Lá cờ ma - Chương 05 - Phần 1
Chương 5: Hài cốt của Tôn
Huy Tổ
Chỉ với vài ba lần nhấc lên nhấc xuống một
tấm kim loại hình thù kì dị, Vệ Tiên đã dễ dàng mở được cánh cửa sắt của gian phòng
ngầm.
“Anh vẫn còn nhớ tình huống mà bác Chung
Thư Đồng gặp phải vào buổi sớm hôm ấy khi vội vã ra ga xe lửa chứ?”
“Ừ, anh có viết việc đó vào trong cuốn Sổ
tay công tác”, Vệ Tiên đóng cánh cửa lại và cả hai chúng tôi bị khóa chặt trong
bóng tối sau một tiếng “bâng.”
“Bây giờ ngẫm lại tôi mới thấy lạ là tại
sao mình lại bỏ qua một manh mối rõ ràng như thế, khà khà, mà ngay cả anh cũng bỏ
qua nó.”
Vệ Tiên không đáp lời tôi, anh ta lấy ra
một chiếc đèn pin được chế tạo đặc biệt và bật nó lên. Một luồng ánh sáng chói gắt
tỏa ra từ chiếc đèn, nhưng nó không hề phát huy tác dụng giữa khoảng không gian
đen như mực, mà ngược lại, càng khiến bốn bề xung quanh trở nên thâm u hơn.
Vệ Tiên điều chỉnh lại chiếc đèn pin, góc
độ của tấm kính quang học có chút thay đổi, luồng ánh sáng tỏa rộng hơn hẳn. Xem
ra chiếc đèn pin này là một trợ thủ đắc lực của Vệ Tiên trên đường hành tẩu lăng
mộ người chết nằm sâu dưới lòng đất.
“Bây giờ thì anh đã nghĩ ra rồi chứ. Năm
đó, bác Chung Thư Đồng nhìn thấy rất nhiều xe đất được chở ra khỏi một tòa nhà ba
tầng, nói cách khác thì khi đó, ở tòa nhà ba tầng này có một lối vào đường hầm.
Hiện nay, tòa nhà ba tầng đó đã bị dỡ bỏ, dù nó hãy còn tồn tại cũng vô tác dụng,
vì sau khi công trình hoàn thành được già nửa, lối ra chỉ để vận chuyển xe chở đất
đã bị lấp lại. Nhưng tòa nhà ba tầng trung tâm mà bốn anh em nhà họ Tôn năm xưa
từng sống thì rất có thể vẫn còn giữ một lối vào, mà nếu lối vào đó có thật, nó
phải nằm ở gian phòng ngầm của ông Tiền Lục.”
Nhờ ánh sáng của chiếc đèn pin, Vệ Tiên tìm
thấy mấy cơ quan ngầm, nhưng chúng đều không có phản ứng.
“Khỉ thật, căn phòng cũ rích không thể tự
ngắt nguồn điện được, lẽ nào ngày thường ông lão Tiền Lục dở dại dở điên trung thành
giữ cửa cho chủ suốt sáu, bảy mươi năm không sử dụng đèn?”
Tôi nhớ lại tình cảnh lần trước tới thăm
ông lão, xem chừng nhiều khả năng là thế.
Một ông lão sống trong bóng tối, chỉ vừa
tưởng tượng tới cuộc sống âm u của ông lão, tôi đã thấy hơi thở của mình nặng nề
thêm mấy lần rồi.
Gian phòng ngầm chỉ rộng chừng hai mươi mét
vuông, tuy không rộng lắm nhưng việc tìm kiếm một đường hầm chưa hẳn có thật cũng
trở nên vô cùng khó khăn nếu chỉ nhờ vào ánh sáng của đèn pin.
