Trăm năm cô đơn - Chương kết - Phần 1
Chương
Kết
Một đêm vui nọ, trong
lúc gác cổng ra vào thiên đường của mình, Pila Tecnêra chết trên chiếc ghế xích
đu mây. Người ta đã chôn bà lão không có quan tài theo đúng nguyện vọng cuối
cùng của người quá cố. Tám người đàn ông lực lưỡng dùng thừng chão từ từ hạ huyệt
chiếc ghế xích đu có bà lão ngồi xuống một cái huyệt được đào ngay ở giữa sân
khiêu vũ. Những cô gãi mulata[44] mặc
đồ đen, khóe lóc đến xanh xám cả mặt mày, làm vội lễ cầu nguyện cho bà lão
trong lúc tháo các chuỗi hạt đeo cổ, những dải nơ buộc đầu, những vòng tay, rồi
ném chúng xuống huyệt, trước lúc người ta lấp kín mồ và dựng lên trên đó một
bia mộ không tên tuổi, không năm tháng và phủ kín những vòng hoa trà xứ Amazôn.
Sau khi đầu độc cho chết hết những con vật cảnh, dùng gạch và vữa bịt kín các cửa
ra vào và cửa sổ, bọn họ tản mát mỗi người một ngả đi khắp thế gian mang theo
những chiếc hòm gỗ bên trong trang trí ảnh thánh, ảnh hoạ báo nhiều màu sắc, ảnh
người yêu, những người tình chốc lát, những người tình cũ lâu năm, những người
tình ma quái, đó là những tay ỉa ra kim cương, những tay ăn thịt đồng loại những
tay được phong là vua cờ bạc ở ngoài khơi.
[44] Gái lai đen.
Ðó là sự phán xử cuối
cùng. Trong phần mộ của Pila Tecnêra, giữa những bản nhã ca và vòng hạt của gái
điếm, những rác rưởi của quá khứ đang mục rữa, đó là những gì còn lại ít ỏi ở
Macônđô kể từ sau chuyến ra đi của nhà thương thái xứ Catalunha. Do nỗi nhớ một
mùa xuân vĩnh viễn thôi thúc, ông già thông thái xứ Catalunha đã buộc phải đóng
cửa hiệu sách và trở về làng quê ở ven bờ Địa Trung Hải. Không một ai cảm nhận
được việc cụ quyết định hồi hương. Để chạy trốn các cuộc chiến tranh liên miên
cụ đã đến Macônđô vào đúng lúc Công ty chuối thịnh vượng, và cụ không nghĩ sẽ
làm gì khác hơn là mở một hiệu sách chuyên bán sách cổ được in bằng vài ngoại
ngữ, mà những khách hàng ngẫu nhiên đến đã sợ hãi lật giở chúng như lật giở những
cuốn sách bẩn tưởi trong lúc chờ đến lượt mình vào đoán mộng hoặc xem số ở căn
nhà đối diện. Cụ đã bỏ một nửa đời người ngồi ở ngoài sân sau nóng bức, để miệt
mài ghi lại thứ văn chương kiểu sức của mình bằng thứ mực màu viôlet trên những
tờ giấy xé ra từ vở học trò mà không một ai biết đích xác cụ viết gì. Khi
Aurêlianô biết cụ thì cụ đã có hai thùng to đựng đầy những trang viết như vẽ mà
về một phương diện nào đó chúng khiến ta nghĩ đến những tấm da thuộc ghi chữ của
Menkyađêt, và kể từ dạo ấy cho đến khi ra đi cụ lại viết đầy thùng thứ ba, do
đó quả là có lý khi nghĩ rằng trong suốt thời kỳ ở Macônđô cụ không làm gì khác
ngoài việc chỉ ngồi viết mà thôi. Những người duy nhất cụ có quan hệ là bốn người
bạn, những người vẫn đến đây đổi những con quay và diều giấy để lấy sách của cụ
và cụ đã cho họ đọc Sênêca[45] và
đọc Oviđiô[46] khi
bọn họ còn đang theo học bậc tiểu học. Với tình cảm trìu mến thân thương cụ đối
xử với các nhà cổ điển như đối với những người bạn cùng ngủ một phòng đã có
trong đời mình.
[45] Luxiô Aunêô Sênêca (- 65). một triết gia Tây
Ban Nha Latinh sinh tại Corđôba.
