Trăm năm cô đơn - Chương 16 - Phần 2
Ông vẫn mải mê xem từ
điển bách khoa hơn là lo lắng cho cái ăn hàng ngày, ngay cả khi buộc phải bằng
lòng ăn thịt cày và một ít cơm vào bữa trưa. “Quả thật là lúc này không thể làm
gì được.” Ông nói: “Nhưng mưa không thể mưa suốt cả đời được”. Và trong lúc ông
càng chậm trễ lo lắng cái ăn đang thức bách bao nhiêu thì Phecnanđa càng nổi
cơn tam bành kịch liệt hơn, kể cả những lời chửi bới, những câu văng tục ít thấy
của bà cứ tuôn ra trong một cái thác không thể nào kìm được, nó bắt đầu từ sáng
sớm như một khúc dạo đầu đơn điệu của một cây đàn ghita, và nó tiến triển theo
kiểu ngày cứ trôi đi thì nó càng cao giọng hơn, mỗi lúc một du dương hơn và hấp
dẫn hơn. Aurêlianô Sêgunđô vẫn chưa ý thức được những lời chửi bới như hát hay ấy
mãi cho đến ngày hôm sau, sau bữa điểm tâm, khi ông cảm thấy khó chịu bởi tiếng
vo ve mà lúc này nghe át cả tiếng mưa rơi và đó là Phecnanđa, người đang đi lại
khắp nhà để ta thán rằng cha mẹ bà đã nuôi dạy bà như một bà hoàng để đến nỗi
giờ đây bà là con ở trong một cái nhà toàn những người điên, với một ông chồng
lười chảy thây, lại trai lơ và buông tuồng, rằng ông ta lúc nào cũng nằm ngửa
há miệng chờ sung rơi trong lúc bà phải thẳng da lưng trùng da bụng làm lụng để
duy trì một gia đình sắp khánh kiệt, nơi phải làm việc nhiều, phải chịu đựng và
phải chỉnh đốn lại kể từ khi trời sáng cho đến khi đi nằm mà lúc lên giường mắt
đã cộm lên nhức nhối, thế mà chẳng một ai hỏi đêm qua có ngủ ngon không
Phecnanđa lấy một lời, cũng chẳng ai hỏi bà dù chỉ là xã giao thôi vì sao dạo
này lại xanh xao thế, vì sao đôi mắt lại thâm quầng thế mặc dù rằng bà không đợi,
dĩ nhiên rồi, rằng điều đó lại được thốt lên từ miệng một người nào trong cái
gia đình vốn lúc nào cũng coi bà là một trở ngại, là một cái bã lau, là một con
khỉ vẽ trên tường, và rằng cả nhà họ thi nhau lên tiếng nói xấu bà ở khắp nơi
khắp chốn, để mà gọi bà nào là kẻ làm ra vẻ mộ đạo, là kẻ giả dối, là con thạch
thùng, và ngay đến Amaranta, mà lúc này đã yên nghỉ, gay gắt bảo bà là kẻ tôm đội
cứt lên đầu, lạy Chúa tha tội cho, ôi ngôn từ gì mà quá thể thế, và bà đã cố gắng
chịu đựng hết với sự nhẫn nhục vì ý định của Cha thánh thần, nhưng bà đã không
thể chịu đựng được hơn khi Hôsê Accađiô Sêgunđô đểu cáng nói rằng gia đình này
khánh kiệt là do đã mở cửa rước mụ gián điệp về, hãy tưởng tượng mà xem, ôi lạy
Chúa, một mụ gián điệp độc đoán, ôi lạy Chúa, một mụ gián điệp mang dòng máu hạ
đẳng, cùng một bản chất với những tên mật vụ được chính phủ phái tới để bắn giết
những người lao động, hãy nói cho bà biết, và điều đó ám chỉ ai nếu không phải
là ám chỉ bà, con gái nuôi của nữ công tước Anba, một mệnh phụ trâm anh thế phiệt
từng đẻ ra các phu nhân tổng thống, một tiểu thư quý tộc đích thực như bà có
quyền kí với mười một tên họ lừng lẫy ở Tây Ban Nha, và rằng bà là người duy nhất
ở cái làng của những đứa con hoang cảm thấy hãnh diện trước mười sáu bộ đồ ăn
bày trên bàn để cho ngay sau đó con ớ thông dâm với chồng bà cười như nắc nẻ
nói rằng nhiều thìa dĩa, dao ăn thế. kia chẳng phải là đồ ăn của các con chiên
của Chúa mà là đồ ăn của loài rắn, và bà là người duy nhất nhắm mắt lại đã có
thể khẳng định được khi nào thì phục vụ rượu màu, róc ở phía nào, vào cốc nào,