Tôi không rành về lĩnh vực này lắm nhưng
anh chàng Vệ Tiên thì khá chuyên nghiệp. Động tác linh hoạt của anh ta nói lên điều
đó. Tôi đứng ở cạnh giường, quan sát luồng ánh sáng chầm chậm chuyển động tỏa ra
từ chiếc đèn pin. Anh chàng Vệ Tiên lúc sờ, lúc gõ vào những chỗ được chiếu sáng,
động tác thành thạo. Không có vật nào bị xoay lật.
“Ắt có một ngày sẽ chôn thây trong mộ của
người ta đấy”, trí não của tôi lại hiện lên câu nói cả quyết của ông lão Vệ Bất
Hồi.
Tôi vịn tay dọc theo chiếc giường. Trên chiếc
giường này hôm qua nằm chỏng chơ một thi thể cứng lạnh. Trước khi chủ nhân của thi
thể ấy ra ma, ông ta đã từng cảm khái thốt lên “Ra quân chưa thắng thân mất trước
- Mãi để anh hùng tay áo ướt.” Giờ này ngẫm lại, tôi mới thấy lời cảm thán ấy phần
nhiều ám chỉ nỗi xót xa cho cái chết dưới lòng đất của bốn anh em nhà họ Tôn.
“Anh đi đi, đến chỗ đó, đi đi”, bên tai tôi
dường như văng vẳng giọng nói khản đặc của ông lão Tiền Lục âm thầm vang vọng trong
bóng tối.
Tình cảnh lúc đó tôi vẫn còn nhớ, cánh tay
ông ấy vẫy vẫy về phía tôi.
Có phải ông ấy muốn chỉ cho tôi lối vào gian
phòng ngầm?
Tôi nằm vật xuống giường, dát giường trơ
cứng. Tôi nhớ lại động tác của ông lão Tiền Lục ngày hôm đó cũng nằm ở vị trí giống
như tôi bây giờ. Hôm đó, khi tôi bước vào và đẩy cánh cửa, gian phòng le lói chút
ánh sáng từ bên ngoài lọt vào, giúp tôi trông thấy lờ mờ cái hình hài đen thui của
ông lão.
“Na Đa, anh đang làm gì thế?”, nghe thấy
âm thanh vang lên, Vệ Tiên quay đầu lại, chiếc đèn pin trong tay anh ra rọi thẳng
vào cánh tay đang huơ lên của tôi.
Tôi ngồi dậy, chỉ tay về phía khoảng không
gian chênh chếch phía đối diện.
“Anh nhìn đằng kia xem, có thể là ở chỗ đó
đấy!”
Ánh sáng của chiếc đèn pin chuyển hướng chiếu
sang góc phòng phía tay tôi chỉ, bên đó là một chiếc tủ sách.
“Chắc chắn là không ổn rồi, ở đây không có
đèn, ông ta đọc sách kiểu gì?”
“Lại đây giúp tôi một tay”, Vệ Tiên vẫy tôi.
Tủ sách nặng trịch bị chúng tôi xê dịch.
Vệ Tiên gõ gõ lên tường mấy cái.
“Lạ thật, bên trong đặc.”
“Thật không?”, tôi giơ cánh tay rờ rẫm trên
tường, cảm thấy đất dưới chân đột nhiên trở nên không bằng phẳng.
Tôi giậm mạnh hai bước.
“Là khoảng không đấy!”, tôi và Vệ Tiên đồng
thanh kêu lên.
“Quả nhiên là ở đây”, tôi lại cố sức giậm
thêm mấy cái nữa, rồi bàn chân bỗng trở nên mềm nhũn, cả người tôi thụt mạnh xuống
dưới cùng với âm thanh của đồ vật bị nứt vỡ.
Tôi “á” lên một tiếng kinh hoàng, bàn tay
phải đang vùng vẫy nắm chặt lấy bàn chân của Vệ Tiên, hai chân treo lơ lửng, tôi
hãi hùng không biết cái động bất ngờ xuất hiện này sâu bao nhiêu.
Chân trái của Vệ Tiên giật lùi một bước,
anh ta ngồi xổm xuống tóm lấy bàn tay tôi.