[46] Publiô Oviđiô Nasôn, nhà thơ Latinh sinh tại
Sanmôra (sinh năm 43 trước Công nguyên và chết năm 17 sau Công nguyên), tác giả
của Arte de Amor (Nghệ thuật tình yêu) và Metamorfosis (Sự biến hình).
Và cụ thông hiểu nhiều
điều đáng lẽ không nên biết, tỷ như Thánh Agustin bên trong chiếc áo khoác
ngoài còn mặc thêm một chiếc áo gilê nỉ bó sát lấy người cho đến năm mười bốn
tuổi và tỷ như cái ông Acnanđô đê Vilanôva, một thày đồng, vì bị bò cạp cắn mà
trở nên liệt dương ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Nhiệt tình của cụ dành cho các
trang viết là một bức tranh đan lẫn những lời kính trọng và những lời đàm tiếu
của dân địa phương. Vì phải học tiếng Catalan để dịch chúng ra tiếng Tây Ban
Nha, Anphônxô đã đút vào túi quần vài trang viết ấy được cuộn lại cùng với những
mẩu báo và cả những trang sách giáo khoa, rồi một đêm nọ anh đánh mất tất cả ở
nhà một trong những cô điếm làm tình cho qua cái đận đói khát này. Khi cụ già
thông thái biết chuyện, đáng lẽ phải mắng chửi anh một trận nên thân, thì cụ đã
cả cười mà bình luận rằng đó là số phận hợp lẽ tạo hoá của văn chương. Trái lại,
không có một sức mạnh nhân văn nào đủ sức thuyết phục cụ không mang theo ba
thùng to đựng đầy các trang viết này khi hồi hương, và cụ đã xổ ra hàng tràng
tiếng Cactagô[47] để
đuổi bọn nhân viên kiểm soát trên tàu hoả khi bọn này định chuyển các thùng bản
thảo xuống toa hàng coi chúng như là hàng hoá, cho đến khi cụ buộc bọn họ phải
để cho mình mang chúng đi theo trên toa hành khách. “Thế giới chẳng còn gì nực
cười hơn khi mà con người được ngồi ở toa khách còn văn chương phải nằm ở toa
hàng”. Đó là điều duy nhất nghe cụ nói thành lời. Cụ đã trải qua một tuần vất vả
với những công việc cuối cùng cho chuyến ra đi, bởi vì cứ càng đến gần giờ khởi
hành cụ càng kém vui hơn, ý nghĩ thiếu mạch lạc bị xáo trộn lung tung hết, và
các đồ vật được để chỗ này lại thấy ở chỗ khác, cụ bị ám ảnh bởi chính đám ma
quái từng trêu chọc Phecnanđa.
[47] Tiếng nói của cư dân sống ở thành Cactagô, một
thành phố cổ xưa của châu Phi.
- Collons[48]! - cụ chửi. - Ta ngồi xổm lên điều luật hai mươi bảy của hội nghị
Tôn giáo Luân Ðôn.
[48] Có lẽ là tiếng cactagô trong nguyên bản có
nghĩa rất tục.
Hecman và Aurêlianô
khuân vác giúp cụ. Họ giúp cụ như giúp một đứa trẻ, họ để các vé và các giấy tờ
di chuyển trong một cái túi rồi lấy ghim băng gài lại cho cụ, họ làm cho cụ cả
một danh mục dài, tỉ mỉ ghi lại tất cả những việc làm từ khi rời khỏi Macônđô
cho tới khi tàu cập bến ở Bacxêlôna[49],
nhưng họ lại vô ý ném vào bãi rác chiếc quần có để một nửa số tiền cụ ki cóp được.
[49] Một thành phố Tây Ban Nha nằm trên bờ Ðịa
Trung Hải.
Ðêm trước ngày khởi
hành, sau khi đã đóng đinh các thùng đựng giấy má lại và nhét hết quần áo vào
chính cái va-li cụ mang tới đây, nheo đôi mi mắt hình con hến lại, với điệu bộ
ban phước trơ trẽn, cụ chỉ vào những đống sách đã theo mình trong suốt cuộc lưu
vong, và nói với các chiến hữu:
- Ðấy ta để lại cho
các bạn cái thứ cứt đái ấy.