chứ không như thói quê mùa của Amarnta, người đã yên nghỉ, lại cứ tưởng rằng rượu
trắng uống vào buổi ban ngày còn rượu màu vào ban đêm, và bà là người duy nhất ở
cả vùng duyên hải này khi ỉa đái thì ngồi vào bô vàng chứ không ngồi chồm hỗm
như những kẻ khác, để đến nỗi sau này đại tá Aurêlianô Buênđya, người đã ngủ giấc
ngàn thu, với buồng mật tệ hại của bọn Tam điểm đã dám hỏi bà thói kiêu kì ấy
khởi sự từ đâu, làm như thể bà không ỉa ra cứt mà ỉa ra hoa Axtrômêlia[32],
các ông các bà hãy nghĩ mà xem, ngài lại nói những từ như thế đấy, và để cho
Rênata, chính con gái bà, mà do vô tình đã nhìn thấy phân của bà ở ngay trong
phòng ngủ, đã trả lời rằng sự thật cái bô ấy bằng vàng có khảm gia huy nhưng
cái có ở bên trong lại là cứt thật, nhưng còn tồi tệ hơn các thứ cứt đái khác,
đó là cứt của con mụ gián điệp, các ngài hãy tưởng tượng mà xem, chính là con
gái bà đấy, vậy là bà sẽ chẳng bao giờ còn trông mong vào một người nào của cái
gia đình này, nhưng dù sao bà vẫn có quyền chờ đợi một chút coi trọng nào đó của
chồng mình, bởi vì dù tất dù xấu thế nào đi nữa, ông là chồng bà, là tác giả của
bà, là người phán định hợp pháp của bà, là người đã tự nguyện quàng lên cổ mình
cái trọng trách dẫn bà ra khỏi nhà bố mẹ bà, vốn là nơi bà đan những chiếc mũ
tang bằng lá cây palma, bởi vì cha đỡ đầu của bà đã gửi cho Aurêlianô Sêgunđô một
bức thư tự tay người viết có in dấu chiếc nhẫn, chỉ để bảo ông rằng đôi tay cô
con nuôi của người được tạo ra không phải để làm những công việc tầm thường ở
cõi thế tục này, mà chỉ để đánh đàn tiểu phong cầm thôi, nhưng tuy nhiên, ông
chồng gàn dở đã lôi bà ra khỏi nhà cùng với những lời dặn dò ấy nhưng đã đày ải
bà vào xứ sở địa ngục nơi không thể thở được vì nóng bức, và trước khi bà làm
xong việc kiêng kị trong lễ Hạ trần thì ông chồng đã xách va li và cây đàn
phong cầm của những kẻ bợm nghịch đến chung chạ với một ả bất hạnh, người mà
người ta đã nói chỉ cẩn nhìn bộ mông, đúng thôi, chỉ cần nhìn ả ngoáy bộ mông
ngựa cái non là đã đoán được rằng ả là một, là một người đàn bà hoàn toàn trái
ngược với bà - vốn là một mệnh phụ - dù ở trong dinh phủ hay trong chuồng ngựa,
dù ở trên bàn hay trên giường, ở đâu cũng vậy vẫn cứ là một mệnh phụ quốc gia,
vốn kính nể Thượng đế và là nô lệ của Người và vâng theo Người, và là người
không thể đem so sánh, dĩ nhiên rồi, với các vũ nữ leo dây và cái bọn đàn bà
lang thang lêu lổng hiến thân cho người khác, dĩ nhiên, đã hiến thân cho tất cả
đàn ông, như những mụ tú bà hành nghề theo mất Pháp, hoặc giả lại còn tồi tệ
hơn, xin các ngài hãy nghĩ kĩ mà xem, bởi vì những con điếm theo mốt Pháp này
còn chút danh giá đã biết thắp ngọn đèn hồng ngay trước cửa để rước khách, ít
ra là như thế, bọn đàn bà ấy không còn thiếu một thứ xấu xa nào, xin hãy tưởng
tượng xem, và không thể đem họ so sánh với bà, vốn là người con gái duy nhất và
được cưng chiều của đônha Rênata Acgôtê và đông Phecnanđô đen Cacpiô, trước hết
là cụ bởi vì cụ là một ông thánh, một con chiên của những con chiên vĩ đại, là
công tử được tặng Huân chương Mộ chúa Giêsu, cụ thuộc vào lớp người trực tiếp
nhận từ tay Thượng đế đặc ân khi chết thì thi hài được bảo tồn nguyên vẹn trong
phần mộ với nước da mịn màng như nước da mỡ màng của cô gái đang thì yêu đương
và đôi mắt tươi và sáng như màu ngọc lục bảo.
