Trăm năm cô đơn - Chương 19 - Phần 2
Aurêlianô và
Nigrômanta cặp bồ với nhau. Aurêlianô dành buổi sáng để đọc các ký hiệu trên những
tấm da thuộc, buổi trưa anh đến cái phòng ngủ đầy kích thích kia, ở đó
Nigrômanta chờ đợi để bày cho anh hết ngón chơi này đến ngón chơi khác, cho đến
khi cô ta phải rời Aurêlianô ra để đi rình bắt những “con bò lạc” khác. Cứ như
vậy đến vài tuần sau Aurêlianô mới phát hiện ra rằng ở thắt lưng Nigrômanta có
một sợi dây nhỏ như được làm bằng dây đàn viôlôngxen nhưng rắn như thép và
không có chỗ nối vì nó sinh ra và lớn lên cùng với cô ta. Gần như lần nào cũng
vậy, giữa các đợt mây mưa, họ trần truồng và ăn ngay trên giường, trong cái
nóng khủng khiếp và dưới những ngôi sao ban ngày có thể nhìn thấy qua các lỗ thủng
trên mái tôn bị gỉ. Lần đầu tiên Nigrômanta có một người đàn ông thường trực, một
“cái cọc” như chính cô gọi trong khi cười ngất, điều đó khiến cho Nigrômanta đã
bắt đầu có ảo tưởng ở tình yêu và ảo tưởng đó chỉ chấm dứt khi Aurêlianô thú thật
nỗi khát khao không được thoả mãn với Amaranta Ucsula mà sự thay thế của
Nigrômanta không thể làm nguôi đi, ngược lại, lòng anh lại càng bị giày vò hơn
khi kinh nghiệm khiến cho chân trời tình ái rộng mở thêm. Thế là, tuy vẫn tiếp
Aurêlianô nồng nàn như trước, nhưng Nigrômanta đòi thù lao một cách gay gắt, đến
mức khi Aurêlianô không có tiền trả, cô đã ghi nợ, không phải ghi bằng chữ số
mà bằng những vạch móng tay ở mặt sau cánh cửa. Tối đến, khi Nigrômanta đi lang
thang trong bóng tối ở quảng trường thì Aurêlianô đi đi lại lại ở hành lang như
một người khánh lạ trong nhà, anh chào hỏi qua loa Amaranta Ucsula và Gastôn -
hàng ngày vợ chồng họ ăn tối vào giờ này - rồi quay về phòng, đóng cửa lại, anh
không thể đọc, không thể viết và thậm chí không thể nghĩ ngợi được gì, cứ nôn
nao vì những tiếng cười đùa bỡn cợt dạo đầu và sự bùng nổ sau đó của việc tận
hưởng lạc thú diễn ra suốt đêm của đôi vợ chồng kia. Ðó là cuộc sống của
Aurêlianô trong hai năm trước khi Gastôn bắt đầu chờ máy bay đến, và cứ như vậy
cho tới một buổi chiều Aurêlianô đến quán sách của ông già thông thái người xứ
Catalunha và gặp bốn chàng trai lắm mồm đang cãi nhau gay gắt về các biện pháp
diệt gián ở thời Trung cổ. Ông chủ quán sách biết rằng Aurêlianô thích những chốn
mà trước kia chỉ có thánh Bêđa Ðấng chí tôn[42] đọc
thôi, đã khôn khéo mời anh tham gia cuộc tranh luận, và Aurêlianô nói một thôi
một hồi rằng gián, theo sách Cựu ước là loài vật cánh xuất hiện sớm nhất trên
trái đất đã chết nhiều nhất do bị đập bằng dép, nhưng là loài vật hoàn toàn bất
trị với bất cứ biện pháp tiêu diệt nào, từ cà chua trộn muối bôrăc đến bột mì
trộn đường, bởi vì ngay từ thời rất xa xưa một ngàn sáu trăm lẻ ba loại gián đã
chống đỡ lại sự truy đuổi rất bền bỉ và không thương xót của loài người đối với
bất kỳ loài vật nào, kể cả đôi với chính bản thân loài người nữa, đến mức độ
cùng với việc có bản năng sinh đẻ, loài người còn có bản năng giết gián, và nếu
như loài gián thoát khỏi sự cuồng nộ của loài người thì chính là vì chúng đã ẩn
nấp trong bóng tối, ở đó chúng không bị tổn thất, bởi loài người có nỗi sợ hãi
bẩm sinh đôi với bóng tối, nhưng ngược lại, chúng lại rất sợ ánh sáng giữa
trưa, do vậy ở thời kỳ Trung cổ, hiện nay và mãi mãi sau này, biện pháp hữu hiệu
duy nhất để diệt gián là dùng ánh sáng mặt trời.