“Anh thả lỏng chân tôi ra, nền đất chỗ tôi
đứng cũng không chắc chắn lắm đâu, đừng để cả hai cùng rơi xuống, nắm chặt lấy tay
tôi.”
Vệ Tiên hết tóm lại kéo, cuối cùng cũng lôi
được tôi lên mặt đất. Chiếc đèn pin trong tay anh ta rơi xuống cái động đen ngòm.
Tôi vẫn chưa thể gọi hồn vía trở về ngay được.
Lối vào này hẳn đã bị ông lão Tiền Lục đóng
lại và chặn một tủ sách nặng trịch lên trên trong nhiều năm nên nó đã bắt đầu lõm
xuống. Bởi thế, khi tôi giậm mạnh mấy cái, lớp đất bùn không chống đỡ nổi làm tôi
thụt xuống dưới.
Đứng trên cửa động nhìn xuống dưới, tôi mới
nhận ra, ban nãy nếu không tóm được chân của Vệ Tiên, tôi cũng không đến nỗi nguy
hiểm vì cái động này chỉ sâu khoảng hơn hai mét, chưa đến ba mét.
Vệ Tiên vỗ vỗ vào vai tôi, nói: “Đi thôi,
biết lối vào ở đây là được rồi. Hôm khác chúng ta lại tới, tôi phải chuẩn bị một
số thứ. Mà anh không nhận ra là không khí ở đây hơi ngột ngạt sao?”
Tôi gật đầu, cùng Vệ Tiên bước mau ra khỏi
gian phòng ngầm. Tôi có cảm giác, không khí ở đây có phần bức bối khó chịu, cũng
may là mới chỉ qua sáu, bảy mươi năm nên bầu không khí bên trong không đến nỗi trở
thành một luồng khí độc, giết hại tính mệnh con người.
Chiếc cửa sắt được khóa lại nhữ cũ, nhưng
chìa khóa để gỡ mớ bòng bong của sáu, bảy mươi năm về trước thì chúng tôi đã nắm
trong tay.
Mấy ngày sau đó, Vệ Tiên không hề liên lạc
với tôi.
Những ngày sau đó, tôi không thể tập trung
vào những cuộc phỏng vấn. Tôi chỉ loắng ngoắng viết bài cho xong. Mỗi khi chuông
điện thoại kêu lên, tôi lại hấp tấp nhìn những con số hiện lên trên màn hình. Lòng
đất mà tôi chưa từng biết đó rốt cuộc ẩn chứa điều gì?
Cuối cùng, tôi cũng nhận được điện thoại
của Vệ Tiên vào năm ngày sau đó.
Anh ta đã chuẩn bị xong xuôi.
Thứ ba, ngày 22 tháng 6.
Tôi gọi điện thoại tới tòa soạn, báo rằng
mình bị trật khớp chân, phải tới bệnh viện khám, nếu tình trạng tốt, buổi chiều
tôi có thể đến tòa soạn. Nói cách khác là tôi đang kiếm cho mình một cái cớ để không
tới tòa soạn. Không bị giam ở căn hầm đó vài ngày thì chắc cũng không sao.
Đương nhiên, vấn đề không phải là có thể
bị giam ở đó vài ngày hay không, mà là có ra khỏi đó được hay không.
Chín rưỡi sáng, tôi và anh chàng Vệ Tiên
khệ nệ xách hai chiếc ba lô du lịch to oạch gặp nhau trên đường Phổ Tề, nơi cách
tòa nhà ba tầng trung tâm không xa lắm.
“Cái này là của anh”, Vệ Tiên đưa một chiếc
ba lô cho tôi.
“Đợi lát nữa hẵng xem”, Vệ Tiên vội cản khi
thấy tôi khom lưng định mở khóa.
Chúng tôi chờ thêm mấy phút, chọn lúc không
có người qua lại, lẻn nhanh vào cửa lớn của “khu ba tầng.” Nếu có người trông thấy
hai chúng tôi ôm hai chiếc ba lô đại tướng đi vào gian phòng ngầm, chúng tôi sẽ
khó lòng mà giải thích rõ với người ta cho quang minh.