[32] Một thứ hoa nhàu vàng có nhiều ở vùng đất
Trung Mỹ quanh biển Caribê.
- Ðiều đó không đúng,
- Aurêlianô Sêgunđô cắt ngang lời bà, - Khi được mang tới đây cụ đã thối ra rồi.
Ông đã đủ kiên tâm
nghe bà chửi suốt một ngày cho tới khi túm được một chỗ nói sai làm bà giật
mình. Phecnanđa không nghe lời ông, nhưng cũng phải chịu hạ giọng. Ðêm ấy,
trong lúc ăn tối, tiếng chửi đinh tai nhức óc của Phecnanđa đã bị tiếng mưa rơi
át đi. Aurêlianô Sêgunđô ăn rất ít, đầu cúi gằm xuống và ông đứng dậy lui về
phòng ngủ rõ sớm. Trong bữa điểm tâm ngày hôm sau, Phecnanđa run lẩy bẩy với
dáng vẻ mệt mỏi vì đêm qua kém ngủ và dường như bà hoàn toàn trơ trẽn vì bực tức.
Tuy nhiên, khi chồng bà hỏi liệu có thể được ăn trứng nóng không, thì bà không
đơn giản trả lời rằng kể từ tuần trước nhà đã hết trứng rồi, mà lại nói rằng bà
đã làm một bài văn tế đả kích kịch liệt đám đàn ông suốt ngày chỉ biết ngắm vuốt
cái bụng thế mà lại dám đòi ăn gan chim chiền chiện đấy. Như thường lệ,
Aurêlianô Sêgunđô dẫn bọn trẻ đi xem từ điển bách khoa, và Phecnanđa vờ vịt vào
phòng Mêmê dọn dẹp đồ đạc để chỉ thầm thì nói cho một mình ông nghe thôi: rõ dơ
cái mặt thớt dám bảo bọn trẻ là đại tá Aurêlianô Buênđya được in ảnh trong từ
điển bách khoa đấy. Buổi chiều ngày hôm đó, trong lúc bọn trẻ ngủ, Aurêlianô
Sêgunđô ngồi ở ngoài hành lang thì Phecnanđa đã theo ông ra tận đấy, bằng lời
chửi bới lầm rầm như tiếng nhặng xanh để mà khiêu khích ông, để mà xỉ vả ông, bảo
ông rằng trong lúc nhà chẳng còn gì ngay đến cả đá để mà ăn thì chồng bà ngồi
như một ông vua Ba Tư để ngắm mưa rơi, chỉ quen sống bám bọn đàn bà và sẵn lòng
cưới mụ vợ của thánh Giônat, người ngồi lặng yên nghe câu chuyện cá voi.
Aurêlianô Sêgunđô không nhúc nhích, cứ như một thằng điếc nghe bà chửi liền
trong hai giờ. Ông không ngắt lời bà, cứ để bà chửi cho đến chiều tà, khi ông
không thể chịu đựng hơn nữa cái tiếng kêu bong bong làm nhức nhối đầu ông.
- Làm ơn, có im đi
không nào?
Ngược lại Phecnanđa
càng cao giọng hơn. “Tôi chẳng việc gì phải im mồm cả.” Bà nói: “Ai không muốn
nghe tôi thì cứ việc cút đi” Thế là Aurêlianô Sêgunđô không tự chủ được nữa.
Ông từ từ đứng dậy, làm như thể để giãn gân giãn cốt thôi, rồi với cơn giận dữ
nhưng lại rất bình tĩnh và có phương pháp, ông đã bưng hết chậu thu hải đường
này đến chậu khác, hết chậu dương xỉ này đến chậu khác, rồi hết chậu kinh giới
ô này đến chậu khác, cứ thế ông ném từng chậu một xuống sàn nhà. Phecnanđa hoảng
hốt; bởi vì thực ra bà vẫn chưa ý thức được sức mạnh bên trong của những lời chửi
bới ấy, nhưng khi nhận ra thì đã muộn, không thể nào sửa đổi được tình huống nữa.