[42] Nhà sử học và tiến sĩ thần học người Anh,
sinh năm 672 hoặc 573 và mất năm 735. Lễ thánh là ngày 27 tháng Năm.
Cái thuyết định mệnh
mang tính chất bách khoa ấy là cơ sở cho một quan hệ thân hữu sâu sắc giữa những
người trẻ tuổi này. Từ ấy, chiều nào Aurêlianô cũng gặp bốn chàng trai hay
tranh biện kia, đó là Anvarô, Hecman, Anphônxô và Gabrien, những người bạn đầu
tiên và cũng là cuối cùng trong cuộc đời anh. Ðối với một người đàn ông từng
giam mình trong sách vở như Aurêlianô, những buổi học bão táp, bắt đầu ở hiệu
sách từ lúc sáu giờ chiều và kết thúc ở các nhà chửa vào lúc sớm mai, là một sự
khám phá. Cho đến lúc ấy, Aurêlianô vẫn chưa nghĩ rằng văn chương là một trò
chơi được bày đặt ra để bỡn cợt người khác, như Anvarô đã cho anh thấy trong một
đêm chè chén. Phải một thời gian sau Aurêlianô mới nhận ra rằng rất nhiều sự kỳ
cục đã bắt nguồn từ tấm gương của ông già thông thái người xứ Catalunha. Ðối với
ông ta, sự hiểu biết chẳng có giá trị gì nếu như nó không được sử dụng để phát
minh ra một phương pháp thới làm sữa đậu.
Buổi chiều mà
Aurêlianô giảng giải về loài gián, cuộc tranh luận được kết thúc ở ngôi nhà của
những cô gái bán thân nuôi miệng, đó là một nhà chứa ma quái ở ngoại ô Macônđô.
Chủ nhà là một người đàn bà tươi cười, luôn lo lắng về chuyện đóng cửa và mở cửa.
Nụ cười vĩnh cửu của mụ dường như được tạo nên bởi sự nhẹ dạ của khách chơi, những
người này cử tin chắc rằng cái nhà chứa này là có thật, là chắc chắn, mặc dù thực
ra nó chỉ tồn tại trong tưởng tượng mà thôi, bởi vì ở đây ngay cả những đồ vật
có thể sờ thấy được cũng là không có thực: những chiếc ghế sẽ rời ra khi người
ta ngồi xuống, tròng chiếc máy hát quay tay có con gà mái đang ấp trứng, vườn
hoa gồm những bông hoa bằng giấy, lịch là lịch của những năm xa xưa, thuở Công
ty chuối mới đến, những bức tranh là tranh cắt từ những tạp chí chưa in bao giờ.
Ðến cả những cô gái làm tiền nhút nhát từ những nhà bên chạy đến khi mụ ta
thông báo là có khách đến cũng hoàn toàn không phải là người thật. Những cô gái
ấy xuất hiện không chào hỏi ai, họ mặc những chiếc áo hoa của cái thuở lên năm
tuổi hoặc ít hơn, họ cởi ra với cử chỉ ngây thơ như khi mặc vào, và trong lúc sự
ân ái lên đến đỉnh cao thì họ lại kêu lên một cách kinh ngạc rằng sao mà dữ dội
thế, rằng hãy nhìn xem trần nhà đang sập xuống kia kìa, và ngày sau khi nhận một
đồng rưỡi pêsô
họ liền đem tất cả số tiền đó mua một chiếc bánh và một mẩu pho-mát mà mụ chủ
bán cho, lúc đó mụ ta vui vẻ hơn bất kỳ lúc nào khác vì chỉ có mụ mới biết rằng
ngay cả những thứ đó cũng chẳng phải là thức ăn thật. Aurêlianô, mà lúc đó thế
giới của anh chỉ bắt đầu ở những tấm da thuộc chi chít chữ và kết thúc ở chiếc
phản của Nigrômanta, tìm thấy ở cái nhà chứa ma quái ấy một phương thuốc ngốc
nghếch cho sự nhút nhát của mình. Thoạt đầu Aurêlianô không dám đến một căn
phòng mà mụ chủ thường bước vào giữa những thời điểm tốt nhất của việc ân ái, ở
đó mụ ta bình luận mọi kiểu về sự khoái lạc của những người trong cuộc mây mưa.