Chúng tôi mở cánh cửa sắt, đặt hai chiếc
ba lô du lịch vào trong, rồi quay trở ra bên ngoài, đứng dưới ánh sáng mặt trời.
Cửa vẫn để ngỏ.
Trước tiên, phải khử hết luồng khí u uất
bên trong cái đã.
Người dân trong “khu ba tầng” sẽ không để
ý đến cánh cửa sắt của gian phòng ngầm lúc nào cũng mờ mờ tối tối bị để ngỏ. Muốn
biết họ phải đi xuống dưới cầu thang, bước tới trước cánh cửa và quan sát.
“Phải đợi bao lâu?”, tôi hỏi Vệ Tiên.
“Khoảng tàn hai điếu thuốc để không khí ở
lối ra trong lành hơn”, Vệ Tiên lấy ra bao thuốc, tôi rút một điếu và châm lửa.
“Tôi thấy đường hầm bên trong không nhỏ đâu,
khử khí độc bằng cách này liệu ổn chứ? Tôi đọc xem phim tài liệu nước ngoài thì
thấy, muốn làm không khí nơi này trở nên trong lành phải bật quạt thông gió trong
một thời gian nhất định.”
“Không cần tới thứ đó, tôi đã chuẩn bị một
bộ quần áo đầy đủ, có cả bình oxy nữa”, gương mặt Vệ Tiên thoáng hiện lên nụ cười.
Cánh cửa sắt lại bị đóng kín.
Hai chúng tôi đứng trước miệng hố - nơi tôi
từng bị thụt xuống. Vệ Tiên cầm đèn pin soi xuống bên dưới mấy lần, rồi lấy từ trong
chiếc ba lô du lịch ra một chiếc búa thép đầu nhọn, gõ xuống miệng hố mấy cái, làm
miệng hố rộng gấp đôi lúc trước.
Cái nắp ông lão Tiền Lục làm để chặn trước
miệng hố đã bị phá vỡ hoàn toàn. Giờ đây, chúng tôi có thể nhìn thấy một cái hố
hình tròn, đường kính chừng hơn một mét hiện ra dưới ánh sáng của chiếc đèn pin.
Trên bức tường phía dưới hố có gắn một chiếc cầu thang sắt đã hoen gỉ.
“Chúng ta mặc quần áo vào rồi hãy xuống dưới”,
vừa nói Vệ Tiên vừa lấy từ trong ba lô một bộ quần áo.
“Là quần áo phòng hóa chất à?”, tôi mắt chữ
O mồm chữ A nhìn anh chàng Vệ Tiên đang lúi húi mặc quần áo.
“Không, là quần áo du hành vũ trụ đấy”, chiếc
mũ chụp đầu trong suốt của anh ta làm đứt đoạn luồng ánh sáng phát ra từ chiếc đèn
pin.
“Bộ quần áo này có thể ngăn không cho khí
độc xâm hại cơ thể, bình oxy đeo trên lưng có chứa khí oxy nén dùng được trong bốn
tiếng, nguồn năng lượng trong bình đảm bảo cho nó có thể thay mới khí oxy trong
vòng bốn mươi tám tiếng, còn nữa, bộ quần áo này là quần áo chống đạn đấy, nó sẽ
bảo vệ chúng ta khỏi mấy mũi tên bắn ra từ bên trong mộ cổ nếu trong đó có bẫy ngầm.
Thôi nào, đừng đờ người ra thế chứ, mau mặc quần áo vào đi!.”
Quần áo chống đạn? Lại còn cả bình oxy có
thể thay mới khí oxy trong vòng bốn mươi tám tiếng? Tôi không thể không thán phục
sự thần thông quảng đại của Vệ Tiên, những trang bị vừa kể trên không phải người
bình thường nào cũng được trông thấy.
