Trăm năm cô đơn - Chương 14 - Phần 1
Chương
14
Kỳ nghỉ hè cuối cùng
của Mêmê trùng đúng vào thời gian để tang ngài đại tá Aurêlianô Buênđya. Trong
ngôi nhà cửa đóng im ỉm suốt ngày này không có chỗ cho các cuộc vui. Người ta
thì thầm nói chuyện, lặng lẽ ăn, cầu kinh một ngày ba buổi và ngay đến các buổi
chơi đàn tiểu phong cẩm cũng mang âm điệu tang tóc. Mặc dù thầm ghét ngài đại
tá, nhưng do cảm kích trước lòng thành kính trang trọng mà chính phủ đã bày tỏ
để tưởng niệm kẻ tử thù của mình, Phecnanđa là người đã tổ chức thật chu đáo
đám tang đó. Như thường lệ Aurêlianô Sêgunđô lại ngủ ở nhà trong lúc con gái
ông nghỉ hè, và Phecnanđa cần phải làm một việc gì đó ngõ hầu lấy lại danh dự một
người vợ chính thức, vì năm sau, Mêmê đón nhận đứa em gái vừa mới sinh, được đặt
tên là Amaranta Ucsula, một cái tên do mọi người đặt bất chấp nguyện vọng của
bà mẹ.
Mêmê đã học xong. Văn
bằng chứng thực cô là một nghệ sĩ đàn tiểu dương cầm đã được công nhận nhờ
trình độ điêu luyện mà cô đã sử dụng để chơi các bản nhạc dân gian thế kỷ XVII
trong buổi lễ mừng kết quả học tập và với buổi lễ ấy người ta cũng làm lễ đoạn
tang cho ngài đại tá. Các vị khách mời khâm phục cô không chỉ ở nghệ thuật biểu
diễn mà hơn nữa còn ở tính cách nhị nguyên của cô… Tính nết bông lông và có khi
nhõng nhẽo trẻ con của cô dường như không phù hợp với bất kỳ một hoạt động
nghiêm chỉnh nào nhưng khi ngồi xuống bên cạnh cây đàn tiểu dương cầm lập tức
cô trở nên một cô gái khác hẳn. Nét chín chắn không lộ trước đã đem đến cho cô
dáng vẻ người lớn. Cô luôn luôn như thế. Thực ra Mêmê không có thiên hướng nào
rõ rệt, nhưng cô đã giành được những kết quả cao nhất nhờ luôn luôn làm việc với
một kỷ luật nghiêm khắc cất để tránh mâu thuẫn với mẹ mình. Giá có buộc cô học
bất kỳ nghề nào khác thì chắc chắn cô cũng sẽ giành được kết quả tương tự. Ngay
từ khi còn rất nhỏ tuổi, tính cách nghiêm khắc của Phecnanđa đã làm cô khó chịu,
nhưng cô vốn có thói quen hy sinh vì người khác, và nhiều lúc thói quen này còn
lớn hơn cả việc học tiểu dương cầm mà cô theo đuổi chỉ để khỏi va chạm với bà mẹ
cố chấp của mình. Trong buổi lễ bế giảng, cô có cảm giác hân hoan rằng tấm bằng
được viết với những con chữ gôtích và những chữ viết hoa có hình trang trí kèm
theo sẽ giải thoát cô khỏi lời cam kết mà cô đã chấp nhận không phải chỉ để
vâng lời, cũng chẳng phải để yên thân, và cô tin rằng kể từ phút giây này, ngay
cả Phecnanđa cố chấp cũng sẽ khỏi phải bận tâm đến cây đàn đã bị các cô nữ tu
sĩ coi là vật lỗi thời trong viện bảo tàng. Trong những năm đầu tiên, cô tin rằng
những tính toán của mình sai bét bởi vì sau khi một nửa thị trấn đã ngủ rồi,
thì không chỉ trong phòng khách nhà cô, mà trong không biết bao nhiêu buổi vui
chung, các buổi họp mặt ở nhà trường và các buổi lễ kỉ niệm được tổ chức ở
Macônđô, mẹ cô vẫn tiếp tục mời đến những thính giả mới mà bà biết chắc họ có