Nhưng dần dần anh ta trở nên quen thuộc với những bổng lộc ấy của trái đất, đến
mức một đêm buông tuồng nhất anh ta đã trút bỏ quần áo ở ngoài phòng tiếp đón,
vừa đi khắp nơi trong nhà vừa giữ thăng bằng một chai bia đặt trên các bộ phận
thuộc giống đực rất khác thường của mình. Chính Aurêlianô là người đã bày đặt
ra những kiểu chơi kỳ quái mà mụ chủ hưởng ứng với nụ cười không biết tắt trên
môi, mụ không phản đối cũng phòng tin những trò đó là có thật, cũng như thái độ
của mụ khi Hecman định đốt ngôi nhà này để chứng minh rằng nó không tồn tại,
hay là khi Anphônxô vặn cổ con vẹt và ném nó vào cái thảo nước đang sôi bắt đầu
luộc gà.
Dù Aurêlianô thấy gắn
bó với cả nhóm bằng những tình thân thiện và yêu mến duy nhất, đến mức anh nghĩ
rằng bốn người kia chỉ là một, anh vẫn gần gũi với Gabrien hơn với ba người
kia. Sự gắn bó ấy nảy sinh trong cái đêm mà vô tình Aurêlianô nhắc tới đại tá
Aurêlianô Buênđya, và Gabrien là người duy nhất không tin rằng Aurêlianô đang
giễu cợt ai. Ðến cả mụ chủ, thường không xen vào những cuộc chuyện trò, lúc ấy
cũng gân cổ lên mà cãi rằng đại tá Aurêlianô Buênđya, người mà quả thật mụ có
nghe nói tới một vài lần, chỉ là một nhân vật mà chính phủ bịa ra để kiếm cớ giết
những người Tự do. Ngược lại, Gabrien không hề tỏ ra nghi ngờ đối với sự thật về
đại tá Aurêlianô Buênđya, vì đại tá là chiến hữu và là người hạn nối khố của cụ
tổ anh ta, đại tá Hêrinênđô Mackêt. Những sự gợi nhớ không hẳn là cố ý càng sâu
sắc hơn khi họ nói về vụ tàn sát những người lao động. Mỗi khi Aurêlianô đụng đến
chuyện đó, không chỉ mụ chủ mà cả một số người lớn tuổi hơn mụ đều phủ nhận những
lời đồn đại về những người lao động bị vây chặt ở nhà ga, về đoàn tàu hai trăm
toa chở xác chết, thậm chí họ còn khăng khăng tin vào những điều đã được ghi
trong những hồ sơ pháp lý và trong sách của trường tiểu học là Công ty chuối
không hề tồn tại bao giờ cả. Aurêlianô và Gabrien gắn bó với nhau bằng một sự đồng
cảm được xây dựng trên những sự kiện có thật mà chẳng ai tin, những sự kiện tác
động đến cuộc sống của hai người tới mức họ thấy mình lưu lạc trong sự chao đảo
của một thế giới đã bị tàn phá, ở đó chỉ còn lại một sự nhớ nhung mà thôi.
Gabrien ngủ ở bất kỳ chỗ nào khi anh ta buồn ngủ. Một vài lần Aurêlianô để anh
ta ngủ ở xưởng kim hoàn, nhưng ở đó anh ta thức trắng đêm vì bị váng đầu nhức
óc bởi những tiếng động mà những người chết đi lại suốt đêm ở trong các phòng
ngủ gây nên. Sau đó Aurêlianô gửi gắm Gabrien cho Nigrômanta. Những lúc rỗi rãi
cô ta đưa Gabrien về căn phòng tiếp khách làng chơi của mình và cô lại ghi nợ bằng
những vạch dọc trên mặt sau cánh cửa, ở những chỗ trống còn lại rất ít ỏi sau
khi đã ghi nợ của Aurêlianô.