Vì điên tiết trước lời chửi bới không ngớt ấy, Aurêlianô Sêgunđô đập vỡ tấm
gương của chiếc tủ kính, rồi ông thong thả gỡ từng bộ phận tủ một đập vụn ra,
sau đó theo thứ tự, vẫn với vẻ điềm tĩnh và hài hoà mà trước đây ông đã có khi
dán những đồng tiền giấy lên tường, ông đập vỡ bộ đồ thuỷ tinh Bôhêmia, những
bông hoa giả, những bức tranh vẽ các cô gái đồng trinh đứng trên những con thuyền
chở đầy hoa hồng, những tấm gương ghép trong khung thếp vàng, ông đập hết cả những
gì có thể đập được từ trong nhà cho đến kho lương thực, cuối cùng ông kết thúc
với việc đập vỡ chum nước trong tiếng nổ vang vọng sâu lắng. Sau đó ông lau
tay, quàng tấm vải sơn rồi ra đi, và trước lúc nửa đêm ông mang về một số vại
thịt ướp, vài tải gạo và ngô cùng mấy buồng chuối. Kể từ lúc ấy, nhà lại không
thiếu cái ăn.
Có lẽ Amaranta Ucsula
và chú bé Aurêlianô sẽ nhớ trận mưa lụt này như một thời kì đầy hạnh phúc. Mặc
dù Phecnanđa luôn khắt khe đe nẹt, bọn trẻ vẫn bì bõm lội ở ngoài sân, săn bắt
những chú thằn lằn để mổ bụng chúng và chơi trò đầu độc nồi xúp bằng cách bỏ
vào đó phấn cánh bướm nếu Santa Sôphia đê la Piêđat không trông nom cẩn thận.
Ucsula là một thứ đồ chơi lí thú hơn cả của bọn trẻ. Chúng nó coi cụ như một
con búp bê cũ kĩ để trang điểm cho cụ: lấy nhọ nồi và phẩm đỏ bôi lên mặt cụ,
buộc các mảnh vải đủ màu sắc lên người cụ rồi khiêng cụ đi lại khắp các xó xỉnh
trong phòng, và suýt nữa chúng lấy mũi kéo làm vườn để móc mắt cụ như từng móc
mắt những con cóc. Không có gì làm cho chúng thích thú bằng những câu nói lảm
nhảm của cụ. Quả thế thật, kể từ năm thứ ba của trận mưa lụt này đã có cái gì
đó không bình thường xảy ra trong tâm trí cụ, bởi vì cụ đã dần dần đánh mất ý
niệm về thực tại đang sống, và nhầm lẫn thời đang sống với các thời kì xa xưa của
cuộc đời mình, cho đến lúc cụ khóc lóc thảm thiết ba ngày liền cho cái chết của
Pêtrônila Igoaran, bà cố nội của cụ, từng được chôn cất gần một thế kỉ nay. Cụ
chìm sâu trong trạng thái nhầm lẫn hết sức kì quắc đến mức cụ tin rằng chú bé
Aurêlianô này là con trai mình, ngài đại tá ấy, vào lúc chàng được cha dẫn đi
xem nước đá và anh chàng Hôsê Accađiô đang theo học chuyên đề để trở thành Giáo
hoàng ấy là đứa con trai đầu lòng của cụ, kẻ đã bỏ nhà để đi theo bọn digan. Cụ
nói đi nói lại về gia đình mình quá nhiều đến mức bọn trẻ thuộc lòng tên người
để tổ chức cho cụ những chuyến du chơi tưởng tượng với những người không những
là những người đã chết từ lâu rồi mà còn là những người sống ở các thời kì khác
nhau. Ngồi trên giường với mái tóc đã xám như tro và một chiếc khăn đỏ che lấy
mặt, Ucsula thật là hạnh phúc sống giữa những người thân trong gia đình được bọn
trẻ tưởng tượng và miêu tả lại không thiếu một chi tiết, làm như thể chúng thực
sự có quen biết họ.
Ucsula nói chuyện với
các bậc bề trên của mình về những sự kiện từng xảy ra trước khi cụ chào đời, cụ
vui sướng trước những tin tức họ cho cụ biết rồi cụ cùng họ khóc lóc cho những
người chết gần đây hơn so với những người chết đang nói chuyện với cụ. Không
lâu bọn trẻ biết được rằng trong suốt các buổi đi chơi tưởng tượng ấy, Ucsula
luôn luôn nêu một câu hỏi nhằm xác định xem ai là người trong lúc chiến tranh
đã mang tới nhà này một bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao to bằng người thực
để gia đình trông nom hộ cho qua mùa mưa bão.