khả năng đánh giá những phẩm chất của cô con gái. Sau khi Amaranta mất và chỉ đến
khi ấy thôi, khi mà mọi người đều không bước chân ra khỏi nhà trong thời gian để
tang, Mêmê mới có thể hoàn toàn không bị lệ thuộc vào cây đàn tiểu dương cầm và
có thể bỏ quên chùm chìa khoá ở bất kỳ tủ quản áo nào mà không còn phải lo
Phecnanđa sẽ khó chịu lục soát xem lúc nào và ai đã làm mất thìa khoá. Mêmê chịu
đựng những sự phô trương của mẹ với lòng nhẫn nại mà cô đã có trong lúc học. Ðó
là cái giá cô phải trả cho tự do của mình. Phecnanđa quá đỗi sung sướng trước
thái độ hiền lành của con gái, quá đỗi tự hào trước lòng thán phục của mọi người
đối với tài nặng của cô, đến mức bà không ngăn cản việc các cô bạn gái đến chơi
chật cả nhà, việc cô đi chơi cả buổi chiều ở ngoài đồng chuối và đi xem những bộ
phim luôn được cha Antôniô Isaben công khai cho phép chiếu cùng với Aurêlianô
Sêgunđô hoặc với các bà bạn tin cậy của gia đình. Trong những lúc vui vẻ ấy, những
sở thích đích thực của Mêmê được bộc lộ rõ nét. Hạnh phúc của cô ở đầu bên kia
của kỷ cương nền nếp, trong các cuộc vui ồn ĩ, trong các cuộc nói chuyện tầm
phào về tình yêu, trong những buổi các cô gái khoá trái cửa buồng để cùng nhau
tập hút thuốc lá và nói về bọn con trai, và đã có lần họ chuyền tay nhau tu hết
ba chai rượu trắng rồi cuối cùng họ khoả thân để so đọ các bộ phận trên cơ thể
mình. Sẽ chẳng bao giờ Mêmê quên dược cái đêm cô bước vào nhà miệng nhai rễ cam
thảo và vì không ai phát hiện ra mình đang bị rượu vật đổ, cô ngồi xuống bên
chiếc bàn Phecnanđa và Amaranta đang lặng lẽ ăn cơm tối. Trước đó cô đã trải
qua hai giờ khủng khiếp ở trong phòng một người bạn gái, khóc lóc hoài vì buồn
và vì sợ hãi, và ở bờ bên kia cuộc khủng hoảng tâm trạng ấy cô bắt gặp một cảm
giác dạn dĩ rất lạ lùng mà mình vẫn còn thiếu để trốn khỏi trường học, để nói với
mẹ mình bằng những lời này lời nọ khiến bà phải nổi cáu về cây đàn tiểu dương cầm.
Ngồi ở ngay đầu bàn ăn, đang húp bát nước canh gà mà khi vào tới dạ dày nó giống
như một thứ thuốc tiên làm sống lại người chết, Mêmê nhìn thấy Phecnanđa và
Amaranta chìm trong vắng ánh sáng khắc nghiệt của thực tại. Cô phải cố gắng tự
kìm mình để khỏi nói thẳng vào mặt họ về những sự giả tạo, về trí tuệ nghèo nàn
và những thèm khát danh dự hão của họ. Kể từ kỳ nghỉ hè thứ hai trở đi, cô biết
rằng cha mình chỉ sống ở nhà để giữ thể diện và nhờ hiểu Phecnanđa như đã hiểu
bà và nhờ đã giúp bà để sau đó hiểu Pêtra Côtêt, cô đã tán thành cha mình. Cũng
có lúc cô muốn làm con gái của người tình của cha mình. Trong hơi men chếnh
choáng, Mêmê đã nghĩ rằng nếu như thời điểm ấy cô bày tỏ những suy tư của mình
thì chắc mọi người không khỏi ngạc nhiên và niềm vui thầm lặng của trò ranh
mãnh lộ ra quá ư mạnh mẽ đến mức Phecnanđa đã nhận ra:
- Con làm sao vậy? - Bà hỏi.
- Chẳng làm sao cả. - Mêmê trả lời. - Hầu
như đến tận bây giờ con mới phát hiện ra là con yêu bà trẻ và mẹ biết nhường
nào.