Mặc dù sống rất bừa
bãi, cả nhóm cũng cố gắng làm một việc gì đó có ý nghĩa lâu bền, theo yêu cầu của
nhà thông thái xứ Catalunha. Với kinh nghiệm của một cựu giáo viên văn học cổ
điển và với kho sách lạ lùng, cụ là người đã tạo điều kiện cho họ dành cả một
đêm để tìm tình huống kịch thứ ba mươi bảy, ở một nơi mà chẳng một ai có ý muốn
và có điều kiện để học quá bậc tiểu học. Bị quyến rũ bởi việc phát hiện ra tình
bạn, mê mẩn bởi sự thôi miên của một thế giới mà trước đó bị tính hẹp hòi của
Phecnanđa che lấp, Aurêlianô từ bỏ việc khám phá những chữ ghi trên tấm da thuộc,
ngay giữa lúc những câu thơ bí ẩn đã bắt đầu hiện ra với anh. Nhưng sau khi biết
chắc rằng vẫn còn đủ thời gian để làm tất cả mà vẫn không cần phải dứt bỏ những
nhà chứa kia, Aurêlianô lại có ý chí để quay lại căn phòng của Menkyađêt, anh
quyết định không nản lòng cho đến khi khám phá ra những khoá mã cuối cùng. Những
điều đó xảy ra trong thời gian Gastôn bắt đầu chờ đợi máy bay đến, và Amaranta
Ucsula sống rất cô đơn. Một buổi sớm cô ta vào phòng của Menkyađêt:
- Xin chào người ăn
thịt đồng loại. - Cô ta nói. - Anh
lại ở trong hang của mình rồi.
Amaranta Ucsula đẹp
không chịu được, cô mặc bộ đồ do cô may và đeo một trong những sợi dây chuyền
dài cũng do chính cô làm bằng những đốt xương sống cá chăng. Amaranta Ucsula đã
thả lỏng anh chồng, tin rằng chồng chung thuỷ, và đây là lần đầu tiên từ ngày về
cô ta có vẻ thành thơi một chút.
Aurêlianô chẳng cần
nhìn cũng biết rằng cô ta đến. Amaranta Ucsula chống khuỷu tay lên mặt bàn, rất
gần và rất dịu dàng khiến Aurêlianô như cảm nhận được những tiếng lao xao trong
xương cốt của cô, và Amaranta Ucsula hỏi về những tấm da thuộc có viết chữ.
Aurêlianô cố gắng chế ngự sự bối rối, lấy lại tiếng nói, sức sống và trí nhớ
như đã biến đâu mất và nói với cô về số phận của tiếng Phạn, về khả năng khoa học
có thể nhìn thấy tương lai hiện rõ trong thời gian như có thể đọc được chữ viết
qua mặt sau của tờ giấy khi giơ mặt trước có chữ viết về phía ánh sáng, về sự cần
thiết phải giải mã được những lời tiên đoán để không tự mình làm mình thất bại,
về Những lời sấm truyền của Nôstrađam và về sự huỷ diệt của xứ Cantabria mà
thánh Midan[43] đã
báo trước. Ðột nhiên, trong khi vẫn tiếp tục nói, như bị kích thích bởi một sự
thôi thúc im ngủ từ lâu trong mình, Aurêlianô đặt tay mình lên tay Amaranta
Ucsula và tin rằng cái quyết định cuối cùng kia sẽ chấm dứt cơn sóng gió.
Nhưng Amaranta Ucsula
nắm lấy ngón tay trỏ của anh với một cử chỉ âu yếm thơ ngây mà cô từng đối xử với
anh nhiều lần thuở thơ bé, và cô cứ giữ như vậy trong khi Aurêlianô tiếp tục trả
lời các câu hỏi của mình. Cứ như vậy, họ liên hệ với nhau qua một ngón tay trỏ
giá lạnh chẳng truyền cảm gì cả, cho đến khi Amaranta Ucsula như sực tỉnh khỏi
một giấc mơ thoáng qua và vỗ tay lên trán. “Lũ kiến!” Cô ta kêu lên như vậy. Thế
là Amaranta Ucsula quên những bản chữ viết trên tấm da thuộc và bước một bước
nhẹ nhàng uyển chuyển ra đến cửa, và từ chỗ đó cô đưa ngón tay lên miệng gửi
Aurêlianô một chiếc hôn gió, như chiếc hôn cô gửi cha mình trong buổi chiều xưa
khi cô lên đường đi Bruxen.