“Ồ, thế ra hai hôm nay anh bận mải chuẩn
bị những thứ này à? Một bộ quần áo như thế này chắc phải có giá trên trời đấy nhỉ!”
“Giá cũng bình thường thôi nhưng đồ thì ít
quá, tôi vốn có một bộ cho riêng mình, còn một bộ nữa phải mượn của người khác,
hi vọng nó sẽ vừa với anh.”
Giá cũng thường thôi ư? Tôi không tin điều
đó! Có lẽ do tiêu chuẩn đánh giá về tiền bạc của tôi và anh ta không giống nhau.
Mặc bộ quần áo này lên người thật không dễ
chút nào, tôi cũng xoay sở xong nhờ sự giúp đỡ của Vệ Tiên. Những chiếc cúc được
đóng chặt, cảm giác không khó chịu lắm, chỉ trừ chiếc bình oxy đeo trên lưng là
hơi nặng. Tôi vẫn có thể nghe rõ tiếng của Vệ Tiên.
Một tay cầm chiếc đèn pin được chế tạo một
cách đặc biệt mà Vệ Tiên đưa cho tôi, một tay ôm chiếc túi nhỏ tôi mang theo trước
khi đi, bên trong có đồ nghề vô cùng quan trọng của tôi: chiếc máy ảnh kĩ thuật
số. Tôi bước ngay sau Vệ Tiên, từ từ bước xuống dũng đạo[1] bên dưới
theo chiếc cầu thang sắt.
[1] Dũng đạo: đường dẫn vào sân hoặc nghĩa
trang, ở đây nghĩa là đường đi trong mộ cổ.
Bộ quần áo ôm sát cơ thể, nên hành động không
đến nỗi bất tiện. Bộ quần áo này quả nhiên là một thứ trang bị hoàn hảo. Chiếc bình
oxy đeo sau lưng cũng không bị lộ ra bên ngoài, mà được kẹp giữa bộ quần áo, như
thế nó sẽ được bảo vệ bằng chất liệu đặc biệt của bộ quần áo, không dễ bị xây xước
hay va đập.
Hành lang thấp và nhỏ hẹp, tôi chỉ có thể
khom lưng bước đi theo sau anh chàng Vệ Tiên. Dũng đạo chỉ cao chừng một mét sáu,
lúc đầu do không cẩn thận, chiếc mũ chụp đầu của tôi bị cụng phải trần nhà, làm
tôi sợ mất mật, ngộ nhỡ nó hỏng, tôi lấy tiền đâu mà đền.
Hai chúng tôi chưa đi được bao lâu, thì ánh
sáng của chiếc đèn pin trong tay rọi tới một chiếc khay sắt nhỏ thò ra khỏi vách
tường.
“Nó là cái gì thế?”, tôi hỏi.
Vệ Tiên dừng chân, lấy từ trong ba lô ra
một cái chai lớn, đổ thứ gì đó vào bên trong khay sắt.
“Là đèn dầu đấy”, Vệ Tiên nói, rồi lấy trong
túi ra một sợi bấc đèn và đặt vào bên trong.
Tôi nhìn anh ta châm đèn, thoáng chút ngạc
nhiên.
“Anh mang cả những thứ này theo ư?”
“Thực ra, trong các ngôi mộ cổ lớn thường có những chiếc đèn kiểu
này, nếu chưa bị đột nhập thì bên trong tất có những chiếc đèn chưa được sử dụng,
nhưng ngôi mộ cổ này từng chứng kiến sự xâm phạm của bốn anh em nhà họ Tôn nên tôi
đoán những chiếc đèn đã được dùng, bèn mang theo một ít dầu và bấc, không ngờ nó
lại hữu dụng trong cái dũng đạo này.” Khi Vệ Tiên nói tới mấy chữ “không ngờ”, giọng
điệu của anh ta có phần huênh hoang.
Anh ta suy nghĩ rất thấu đáo hoặc anh ta muốn chứng tỏ lời phỏng
đoán của ông lão Vệ Bất Hồi là hoàn toàn sai lầm theo cách này.