Nhờ thế Aurêlianô
Sêgunđô nhớ lại kho của được chôn ở một nơi nào đó mà chỉ một mình Ucsula biết,
nhưng tất cả các câu hỏi cũng như mọi thủ đoạn ranh ma mà ông nghĩ ra được để
dò hỏi Ucsula đều trở nên vô ích, bởi vì trong lúc lang thang trong các ngõ
ngách bí hiểm của cơn mê muội, lúc nào Ucsula cũng giữ một điểm sáng trí tuệ để
bảo vệ điều bí mật mà cụ vốn rắp tâm sẽ chỉ nói cho một ai đó biết nếu người
này chứng minh được rằng mình là người chủ đích thực của số vàng được chôn giấu
kĩ càng. Cụ quá ư lanh lợi và khôn khéo đến mức khi Aurêlianô Sêgunđô đạo diễn
cho một trong số những người bạn nhậu nhẹt của mình đóng vai người chủ của số của
cải bị chôn giấu ấy và đưa y tới gập cụ cố mình, thì y đã phải thất bại trước
hàng loạt câu hỏi tỉ mỉ có gài bẫy sẵn của cụ.
Do đã tin rằng Ucsula
sẽ mang điều bí mật này xuống mồ nên Aurêlianô Sêgunđô thuê một đội thợ đấu với
lí do để đào các mương rãnh thoát nước cho sân trước và sân sau và chính bản
thân ông dùng cuốc chim và các dụng cụ dò tìm kim loại đã đào bới khắp nơi mà vẫn
không thấy gì chứng tỏ có vàng trong ba tháng khai quật vô vọng. Sau đó, tin rằng
quân bài nhìn rõ hơn mắt những người thợ đấu, ông vội tìm đến Pila Tecnêra;
nhưng bà lão lại cũng báo trước cho ông biết rằng sẽ không tìm thấy nó trước
khi trời tạnh mưa và hạn hán liên tục ba năm liền biến bùn lẩy thành bụi đất.
Những số liệu có vẻ thâm thuý và không xác thực của lời tiên đoán ấy đã khiến
cho Aurêlianô. Sêgunđô có cảm giác nó giống như truyện ngụ ngôn có tính chất
thông minh muốn buộc ông dừng công việc của mình lại và phải chờ ít nhất là ba
năm nữa để thoả mãn những dữ kiện của lời đoán. Ðiều đầu tiên khiến ông ngạc
nhiên đồng thời khiến ông càng thêm bối rối là sự thực này: từ giường Ucsula đến
hàng rào ở sân sau rộng một trăm hai mươi hài mét, đúng hệt như lời đoán của
Pila Tecnêra. Phecnanđa sợ rằng ông chồng mình lại điên rồ như người anh em
sinh đôi khi bà nhìn ông đăm chiêu tính toán, và còn tệ hại hơn thế nữa, khi
ông ra lệnh cho bọn thợ đấu đào sâu thêm một mét nữa ở những lòng mương đã đào.