[43] Người Tây Ban Nha, lễ thánh ngày 12 tháng Mười
một.
- Anh sẽ giảng giải
cho tôi sau nhé. - Cô ta nói. - Tôi quên mất rằng hôm nay là ngày phải bỏ vôi
vào các tổ kiến.
Những khi có việc gì
đó cần làm ở gần phòng Menkyađêt, Amaranta Ucsula vẫn vào phòng đó một cách ngẫu
nhiên và ở lại một lát, trong khi chồng cô vẫn tiếp tục quan sát bầu trời.
Sự thay đổi này làm nảy
sinh ảo tưởng trong Aurêlianô, từ ấy anh ta cùng ăn với gia đình, đó là điều
khác so với những tháng Amaranta Ucsula mới về. Anh làm cho Gastôn thấy dễ chịu.
Trong những câu chuyện
quanh bàn sau bữa ăn, thường kéo dài đến hơn một giờ đồng hồ, Gastôn tỏ ra đau
khổ vì những người bạn thân đã lừa đối ông. Họ đã báo cho Gastôn biết rằng chiếc
máy bay đã được chuyển xuống một chiếc tàu thuỷ chưa đến đây và mặc dù những
người làm việc đường biển quen ông đã khẳng định rằng chẳng bao giờ chiếc tàu ấy
tới vì nó không có tên trong danh sách những con tàu ở vùng biển Caribê, nhưng
người bạn thân của ông vẫn cứ khăng khăng rằng tin của họ chính xác, thậm chí họ
còn nói bóng nói gió là Gastôn đã lừa dối họ qua những bức thư của ông. Thư từ
qua lại đã khiến họ nghi ngờ lẫn nhau tới mức Gastôn quyết định không viết nữa
và ông đã bắt đầu nghĩ đến khả năng đi ngay về Bruxen để làm rõ mọi chuyện rồi
sau đó sẽ quay lại đây với chiếc máy bay. Nhưng dự kiến ấy bị xẹp ngay, khi
Amaranta Ucsula nhắc lại quyết định của mình là sẽ không đi khỏi Macônđô cho dù
phải sống không chồng. Những ngày đầu Aurêlianô cũng nghĩ như những người khác
rằng Gastôn là một thằng ngốc trên chiếc xe làm xiếc, và điều đó khiến cho
Aurêlianô thoáng có chút thương hại đối với ông ta. Sau đó, khi qua các nhà chứa,
anh có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của những người đàn ông, thì
anh nghĩ rằng tính hiền từ của Gastôn bắt nguồn từ một sự đam mê ương bướng.
Nhưng khi hiểu Gastôn sâu sắc hơn, và khi biết rằng tính cách thực sự của
Gastôn đối lập với cách cư xử nhũn nhặn của ông, thì Aurêlianô ngờ rằng đến cả
việc Gastôn chờ máy bay cũng là chuyện dối trá. Từ ấy, Aurêlianô cho rằng
Gastôn chẳng ngờ nghệch như ông ta thể hiện, mà ngược lại đó là một người đàn
ông cực kỳ kiên nhẫn, khôn khéo và bình tĩnh, người dự tính sẽ chiến thắng vợ
mình bằng cách làm cho vợ mệt mỏi với sự mãn nguyện hoàn toàn, với việc mình
luôn luôn đồng tình tuyệt đối, để mặc cho vợ bối rối trong đám mạng nhện của cô
ta, đến một ngày nào đó khi không chịu đựng nổi sự chán ngán của những ảo tưởng
trong tầm tay nữa thì chính cô ta sẽ thu xếp va-li để quay lại châu Âu. Lòng
thương hại trước đây của Aurêlianô chuyển thành một lòng căm ghét sâu sắc.