Ba tháng sau, các bạn
nhận được một bì thư to tướng gần hai mươi bức thư và hơn năm mươi bức ảnh, được
tích lại trong suốt cuộc hành trình nhàn rỗi trên biển khơi. Mặc dù không đề
ngày tháng nhưng thứ tự của chúng đã nói rõ trình tự cụ ngồi viết các bức thư
này. Trong những bức thư đầu với giọng điệu hài hước vốn có của mình, cụ kể cho
bọn họ nghe về những chuyện lý thú xảy ra trong chuyến vượt đại dương, về cơn bực
tức muốn quật ngã lão áp tải hàng hoá không cho phép cụ đưa ba chiếc thùng đựng
bản thảo vào phòng nằm trên hẩm tàu, về sự yếu hèn mà thông thái của một mệnh
phụ rất sợ hãi con số mười ba, không vì thói mê tín dị đoan mà vì hình như bà
ta cảm thấy con số này báo trước bà ta sẽ ở lại mặc dù cuộc hành trình trên biển
chưa được kết thúc, và về cuộc thi mà cụ giành được phần thắng ngay trong bữa tối
đầu tiên trên tàu thuỷ, vì cụ nhận ra mùi củ cải mặc ban đêm trong các suối ở
vùng Leriđa[50] ngay trong thứ nước ăn mang trên tàu.
[50] Lenđa: một tỉnh thuộc Tây Ban Nha nằm giữa
sông Sêgrê và sông Ebrô.
Tuy nhiên, với ngày
tháng tuần tự trôi, thực tại trên tàu ngày một ít khiến cụ phải để ý hơn; ngay
cả những sự kiện xảy ra mới nhất, thông thường nhất cũng khiến cho cụ càng cảm
thấy chúng xa xưa hơn, vì con tàu càng bỏ xa bờ châu Mỹ bao nhiêu thì ký ức
càng trở nên buồn bã bấy nhiêu. Cái quá trình hoài nhớ diễn tiến ấy dường như
cũng bộc lộ trên những tấm ảnh. Trong những tấm ảnh đầu tiên, cụ hiện hình
trong dáng vẻ hạnh phúc, mặc chiếc áo của thương binh, mái tóc bạc như tuyết
trong ánh nắng tháng mười chói chang của vùng biển Caribê. Trong những tấm ảnh
sau, cụ hiện hình trong tấm áo khoác sẫm màu, cổ quàng một tấm khăn lụa, vẻ người
buồn bã và trầm tư bởi sự trống vắng, ngồi trên sàn một chiếc tàu nặng nề đang
chệnh choạng đi như kẻ mộng du trên mặt biển lúc đang thu. Hecman và Aurêlianô
viết thư trả lời cụ. Trong các tháng đầu cụ viết thư rất chăm chỉ đến mức lúc ấy
họ cảm thấy gần gũi cụ hơn ngay cả khi cụ còn ở Macônđô và họ cảm thấy như bớt
đi nỗi bực dọc vì đã để cụ ra đi Lúc đầu cụ viết thư cho họ, báo cho họ hay rằng
tất cả vẫn bình thường, rằng ở ngôi nhà cụ chào đời vẫn còn nguyên con ốc sên
màu hồng, rằng những con cá trích khô vẫn thơm nguyên mùi trong thùng bánh, rằng
những thác nước của làng vẫn toả hương thơm khi chiều buông. Lại một lần nữa cụ
gửi đến cho bọn họ những trang vở học trò được viết như vẽ bằng mực màu viôlet,
trong đó cụ tặng cho mỗi người bạn một đoạn thơ đặc biệt. Tuy vậy mặc cho chính
cụ đã không nhận ra, những bức thư đầy tâm huyết ấy đã dần dần chuyển thành những
bài thơ điền viên mang đầy ý nghĩa của kẻ tỉnh mộng. Trong những đêm đông,
trong lúc ngồi trông nồi xúp sôi ở lò sưởi, cụ nhớ đến cái không khí oi nóng ở
sân sau, nhớ tiếng kêu o o của ánh mặt trời trên những cây hạnh đào phủ đầy bụi,
nhớ tiếng còi tàu trong không khí nóng hầm hập lúc đang trưa, chính là nỗi hoài
nhớ mà cụ ngồi ở Macônđô nhớ nồi xúp sôi trong lò sưởi, nhớ những tiếng rao của
người bán cà phê và nhớ những con chiền chiện lanh lẹn báo mùa xuân đến. Bị dằn
vặt bởi những nỗi hoài nhớ đối diện nhau như những tấm gương soi vào nhau, cụ
đánh mất cảm giác diệu kỳ về thực tại phi thực tại, cho đến khi cụ kết thúc bằng
việc khuyên tất cả bọn họ hãy chạy khỏi Macônđô, hãy quên tất cả những gì cụ đã
dạy họ về cuộc đời, về tình người, hãy ỉa vào Hôraxiô và bất kỳ nơi nào họ tới,
hãy nhớ rằng quá khứ là bịp bợm, rằng kí ức con người không có đường trở lại, rằng
tất cả mùa xuân cổ kính là không thể khôi phục lại và rằng ái tình phóng đãng
và cuồng say là một sự thật chốc lát mà thôi.