Hai chúng tôi tiếp tục tiến lên phía trước, cứ cách chừng mười
mấy, hai mươi mét lại có một chiếc đèn dầu, con đường quay về trở nên sáng rõ hơn
nhiều so với con đường trước mặt được rọi sáng bằng ánh đèn pin mà chúng tôi sắp
sửa đi tới.
Chúng tôi đi tiếp, chẳng mấy chốc đã trông thấy ngã rẽ đầu tiên.
“Đi lối nào bây giờ?”, tôi hỏi.
“Đi lối nào cũng được, nhưng tốt nhất là hai chúng ta đừng nên
tách nhau.”
“Tại sao lại có đường nhánh nhỉ?”
“Tôi nghĩ chắc là do bốn anh em nhà họ Tôn không biết vị trí chính
xác của ngôi mộ cổ này. Anh có nhận ra trên tường và dưới mặt đất của dũng đạo chúng
ta vừa đi có một số cái lỗ nhỏ và sâu không?”
Tôi nhớ lại: “Hình như tôi có nhìn thấy một cái.”
“Những cái lỗ đó được đào bằng xẻng Lạc Dương, có lẽ là do Tứ
Thúc Công tôi đào để xác định vị trí ngôi mộ cổ. Nhưng nếu ngôi mộ cổ nằm cách quá
xa cái lỗ mấy con đường, sau đó kết hợp với xẻng Lạc Dương để xác định vị trí.”
Vệ Tiên đột nhiên dừng bước.
“Sao thế?”, tôi hơi căng thẳng, vẫn không có chỗ nào kì dị hiện
lên dưới ánh sáng của chiếc đèn pin trong tay tôi.
“Ha ha, chúng ta gặp may rồi đây”, Vệ Tiên cười nói.
“Chúng ta đi đúng đường à? Làm sao anh biết
được?”
“Không, chúng ta đi sai đường, phải quay
trở ra thôi”, Vệ Tiên xoay người lại, “nhưng tôi đã tỏ cách nhận biết đường đi rồi.”
“Anh không phát hiện thấy con đường này có
gì không ổn à?”
Tôi cẩn thận soi đèn pin, chẳng có gì khác
lạ cả, nó vẫn thấp và mấp mô như con đường ban nãy.
“Na Đa, tôi thấy anh hơi căng thẳng đấy,
lẽ ra, anh phải phát hiện ra chứ. Không phải là chúng ta tới thám hiểm mộ người
chết sao, thoải mái chút đi, khà khà, lát nữa còn có cả bộ xương của anh em nhà
họ Tôn nữa cơ mà.”
Tôi cười mỉa mai. Tôi không thể phủ nhận,
từ lúc bước vào ngôi mộ cổ, Vệ Tiên đã lấy lại được phong độ ngày thường, không
còn thấy nét muộn phiền vì sự đả kích mà ông lão Vệ Bất Hồi mang lại; còn tôi thì
trái ngược hẳn, từ lúc cánh cửa sắt gian phòng ngầm đóng sập lại phía sau lưng,
tôi đã bắt đầu thấy căng thẳng, tới khi bước vào trong dũng đạo này, tôi không thể
ngăn trí não mình nhớ lại cái lần suýt chút nữa không thể ra khỏi dũng đạo trong
hang người năm đó, bởi thế, tôi nắm thật chặt chiếc đèn pin, chỉ sợ có vật gì bất
chợt nhảy xổ ra từ một nơi nào đó.
“Đâu được như các hạ đào mộ người chết đã
nhiều, bản lĩnh kiên cường như thép gang, tiểu sinh đây sợ hãi lắm lắm!”, tôi tự
giễu cợt mình, cũng là để dịu bớt nỗi phập phồng trong tim. Tôi vốn không phải là
một người để ý nhiều tới chuyện sống chết nên mới bạo gan tham dự vào hành động
mong manh giữa sự sống và cái chết này, nhưng nỗi âu lo về những điều chưa biết
thì người thường ai chẳng có, tôi chỉ khác người bình thường ở một điểm, ấy là tôi
vừa sợ vừa tò mò trước những điều chưa biết.