Aurêlianô thấy những dự tính và việc làm của Gastôn thật tồi tệ nhưng đồng thời
cũng rất có hiệu quả, bởi vậy anh đã liều lĩnh nói điều đó cho Amaranta Ucsula
biết. Nhưng Amaranta Ucsula đã cười giễu sự đa nghi của Aurêlianô, cô ta không
hề bộc lộ một sự rạn nứt nhỏ của tình yêu, một chút dao động hoặc ghen tuông
trong lòng. Amaranta Ucsula không hề nghĩ rằng cô ta đã làm nảy sinh ở
Aurêlianô một điều gì đó ngoài tình cảm chân thành, cho đến một hôm cô ta bị đứt
tay vì cố mở nắp hộp mứt đào, và Aurêlianô vội chạy lại hút máu ở chỗ ngón tay
rớm máu ấy với một sự khao khát và thèm thuồng đến mức cô gai người lên.
- Aurêlianô - cô ta
cười, hồi hộp, - anh thật quá xấu, đến độ trở thành một con dơi ranh mãnh.
Lúc ấy, Aurêlianô đầy
sung sướng. Anh đặt những chiếc hôn tội nghiệp lên bàn tay bị thương, anh bộc lộ
những điều thầm kín nhất của trái tim, những nỗi niềm đau khổ và dằn vặt trong
lòng mình. Aurêlianô kể với Amaranta Ucsula rằng nửa đêm anh đã thức dậy để
khóc với sự cô đơn và thèm khất điên cuồng trên những chiếc quần áo lót mà cô
phơi trong nhà tắm như thế nào. Anh kể rằng mình đã đòi hỏi da diết như thế nào
để Nigrômanta kêu lên những tiếng kêu gừ gừ như tiếng một con mèo cái và rên rỉ
bên tai những tiếng “Gastôn, Gastôn, Gastôn.” và cả chuyện anh đã ma lanh cuỗm
nhẹ những lọ nước hoa của cô như thế nào để xoa lên cổ những cô gái trẻ ăn nằm
vì tiền với anh. Hoảng sợ trước dục vọng của anh chàng phóng đãng nọ, Amaranta
Ucsula từ từ nắm tay lại, những ngón tay co dần như chú ốc thu mình, cho đến
khi bàn tay bị thương của cô không còn thấy đau đớn, và mọi dấu vết của lòng
thương hại biến thành một khối ngọc bích và thạch anh, biến thành những chiếc
xương cứng vô tri vô giác.
- Ðồ ngu! - Cô gái
nói như thể đang nhổ cái gì đó… - Tôi sẽ đi Bỉ trên chuyến tàu dầu tiên rời bến.
Một buổi chiều nọ
Anvarô đã đến hiệu sách của nhà thông thái xứ Catalunha rao tướng lên điều phát
hiện mới nhất của anh ta: một nhà thổ bách thú gọi là Cậu bé vàng, đấy là căn
phòng rộng không có mái, có đến vài trăm chú diệc nhởn nhơ cứ lâu lâu lại kêu
quàng quạc ầm ĩ. Trong những chiếc lồng lưới thép đặt xung quanh sàn nhảy, giữa
những bụi hoa trà lớn gốc vùng Amazôn là những đàn cò lửa, những con cá sấu
sùng sục rúc mõm vào chậu thức ăn như đàn lợn, những chú rắn mười hai chuông,
và một con rùa mai vàng đang ngụp lặn dưới cái biển nhân tạo nho nhỏ. Có một
con chó cái trắng, thuốn, vừa làm nhiệm vụ của con đực chuyên đi tơ với những
con chó cái khác, vừa phải làm cái việc của một con chó cái nuôi con để người
ta cho ăn. Không khí dịu nhẹ, như vừa mới được sinh ra, và những cô gái lai xinh
đẹp chờ đợi vô vọng giữa những cánh hoa ri máu và những đĩa hát lỗi thời, vốn
hiểu rõ cái công việc làm tình mà con người đã để quên nơi thiên đường trần
gian này. Ðêm đầu tiên nhóm đến thăm căn nhà nghỉ đông tưởng tượng kia, bà cụ
già rực rỡ và trầm lặng ngồi gác lối vào trên một chiếc ghế mây, cảm thấy thời
gian như trở lại cội nguồn của nó khi bà lão phát hiện thấy trong số năm người
vừa tới có một người đàn ông xương xấu, vàng bủng, gò má cao như người tácta,
mang dấu ấn cô đơn vĩnh viễn từ thuở khai thiên lập địa.