Anvarô là người đầu
tiên quan tâm đến lời khuyên hãy rời bỏ Macônđô. Anh bán hết của cải, kể cả con
hổ bị nhốt trong sân nhà vẫn thường nhe nanh doạ những khách bộ hành ở ngoài đường,
và mua một chiếc vé đi mãi mãi trên một đoàn tàu hoả không bao giờ ngừng du lịch.
Trên những tấm bưu ảnh mà anh gửi từ những nhà ga nghỉ lại dọc đường, anh miêu
tả đầy thán phục những hình ảnh chốc lát mình nhìn thấy qua ô cửa sổ toa xe,
như thể anh đang xé vụn và ném vào cõi lãng quên một bài thơ dài của sự chạy trốn:
những người da đen mơ mộng trên những cánh đồng bông trắng xứ Luisiana, những
chú ngựa có cánh trên thảm cỏ xanh xứ Kentucki, những đôi nhân tình Hy Lạp
trong buổi hoàng hôn địa ngục xứ Anzôn, cô gái mặc áo len đỏ vẽ tranh thuỷ mặc
trên những hồ xứ Misigơn đã lấy bút làm điệu bộ chào anh, nhưng đó không phải
là lời chào từ biệt mà là lời chào chứa chan hy vọng được gặp lại vì cô không
biết rằng mình đang nhìn theo một đoàn tàu một đi không trở lại.
Sau đó Anphônxô và
Hecman cùng bỏ đi vào một ngày thứ bảy với ý định sẽ trở về vào ngày thứ hai
nhưng chẳng bao giờ người ta được biết tin tức gì về họ. Một năm sau kể từ ngày
cụ già thông thái người Catalunha ra đi, người bạn duy nhất còn ở lại Macônđô
là Gabrien, vẫn lêu lổng, hoàn toàn phụ thuộc vào lòng thương hại của
Nigrômanta, để trả lời những câu hỏi thi của một tờ tạp chí Pháp, mà phần thưởng
lớn nhất của nó là chuyến đi thăm thủ đô Pari. Aurêlianô, vốn là người nhận đặt
báo, đã giúp anh điền các câu hỏi, đôi lúc ở ngay tại nhà anh, còn hầu như lúc
nào cũng ở bên những lọ sứ xinh xinh và mùi cây thuốc nữ lang của hiệu thuốc
duy nhất ở Macônđô, nơi ở của Mecxêđet, người yêu bí mật của Gabrien. Ðó là cái
duy nhất sẽ còn lại của một thời quá khứ mà sự huỷ diệt của nó không bao giờ trọn
vẹn, bởi vì nó cứ tự huỷ hoại một cách chậm chạp, tự hao kiệt ngay trong chính
nó và từng phút từng phút một nó tự kết liễu mà sẽ không bao giờ chấm dứt sự tự
kết liễu. Thị trấn đã bước tới những điểm nút ấy của sự đình trệ, do đó khi
Gabrien trúng thưởng và đi Pari với hai bọc xống áo, một đôi giày và toàn tập
tác phẩm của Rabơle, anh đã buộc phải ra hiệu cho người thợ máy để ông tế dừng
tàu lại nhận mình lên.