Tôi soi kĩ khắp xung quanh một lần nữa và
chợt hiểu.
“Không có đèn dầu.”
“Đúng thế”, Vệ Tiên bật tách ngón tay cái,
“xem ra thì những người công nhân khi đào cái động này đã sử dụng loại đèn thợ mỏ
mang theo bên người, đèn dầu trên tường được gắn vào sau khi đào xong động và chỉ
gắn trên con đường dẫn vào mộ cổ, vừa để chiếu sáng vừa tránh nhầm đường.”
Chúng tôi quay người bước trở ra. Lần này
thì tôi đi trước, Vệ Tiên theo sau. Chúng tôi đi theo một con đường khác không lâu,
quả nhiên lại nhìn thấy đèn dầu.
Kể từ lúc đó, mỗi khi tới một ngã rẽ, tôi
lại rọi đèn pin trước quan sát xem con đường nào có khay sắt đựng đèn dầu, sau đó
mới chọn con đường chính xác. Ở đây không giống như trên mặt đất, mỗi bước đi hết
khom người lại vặn mình, eo lưng tôi mỏi nhừ, tê nhức. Tôi và Vệ Tiên đã đi qua
bảy, tám ngã rẽ, dũng đạo ngầm dưới mặt đất này lớn thật.
Nó thoải dần xuống dưới, chứng tỏ chúng tôi
có lẽ đã đi đúng đường.
Chất liệu của bộ quần áo tôi mặc trên người
khá thoáng mát, nhưng do thời tiết quá nóng nực, lại thêm không khí trong dũng đạo
không được lưu thông nên lưng tôi đã ướt đẫm từ lâu, những cúc áo trên người đều
đóng chặt cả, không thể lấy tay lau mồ hôi, bởi thế, cảm giác khó chịu của tôi lên
đến cực điểm.
Chúng tôi lại đi qua một ngã rẽ nữa. Vệ Tiên
thắp thêm một chiếc đèn. Đi thêm mấy bước nữa, tôi thảng thốt đứng khựng lại.
“Tại sao lại là đường cụt thế nhỉ?” Luồng
ánh sáng thẳng tắp của chiếc đèn pin không rọi tới dũng đạo mờ tối, sâu hun hút,
mà chiếu trên một bức tường đất lổn nhổn, rõ ràng, dũng đạo chỉ đào tới đây, không
tiếp tục đào xuống sâu thêm nữa.
“Không thể như thế chứ?”, Vệ Tiên lách người,
len qua tôi, tiến lên trước.
“Quỷ tha ma bắt, tại sao lại thế... á, tôi
đoán ra rồi.” Vệ Tiên rướn thẳng lưng, chiếc mũ chụp đầu cụng phải trần nhà phía
trên hành lang.
Tôi thò đầu ra xem, trông thấy chiếc đèn
pin trong tay Vệ Tiên không chiếu thẳng hướng phía trước mặt, mà rọi tới một điểm
nằm hơi chếch về phía trước, ở cách chỗ chúng tôi không xa.
Ở đó có một cái động.
Tim tôi đập dồn dập hơn.
Chúng tôi bước lên phía trước, có cầu thang
đất dẫn xuống phía dưới.
“Tôi xuống trước, anh theo sát ngay sau nhé!”,
Vệ Tiên nói bằng một giọng trầm trầm rồi dẫn đầu nhảy trên các bậc thang đất.
Đi xuống phía dưới chừng năm, sáu mét, chúng
tôi tới một gian dũng thất[2] khác. Gian dũng thất này có lẽ cũng do
bốn anh em nhà họ Tôn đào, rộng gần mười mét vuông, cũng thấp lè tè như dũng đạo
ở phía trên.