- Trời ơi! - Bà lão
kêu lên. - Aurêlianô!
Bà lão lại đang nhìn
thấy đại tá Aurêlianô Buênđya như đã nhìn thấy ánh sáng ngọn đèn từ rất lâu trước
các cuộc chiến tranh, trước sự tiêu tan của vinh quang và sự tàn lụi của niềm
vui, cái buổi đêm về sáng xa xăm kia khi ông bước vào phòng ngủ để ra cái lệnh
đầu tiên trong cuộc đời: lệnh ban cho ông sự ân ái. Ðấy là Pila Tecnêra. Từ nhiều
năm trước khi vào tuổi một trăm bốn lăm, bà lão đã từ bỏ cái thói quen có hại
là tính tuổi của mình, và tiếp tục sống trong cái thời gian tĩnh tại, bên lề của
những kỷ niệm, và sống trong một tương lai hoàn toàn được xác định, vượt ra
ngoài những tương lai bị xáo trộn bởi sự ràng buộc và những phỏng đoán xúc xiểm
từ những quân bài.
Từ đêm ấy trở đi,
Aurêlianô ẩn náu trong sự dịu hiền và thông cảm của cụ tổ năm đời chưa bao giờ
biết tới. Ngồi trên chiếc ghế xích đu mây, bà lão nghĩ về quá khứ, nhớ lại những
gì là vĩ đại và nỗi bất hạnh của gia đình và sự huy hoàng đã bị tàn phá của
Macônđô, trong khi Anvarô làm đám cá sấu hoảng sợ với những chuỗi cười ầm ĩ, và
Anphônxô thì bịa ra những chuyện khủng khiếp về những con diệc đã mổ mắt người
khách làng chơi cư xử không tốt vào tuần trước, còn Gabrien thì ngồi trong buồng
của cô gái lai tư lự không lấy tiền của khách mà chỉ nhờ viết hộ những bức thư
cho anh chàng người yêu buôn lậu đang bị tù ở bên kia sông Orinôcô vì bị đám
lính biên phòng tóm được và bắt ngồi trên một chiếc bô buộc phải ỉa ra đầy cứt
và kim cương. Cái nhà thổ thực sự với bà chủ như một người mẹ kìa, chính là cái
thế giới mà Aurêlianô hằng mơ ước trong sự kìm hãm kéo dài. Anh cảm thấy sung
sướng, cảm thấy gần đạt tới sự gặp gỡ hoàn hảo, đến mức chẳng nghĩ đến sự trốn
tránh nào khác vào cái buổi chiều mà Amaranta Ucsula làm tan vỡ ảo mộng của
mình. Anh sẵn sàng van nài để ai đó phá bỏ hộ cái sự tức tối như nghẹn lại
trong lồng ngực, nhưng anh chỉ có thể bật khóc nức nở trong lòng Pila Tecnêra.
Bà lão lấy tay xoa đầu anh, để cho anh khóc thoả thích. Và dẫu anh không nói ra
là đang khóc vì tình, bà lão đã nhận ra ngay cái tiếng khóc cổ sơ nhất trong lịch
sử con người.
- Nào thôi, chút bé bỏng
của ta! - Bà lão dỗ dành, - bây giờ chút hay nói xem người ấy là ai.
Khi Aurêlianô vừa
nói, Pila Tecnêra bật lên cái cười sâu thẳm, tiếng cười lan toả từ xa xưa chấm
dứt để rồi sau đó dần dần chuyển thành tiếng cười giống tiếng cù rục cù rục của
loài chim bồ câu. Không có điều bí mật nào trong trái tim của người trong dòng
họ Buênđya mà bà lão không hiểu được, bởi vì một thế kỷ ảo mộng và kinh nghiệm
đã dạy cho bà lão biết lịch sử của gia đình giống như một chuỗi dài những điều
lặp đi lặp lại không tránh khỏi, như một chiếc đĩa quay có thể cứ quay mãi,
quay mãi đến vô tận, nếu không có sự hao mòn dần dà vô phương cứu chữa của chiếc
trục.