Vì đam mê trong các cuộc đào bới đầy hào hứng - sự đam mê này hoàn toàn có thể
so sánh với sự đam mê của cụ cố nội khi cụ đi tìm con đường của những phát minh
lớn - Aurêlianô Sêgunđô gầy tọp đi và do đó sự giống nhau như đúc với người anh
em sinh đôi trước đây lại càng thêm đậm nét hơn, không chỉ do hình hài ông hao
gầy đi mà còn do cái vẻ xa lạ và thái độ trầm tư của ông nữa. Ông không lo lắng
quan tâm đến bọn trẻ. Ông ăn vào bất cứ lúc nào, ngay cả khi người ông lấm lem
bùn đất từ chân lên tận đầu, ông ngồi ăn ngay trong xó bếp và hầu như không trả
lời những câu hỏi bâng quơ của Santa Sôphia đê la Piêđat. Vì thấy ông làm lụng
trong hình thức khổ cực ấy, mà chưa bao giờ bà dám mơ rằng ông sẽ làm việc hăng
say như vậy Phecnanđa tin rằng sự rụt rè của ông lại là sự cẩn thận, rằng tính
hám của của ông lại là đức hi sinh, rằng tính ương ngạnh của ông lại là đức
kiên trì và tự đáy lòng mình bà ân hận A-rập thuộc thế hệ thứ ba vẫn ngồi ở
chính nơi đây và với thái độ của cha ông mình, nghĩa là vẫn trầm tư, hiên
ngang, không hề đau đớn trước thời gian và hoạn nạn, vẫn sống và chết như họ đã
từng trải qua dịch mất ngủ và ba mươi hai cuộc nội chiến của đại tá Aurêlianô
Buênđya. Tâm hồn khoẻ mạnh và kiên trinh của họ trước sự đổ nát của những bàn cờ,
những quán ăn, những quán chơi trò bắn súng, và cái ngõ hẻm nơi người ta vẫn đến
để xem số và đoán mộng, là hết sức đáng ngạc nhiên đến mức Aurêlianô Sêgunđô với
thái độ bông lơn vốn có đã phải hỏi rằng bằng những thủ thuật thần bí nào mà họ
không bị chết đuối trong trận mưa lụt vừa qua, cứ y như có bàn tay ma quỷ nào
đã giúp cho họ không bị chết chìm, và hết người này đến người khác, từ cửa nhà
này sang cửa nhà khác họ đều trả lời ông bằng cái nhìn mơ màng và một nụ cười
ranh mãnh, và tất cả không ai bảo ai, đều nói với ông một câu trả lời như sau:
Bằng cách bơi. - Có lẽ Pêtra Côtêt là người địa phương duy nhất có trái tim A-rập.
Ả tận mắt nhìn thấy những mảnh gỗ cuối cùng của các chuồng gia súc của mình bị
nước lụt cuốn đi, nhưng chính ả đã giữ cho ngôi nhà của mình vẫn đứng vững trước
mưa sa bão táp Trong năm cuối cùng của thời kì mưa lụt, ả đã nhắc Aurêlianô
Sêgunđô phải mau mau trở về, và ông này đã trả lời rằng sẽ không trở về nhà ả
đâu, rằng ả hãy quên câu hỏi đến bao giờ ông sẽ trở về nhà ả đi, nhưng thế nào
ông cũng mang một hòm tiền vàng về để lát nền buồng ngủ của ả. Thế là ả trằn trọc
suy nghĩ tự đào bới lòng mình để tìm một sức mạnh ngõ hầu giúp ả sống qua cái đận
khó khăn này, và ả đã tìm thấy một tình cảm hờn giận được nung nấu suy nghĩ kĩ,
vừa là thứ hờn giận chân chính và với chính tình cảm hờn giận này ả đã thề với
lòng mình là sẽ giành lấy bằng được số tài sản đã bị người tình xài phí và bị
mưa lụt làm cho khánh kiệt. Ðó là một quyết tâm không gì phá vỡ nổi đến mức tám
tháng sau khi ả nhắn lời cuối cùng, Aurêlianô Sêgunđô trở về nhà và thấy ả xanh
rớt, tóc tai bù xù, mắt sâu trũng và da mẩn đỏ loang lổ vì ngứa, thế mà vẫn
đang cặm cụi ngồi viết số trên những tờ giấy nhỏ để mở xổ số. Aurêlianô Sêgunđô
đứng chết lặng, và vì lúc này ông cũng gầy nhom với dáng vẻ trang nghiêm nên
Pêtra Côtêt không thể tưởng được rằng người trở lại tìm ả là người tình suốt đời
mà lại tưởng rằng người ấy là người anh em sinh đôi của ông.
- Mình điên rồi sao,
- ông nói. - Mình định lấy xương trắng ra mà trả thưởng sao?
Ả vội bảo ông nhìn
vào buồng ngủ và Aurêlianô Sêgunđô nhìn thấy một con la cái. Nó gầy guộc, chỉ
còn da bọc xương như chủ nhân của nó, nhưng nó linh lợi và kiên quyết như bà chủ.
Pêtra Côtêt đã nuôi
nó bằng chính nỗi hờn giận của mình và khi hết nhẵn cỏ, ngô, rễ cây, ả đã mắt
nó vào buồng ngủ của mình, cho nó ăn những tấm ga trải giường bằng phin nõn, những
tấm thảm Ba Tư, những chiếc chăn dạ, những tấm rêm nỉ, tấm áo thụng thêu chỉ
kim tuyến rồi đến cả những chiếc tua bằng lụa trang trí quanh chiếc giường đức
Giáo chủ của ả.