Ðường phố Thổ Nhĩ Kỳ
cũ lúc bấy giờ là một cái bãi hoang, nơi những người Arập cuối cùng đã chịu để
cho thần đói lôi mình đến cõi chết theo tập quán ngàn đời ngồi trước cửa, bởi
vì đã nhiều năm nay họ phải bán tới mét vải chéo go cuối cùng và trong những
chiếc tủ kính tối om om chỉ còn lại những tượng người không đầu. Khu phố của
Công ty chuối, mà có lẽ Patrixia Brao cố kể lại cho con cháu mình nghe về nó
trong những đêm buồn nhớ có dưa gang ngâm giấm xứ Pratvôn Alơbơmơ, đã là một đồng
bằng đẩy cỏ dại. Vị cha xứ già, người đến thay cha xứ Anhen và tên của cụ chẳng
ai thèm biết đến, đang chờ đợi Thượng đế rủ lòng thương, nằm tênh hênh trên chiếc
võng, đau đớn vì bệnh viêm khớp và mất ngủ vì sự hoài nghi, trong khi đó thằn lằn
và chuột cãi cọ nhau xem ai sẽ được thừa kế ngôi nhà thờ bên cạnh. Ở thị trấn
Macônđô bị lãng quên ấy, nơi ngay tới cả chim chóc cũng lãng quên nó, nơi bụi
và hơi nóng đã trở nên rất khó chịu đến mức thở cũng phải vất vả lắm, Aurêlianô
và Amaranta Ucsula là hai người duy nhất hạnh phúc và là những người sung sướng
nhất trên trái đất này, mặc dù họ bị vây bọc bởi nỗi cô đơn và tình yêu, đặc biệt
là nỗi cô đơn của tình yêu trong một ngôi nhà hầu như không tài nào ngủ được bởi
tiếng động ầm ầm của bày kiến gây nên.
Gastôn đã trở về Bruxen,
vì đợi máy bay chán chê mê mỏi vẫn không thấy nó đến nên có một ngày nọ ông đã
nhét vào va-li những đồ dùng tuỳ thân và tài liệu thư tín của mình rồi ra đi với
ý định trở về đây bằng máy bay trước khi những đặc ân của ông phải nhượng lại
cho một nhóm phi công Ðức, vốn đã trình lên các nhà chức trách tỉnh này một kế
hoạch nhiều tham vọng hơn so với kế hoạch của ông. Kể từ buổi chiều hai người
làm tình với nhau lần đầu tiên, Aurêlianô và Amaranta Ucsula vẫn tiếp tục tranh
thủ những lúc vắng nhà hãn hữu của người chồng để mà yêu nhau cuồng nhiệt trong
những phút giây gặp gỡ chốc lát và luôn luôn bị ngắt quãng bởi người chồng bất
đồ trở về. Nhưng khi thấy chỉ còn lại hai người ở nhà thì họ liền mệt lử trong
những giây phút ngây ngất của ái tình muộn mằn. Ðó là một cơn đam mê buông thả,
điên loạn, đến mức khiến cho xương cốt của Phecnanđa ở trong mồ phải run lên vì
sợ và ở trong trạng thái nhảy múa liên tức. Những tiếng rền rĩ đầy sướng vui,
những bài hát đầy thèm khát của Amaranta Ucsula đã âm vang bùng lên vào lúc hai
giờ chiều ngay trên chiếc bàn trong nhà ăn cũng như vào lúc hai giờ sáng ở
trong kho lương thực. “Ðiều làm em đau khổ. - Cô cười, - là chúng mình đã để mất
quá nhiều thời gian”. Và trong cơn cuồng nhiệt cho thoả đam mê ấy, cô nhìn thấy
đám kiến đang phá trụi vườn hoa rồi gặm gỗ nhà cho thoả cơn đói lâu ngày, và cô
nhìn thấy dòng kiến đỏ ấy lại một lần nữa chiếm cứ mất hành lang nhưng cô chỉ bận
tâm chiến đấu với kiến đỏ khi nhìn thấy chúng ở trong phòng ngủ của mình.