- Ðừng lo chú ạ. - Bà lão cười. - Dù nó đang ở
đâu, lúc này nó cũng đang đợi chút.
Vào lúc bốn giờ rưỡi
chiều, Amaranta Ucsula bước ra khỏi nhà tắm. Aurêlianô nhìn thấy cô bước qua cửa
phòng mình trong chiếc váy tắm nếp là phẳng phiu, đầu quấn chiếc khăn. Anh liền
nhón chân nhè nhẹ bước theo, ngất ngưởng như người say và anh bước vào phòng
tân hôn của vợ chồng Amaranta Ucsula đúng lúc cô mở khuy chiếc váy tắm và bỗng
giật mình khép lại. Cô lặng lẽ chỉ tay về phía buồng bên cạnh cửa hé mở.
Aurêlianô biết là Gastôn đang bắt đầu viết thư ở đó.
- Ra ngay đi. - Cô
nói rít không thành tiếng.
Aurêlianô mỉm cười,
hai tay bế thốc ngang lưng cô, như là bưng chậu thu hải đường, đặt ngửa lên
giương. Phắt một cái, anh kéo tuột chiếc váy tắm trước khi cô kịp ngăn lại, và
anh như rơi xuống vực thẳm trước tấm thân trần truồng vừa tắm rửa xong, trắng
ngần, nõn nà, mà trong bóng tối của những căn buồng bên cạnh hầu như anh đã tưởng
tượng ra hết cả, kể từ những lỗ chân lông đến những nốt ruồi ẩn kín. Amaranta
Ucsula chống lại kịch liệt: với sự khôn khéo của giống cái thông minh, cô oằn
mình, xoay giở thân hình uyển chuyển và thơm tho như một con chồn, đồng thời
thúc hai đầu gối vào bụng còn hai tay thì cào lên mặt chàng trai, nhưng cả hai
không ai thở mạnh khác với nhịp thở của người đang ngắm nhìn buổi chiều tà tháng
tư qua cửa sổ. Ðấy là một cuộc vật lộn dữ dội, một cuộc giành giật sống mái,
tuy nhiên hầu như không có chút bạo lực nào, bởi vì đó là một cuộc vật lộn của
những bóng ma, chậm rãi, thận trọng, trang nghiêm, nghĩa là khoảng thời gian
hai bên giằng co nhau đủ để cho cây khiên ngư nở hoa và Gastôn ở phòng bên thì
quên hết ước mơ trở thành người lái máy bay, và họ như hai người yêu thù địch
đang ra sức thoả hiệp với nhau dưới đáy ao sáng ngời. Trong sự co kéo quyết liệt
và trang nghiêm đó, Amaranta Ucsula hiểu rằng sự im lặng thận trọng của cô thật
là vô lý, nó có thể làm chồng mình ở buồng bên sinh nghi hơn cả những tiếng động
mạnh mà cô đang ra sức tránh.
Cô bèn cười nhè nhẹ,
và vẫn không ngừng chống trả, nhưng cô đang tự vệ bằng những miếng cắn giả tạo
và dần dần thôi không oằn mình lẩn tránh nữa, cho đến lúc cả hai đều hiểu rằng
họ vừa là địch thủ vừa là kẻ đồng loã, và cuộc giằng co đã biến thành một trò
chơi vuốt ve nhau. Bỗng nhiên, như là để thử chơi, thử mạo hiểm một lần nữa,
Amaranta Ucsula thôi không chống đỡ, và khi hoảng sợ trước điều mà chính cô đã
tạo điều kiện cho nó diễn ra, cô ra sức phản ứng lại nhưng đã quá muộn mất rồi.
Một sự rung động kỳ lạ đã chôn chặt cô, giữ chịt lấy cô, và ý chí tự vệ của cô
đã bị nghiền nát bởi khát vọng không thể kìm lại được là phát hiện xem những tiếng
hú màu vàng và những quả bóng vô hình đang đợi cô ở bên kia cái chết là gì. Cô
chỉ còn kịp với tay quờ quạng tìm chiếc khăn nhét vào mồm và cắn chặt lấy để những
tiếng gừ gừ của mèo cái đi tơ không bật ra từ trong sâu thẳm lòng mình.