Amaranta giật mình nhận
thấy rất rõ trong câu trả lời ấy có hàm chứa ý tứ căm giận. Trái lại Phecnanđa
rất cảm động đến nỗi bà thấy mình lại phát điên khi Mêmê thức dậy vào lúc nửa
đêm đầu cứ ngọ nguy vì đau đớn và cứ nghẹn thở vì những cứ nôn ra mật. Bà đưa
cô một lọ dầu hải ly, đắp lên bụng cô một lá cao mù tạc và chườm lên đầu cô một
túi nước đá, rồi bà bắt cô ăn kiêng và ở trong nhà kín gió suốt năm ngày liền
theo đơn thuốc của viên bác sĩ ngông cuồng người Pháp mới đến, người sau hai giờ
khám bệnh đã đi đến kết luận quái gở: cô gái bị rối loạn kinh nguyệt. Trong trạng
thái tinh thần suy sụp, Mêmê không còn cách nào hơn là nín lặng. Ucsula lúc này
tuy đã mù hẳn nhưng vẫn hoạt bát và sáng láng, là người duy nhất đã chẩn đoán
chính xác. Ðối với ta, - cụ
nghĩ, - những triệu chứng này là
những triệu chứng biểu hiện rõ ở bọn say rượu. Nhưng không những cụ bác bỏ ý
nghĩ ấy mà cụ còn tự trách sự hời hợt trong suy nghĩ của mình. Aurêlianô
Sêgunđô cảm thấy nhức nhối lương tâm khi nhìn thấy tình trạng kiệt sức của Mêmê
do đó ông hứa trong tương lai sẽ quan tâm đến cô nhiều hơn. Quan hệ thân mật và
vui vẻ giữa người cha và cô con gái đã nảy sinh như thế đấy, và quan hệ này
trong một thời gian đã giải thoát ông khỏi những cuộc vui cô đơn và nó cũng giải
thoát Mêmê khỏi sự quản thúc của Phecnanđa mà không gây ra những cuộc cãi vã
không thể tránh khỏi trong gia đình. Thế là lúc ấy, Aurêlianô Sêgunđô phớt lờ mọi
lời cam kết để ở bên cạnh. Mêmê, dành cho cô phần lớn thời gian rảnh rỗi của
mình để dẫn cô đi xem phim hay xem xiếc. Trong những ngày gần đây, thân xác ục ịch
chậm chạp không cho phép ông cúi xuống buộc nút giày, và sự sung mãn đã khiến
cho ông bắt đầu kim hồ hởi. Sự phát hiện về cô con gái đã làm sống lại trong
ông tâm tính hồ hởi của thời trẻ, và nỗi thích thú được ở gần con gái đã dần dằn
tách ông khỏi sự ăn chơi phung phí. Mêmê nở rộ trong tuổi trưởng thành. Cô
không đẹp cũng như Amaranta không bao giờ đẹp, nhưng cô cởi mở, dễ gần và ngay
từ phút gặp gỡ đầu tiên đã cho ta cảm giác dễ mến. Cô có đầu óc tân tiến. Và
cái đầu óc tân tiến này thương hại cho tính kiêu ngạo lỗi thời và trái tim chai
sạn của Phecnanđa, và được Aurêlianô Sêgunđô rất hài lòng ủng hộ. Ông chính là
người đã quyết định lôi cô ra khỏi phòng ngủ từ lúc còn bé, nơi những con mắt
hãi hùng của các vị thánh vẫn tiếp tục làm cô sợ hãi ngay khi cô đã ở tuổi
thành niên, và ông đã sắp đặt cho cô một phòng có giường đệm, một phòng trang
điểm rộng rãi và những tấm rèm cửa bằng nỉ mà ông không biết rằng đó chính là
hình ảnh thứ hai của căn phòng Pêtra Côtêt. Ông quá ư hào phóng đối với cô đến
nỗi ngay cả số tiền ông có bao nhiêu ông cũng không biết, vì rằng chính cô đã
móc chúng từ các túi ra, và ông đã cung cấp cho cô biết bao đồ trang sức mới mỗi
khi cô đến các đại lý của Công ty chuối. Căn phòng của Mêmê đầy những túi đựng
đá bọt đánh bóng móng tay, những lô uốn tóc, những cái đánh bóng răng, những hộp
thuốc tô cho xanh mi mắt, rồi cơ man nào là thuốc mỹ phẩm và các đồ trang sức lạ
lẫm đến nỗi cứ mỗi bận bước vào phòng Phecnanđa lại đâm lo lắng với ý nghĩ rằng
phòng trang điểm của cô con gái chẳng khác gì phòng trang điểm của bọn điếm tân
thời. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy, Phecnanđa hoạt động theo một thời gian biểu