[2] Dũng thất: khoảnh đất dẫn vào các lối
đi trong mộ cổ.
Bên trong gian dũng thất có một phiến đá
cực lớn đã bị dịch chuyển, đúng ra, nó không phải là một phiến đá mà là một tảng
đá bằng phẳng, to bằng nửa gian dũng thất, dày khoảng hơn bảy centimét, không biết
nặng mấy tấn.
Con đường dẫn xuống dưới vốn bị tảng đá bằng
phẳng này chặn lối giờ đã hiện ra trước mắt chúng tôi.
Đó là một con đường được tạo bởi những bậc
thềm làm bằng đá đen lớn, được mài nhẵn thín, dẫn tới một nơi tối như hũ nút mà
chúng tôi chưa hề biết.
“Xuống thôi!”, anh chàng Vệ Tiên lên tiếng
thúc giục sau một hồi đứng trên cửa động rọi đèn pin xuống phía dưới quan sát.
Lúc này, ngay cả tiếng nói của anh ta cũng
rè rè bên tai tôi.
Chúng tôi từ từ đi xuống phía dưới theo từng
bậc đá, hai luồn ánh sáng phát ra từ hai chiếc đèn pin đan chéo vào nhau thăm dò
con đường phía trước. Không giống với dũng đạo nhỏ hẹp lúc trước, dũng đạo chúng
tôi đang đi là một khoảng không gian thoáng rộng vô cùng.
Chỉ ngay cái cầu thang bằng đá này cũng có
đến hơn ba mươi bậc, càng đi càng rộng, tới bậc cuối cùng có một con đường rộng
chừng hơn ba mươi mét nằm giữa những bức tường thâm nghiêm.
Không gian ở đây lớn đến nỗi hai chiếc đèn
pin của chúng tôi chừng như không thể phát huy tác dụng. Vệ Tiên ra hiệu cho tôi
đừng vội tiến lên phía trước, anh ta đứng ở bậc thang cuối cùng của chiếc cầu thang
đá, chậm rãi lia chiếc đèn pin soi sáng khắp mọi ngóc ngách.
Chỗ này cách nơi bốn anh em nhà họ Tôn vùi
thây không xa nên chúng tôi không thể sơ suất được.
Dự cảm của Đại sư Viên Thông về mối hung
hiểm dưới lòng đất khó lòng nói rõ năm đó nằm ở đây.
Một cảm giác kì lạ, rờn rợn cồn lên trong
bóng tối lại có một sức mạnh phi thường khiến một vị đại sư tu trì cao thâm mất
đi Phật pháp và vào giây phút này đây, chúng tôi đang đứng ở nơi đó, nghĩ thế, lòng
tôi không khỏi bàng hoàng. Đương nhiên, có cả muốn làm rõ tất cả.
Vệ Tiên vẫn đứng trên bậc đá cuối cùng, anh
ta không tiếp tục tiến lên phía trước nữa mà rọi chiếc đèn pin rồi dừng lại trên
một bệ kim loại hình trụ tròn gần sát vách đá phía bên trái, hình như nó được làm
bằng đồng.
“Tôi tới đó xem sao!”, Vệ Tiên nói.
“Nó là cái gì thế?”, tôi hỏi.
“Có lẽ là, tôi cũng không chắc chắn lắm,
có lẽ là một thứ máy móc nào đó”, Vệ Tiên hơi ngập ngừng trong câu nói, có lẽ anh
ta đã đoán ra nó.
“Cẩn thận đấy!”, tôi nhắc anh ta.
“Không sao, ở đây có lẽ không nguy hiểm đâu.”
Vệ Tiên thong dong bước tới đồ vật phía trước
mặt, lấy từ trong ba lô ra một chiếc bật lửa cán dài được chế tác một cách đặc biệt.
“Phùng”, một ngọn lửa bùng lên trên một ngọn
đèn chiếu sáng cỡ lớn. Tuy thế, nó vẫn không thể làm cả mộ đạo rực sáng.