Alekxeyevich và cố giật khẩu súng ra. Piotr ra hành lang, nhìn theo lão
dở điên dở dại, vừa thấy thương vừa ghê tởm. Makar Alekxeyevich nhăn nhó vì
đang cố lấy gân giữ khẩu súng lại, cất tiếng khàn khàn quát tháo huyên thuyên,
chắc là đang tưởng tượng ra một việc gì long trọng lắm.

- Báo động! Xung phong! Chỉ láo,
không tước được súng của tao đâu! - Hắn quát.

- Thôi xin ông thôi cho, ông làm ơn
bỏ súng ra cho. Kìa, ông!…- Geraxim tìm cách đẩy hắn vào trong nhà.

- Mi là ai? Bonapate? - Makar
Alekxeyevich quát lên.

- Như thế không tốt đâu; ông ạ. Xin
mời ông về phòng nghỉ một chút. Xin ông thả khẩu súng ra cho.

- Xéo ngay, hỡi tên nô lệ đáng khinh
kia! Chớ có chạm vào người ta! Người thấy chưa?- Makar Alekxeyevich quát, tay
hoa khẩu ngắn. - Xung phong!

Geraxim nói thầm với người gác cổng:

- Nắm lấy!

Họ chộp lấy hai cánh tay Makar
Alekxeyevich và kéo vào phía cửa.

Trong phòng ngoài vang lên những
tiếng rú khàn khàn của người say rượu đang kêu thất thanh và tiếng người lôi
kéo nhau huỳnh huỵch.

Bỗng một tiếng rú khác, một tiếng rú
the thé của một người đàn bà từ ngoài thềm đưa vào, rồi bà nấu bếp chạy vào
phòng ngoài.

- Chúng nó đấy! Cha mẹ ơi! Đúng là
chúng nó rồi… Bốn đứa cưỡi ngựa! - Bà ta thét.

Geraxim và người gác cổng thả Makar
Alekxeyevich ra và trong dãy hành lang bây giờ im phăng phắc nghe rõ mồn một
tiếng mấy bàn tay gõ lên cánh cửa ra vào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3