Aurêlianô bỏ bê các trang văn viết trên những tấm da thuộc, lại ở lý trong nhà,
trả lời cho xong chuyện những bức thư của cụ già thông thái xứ Catalunha. Bọn họ
đánh mất cảm giác về thực tại, ý niệm về thời gian và nhịp điệu của những thói
quen hàng ngày. Bọn họ lại đóng kín cửa ra vào và cửa sổ để khỏi mất thời gian
cởi quần áo, và tồng ngồng đi lại ở trong nhà như Rêmêđiôt - Người đẹp từng thường
xuyên mong muốn, và cùng nhau lăn lộn trên những vũng bùn ngoài sân trong khi
thân thể không một mảnh vải che, rồi có một buổi chiều nọ bọn họ suýt bị chết
ngạt khi làm tình với nhau ngay trong bồn tắm. Trong một thời gian ngắn bọn họ
phá tan hoang nhà cửa hơn cả sự phá phách của lũ kiến đỏ: làm gãy hết bàn, ghế,
tủ ở phòng khách, làm rách bươm chiếc võng từng chịu đựng rất tốt những cuộc ái
ân buồn tẻ nơi trại lính của đại tá Aurêlianô Buênđya, xổ tung ruột chăn, lấy
bông lõi tung khắp sàn để làm nhau ngạt thở. Mặc dù Aurêlianô là một người tình
cũng đủ ngón chơi dữ dằn như tình địch của anh, nhưng Amaranta Ucsula lại là
người đạo diễn anh các trò tiêu khiển trong thiên đường đổ vỡ ấy và cô làm việc
này rất nhiệt tình như thể cô đã tập trung trong tình yêu cái nghị lực cuồng
nhiệt mà cụ tổ Ucsula đã hiến dâng cho nghề làm kẹo nặn hình con giống Ngoài
ra, trong lúc cô sung sướng hát và cười ngặt nghẽo trước những trò chơi của
mình thì Aurêlianô ngày một trầm tư hơn, bởi nỗi niềm đam mê của anh vốn lặng lẽ
và nguội lạnh. Tuy nhiên cả hai người đi tới những đỉnh điểm của nghệ thuật
chơi bời, đến mức khi họ mệt lử trong lúc phè phỡn thì họ lại càng nghịch ngợm
thú vị hơn trong lúc nghỉ ngơi. Bọn họ lại hiến dâng tâm sức cho sự sùng bái thần
tượng đối với cơ thể mình, ấy là lúc họ phát hiện ra rằng những lúc nghỉ ngơi
sau cơn hoan lạc có những khả năng không thể khai thác hết được, nó còn thích
thú hơn nhiều so với những khả năng của dục tình. Trong lúc anh lấy lòng trắng
trứng gà bôi lên bộ vú cứng dỏng lên của Amaranta Ucsula để mà bóp, hoặc lấy dầu
dừa bôi lên đôi vế săn chắc và bụng mềm mại của cô để mà mơn trớn thì cô coi cơ
thể cường tráng của Aurêlianô như một con búp bê để nghịch ngợm, lấy son bôi
môi để vẽ mắt hề cho anh, dùng chì kẻ mày để vẽ cho anh bộ ria Thổ Nhĩ Kỳ, đeo
cho anh chiếc cà vạt Organxa và đội cho anh chiếc mũ làm bằng giấy bạc. Có một
đêm, bọn họ lấy mứt đào bôi khắp người từ chân đến đầu rồi như chó họ liếm cho
nhau. Rồi như một lũ điên rồ, họ ân ái với nhau ngay ở hành lang và họ bị đánh
thức bởi đàn kiến ăn thịt sắp nuốt sống họ. Trong lúc các cuộc truy hoan ngừng
nghỉ, Amaranta Ucsula viết thư trả lời Gastôn. Cô cảm thấy ông quá bận rộn và
xa lắc đến độ với cô cuộc trở về của ông là không thể có được. Ở một trong những
bức thư gửi về trước tiên, ông kể rằng các bạn hữu của mình quả thật có gửi chiếc
máy bay đi, nhưng một hãng đường biển ở Bruxen, vì nhầm lẫn, đã gửi nó đến
Tangandika, và tại hải cảng này nó sẽ được chuyển đến cho cộng đồng của những
người Makônđô[51].
[51] Makônđô ở đây thuộc châu Phi.
Sự nhầm lẫn ấy đã gây
ra nhiều phiền phức đến mức chỉ cần thu hồi lại chiếc máy bay cũng phải mất hai
năm. Thế là Amaranta Ucsula không phải đề phòng sự trở về bất thình lình của chồng
mình. Về phần mình, Aurêlianô không có liên hệ với thế giới bên ngoài nào khác,
ngoài những lá thư của cụ già thông thái xứ Catalunha và những tin tức về
Gabrien qua miệng Mecxêđet, cô gái bán thuốc lặng lẽ. Lúc chầu đó là những liên
hệ thực sự. Ðể ở lại Pari, Gabrien đã trả lại chiếc vé khứ hồi để lấy tiền tiêu
và sau đó anh sống bằng cách bán báo cũ và vỏ chai do các cô hầu phòng lôi ra từ
trong khách sạn đô phin buồn tẻ. Lúc ấy, Aurêlianô có thể mường tượng thấy anh
thường xuyên mặc chiếc áo len cổ to mà chỉ cởi ra khi các sân hiên Môngpacnat đầy
những cặp uyên ương mùa xuân đi dạo và trong căn buồng nồng nặc mùi súp lơ sôi,
nơi Rôcamatô đã chết đói, anh phải ngủ ngày và thức viết về ban đêm để khiến
cơn đói lòng nhầm giờ đỡ hành hạ mình. Tuy nhiên, những tin tức về Gabrien mà
anh nhận được ngày một kém chính xác hơn và các bức thư của cụ già thông thái
ngày một thưa nhạt, buồn tẻ hơn, đến mức Aurêlianô đã quen nghĩ về họ như
Amaranta Ucsula nghĩ đến chồng mình, và rồi cả hai người bồng bềnh sống trong một
thế giới trống trải, nơi ái tình là thực tại duy nhất vừa có tính thường nhật lại
vừa có tính vĩnh hằng.
Bỗng nhiên, tin
Gastôn sẽ trở về đến với họ như một tiếng sét đánh ngang tai ngay trong cái thế
giới vô thức đầy hạnh phúc ấy. Aurêlianô và Amaranta Ucsula mở to hai con mắt,
xem lại lòng mình, rồi tay đặt lên trái tim mình họ nhìn thẳng vào mặt nhau và
hiểu rằng họ gắn bó với nhau đến mức sẽ nhận cái chết nếu phải xa nhau. Thế là
cô viết cho chồng mình một bức thư nói những sự thật trái ngược hẳn nhau, trong
đó cô khẩn khoản nói rằng cô vẫn yêu ông và khao khát được gặp lại ông, đồng thời
cô cũng nói rõ rằng mình sẽ không thể sống được nếu không có Aurêlianô và coi
đó như một tiền định không thể nào tránh được. Trái với điều bọn họ mong đợi, với
thái độ điềm tĩnh, có thể nói là thái độ của người cha, qua một thư dài hai
trang kín đặc chữ, Gastôn đã trả lời họ, ông lưu ý bọn họ nên đề phòng những ý
nguyện bồng bột nảy sinh từ chỗ bọn họ đang đam mê và đoạn cuối lá thư ông hoàn
toàn đồng ý sẽ không trở lại Macônđô bởi vì ông tin rằng bọn họ sẽ hạnh phúc
như ông đã hạnh phúc trong cuộc đời vợ chồng ngắn ngủi của mình. Ðó là một thái
độ hết sức bất ngờ đến mức Amaranta Ucsula cảm thấy mình bị sỉ nhục với ý nghĩ
rằng mình đã chuẩn bị cho chồng một cái cớ mà ông ta từng mong đợi để phó mặc
cô cho số phận. Sáu tháng sau, sự hận thù càng thêm sâu sắc hơn khi Gastôn từ
Lêôpônvin là nơi ông đã nhận lại chiếc máy bay, lại viết thư cho cô chỉ yêu cầu
gửi cho mình chiếc xe đạp ẩy chân mà theo ông nói nó là cái duy nhất trong số
những gì ông để lại ở Macônđô còn có giá trị tình cảm. Aurêlianô bình tĩnh chăm
sóc phòng ngủ của Amaranta Ucsula, cố gắng chứng tỏ cho cô biết rằng anh là một
người chồng xứng đáng trong lúc thuận lợi cũng như trong lúc khó khăn, và những
túng bấn hàng ngày đang vây hãm họ khi những đồng tiền cuối cùng của Gastôn để
lại bị tiêu nhẵn đã tạo nên cho họ một sự ràng buộc của tình đoàn kết tuy không
rực sáng và kiêu ngạo như nỗi đam mê nhưng đã giúp họ yêu nhau say đắm hơn và
khiến họ rất hạnh phúc như đã từng hạnh phúc trong chính cái thời kỳ họ sống cuộc
sống đầy sắc dục. Khi Pila Tecnêra mất, bọn họ đang chờ đón đứa con sắp ra đời.