được chia sẻ giữa nhiệm vụ chăm sóc bé Amaranta Ucsula lúc này hãy còn làm nũng
và hay bệnh tật với việc viết những bức thư đầy cảm động cho các vị thầy thuốc
không thể nhìn thấy Vậy là, khi phát hiện ra sự đồng loã giữa chồng với con
gái, thì lời hứa duy nhất bà đòi hỏi ở Aurêlianô Sêgunđô là ông sẽ không dẫn
Mêmê tới nhà Pêtra Côtêt. Ðó là một sự đòi hỏi vô nghĩa vì ả nhân tình đang lộn
ruột trước tình thân mật giữa cha con Aurêlianô Sêgunđô, đến mức ả chẳng thiết
làm quen với Mêmê nữa. Một nỗi lo chưa hề biết tới làm cho ả đau đớn khắc khoải
như thể bản năng đã mách cho ả hay rằng Mêmê chỉ cần yêu ỏng ta thôi là đã có
thể giành lầy cái điều mà Phecnanđa không thể giành được: chiếm mất của ả một
thứ tình yêu vốn được coi là tình yêu bền chặt gắn bó với nhau cho đến chết. Lần
đầu tiên Aurêlianô Sêgunđô phải chịu đựng cảnh mặt sưng mày sỉa và những cú đá
thúng đụng nia khủng khiếp của nhân tình đến nỗi ông đâm sợ rằng những chiếc
hòm từng mang đi mang lại của mình lại lên đường trở về nhà vợ. Nhưng điều này
không xảy ra. Không một người đàn bà nào hiểu kỹ một người đàn ông như Pêtra
Côtêt hiểu nhân tình của mình, và ả biết rằng những chiếc hòm ấy sẽ ở nguyên vị
trí từ khi chúng được mang đến, bởi vì nếu có cái gì mà Aurêlianô Sêgunđô ghê tởm
thì đó chính là việc phải đảo lộn cuộc đời vì những sự tu tỉnh và thay đổi nếp
sống. Vậy những chiếc hòm đã ở đâu thì cứ ở nguyên đấy, và Pêtra Côtêt lao vào
việc giành lại người đàn ông ấy bằng cánh mài sắc thứ vũ khí duy nhất mà cô con
gái không thể nào địch nổi. Ðó cũng là một cố gắng không cần thiết, vì rằng
Mêmê không bao giờ có ý định tham dự vào những vấn đề riêng của cha mình. Cô
không có thừa thời gian để mà làm phiền ai. Chính cô tự quét lấy phòng và sửa
sang giường chiếu đúng như các nữ tu sĩ đã dạy bảo cô. Buổi sáng cô lo thêu may
váy áo của mình, lúc thì ngồi thêu ở ngoài hành lang, lúc thì ngồi may bên chiếc
máy may quay tay của Amaranta. Trong lúc mọi người ngủ trưa, cô ngồi luyện đàn
tiểu dương cầm trong hai giờ liền vì biết rằng sự cần mẫn hàng ngày sẽ giữ yên
lòng Phecnanđa. Cũng chính vì lý do đó, cô vẫn tiếp tục trình diễn các bản giao
hưởng trong các buổi bán hàng từ thiện và các buổi vui trong trường học mặc dù
những lời mời ngày một thưa hơn. thiều đến, cô chải chuốt, mặc bộ quần áo giản
dị nhất, đi đôi giày cao cổ và nếu như không cần phải đi theo Aurêlianô
Sêgunđô, cô sẽ đến nhà các bạn gái là nơi cô sẽ ở chơi cho đến giờ cơm tối. Hãn
hữu lắm Aurêlianô Sêgunđô mới không đến tìm cô để dẫn đi xem phim.
Trong đám bạn của
Mêmê có ba cô gái Mỹ đã phá bỏ cái hàng rào của khu nhà chung cư giống “khu chuồng
gà mắc điện” và có quan hệ bạn bè với các cô gái làng Macônđô. Một trong ba cô ấy
là cô Patrixia Brao. Do cảm kích trước tấm lòng hào hiệp của Aurêlianô Sêgunđô,
ngài Brao đã mở cửa nhà mình cho Mêmê và mời cô tham dự các buổi khiêu vũ ngày
thứ bảy vốn là những dịp duy nhất người Mỹ cùng vui chơi với người bản xứ. Khi
Phecnanđa biết chuyện, bà tạm thời gác chuyện chăm sóc bé Amaranta Ucsula và việc
viết thư cho các thầy thuốc không thể nhìn thấy của bà, để làm cho to chuyện
thêm. “Con hãy nghĩ mà xem, - bà nói với Mêmê. - Ngài đại tá nằm dưới mồ sẽ
nghĩ gì nào?”. Bà tìm sự đồng tình ủng hộ của Ucsula. Nhưng cụ già mù loà này,
trái với điều mọi người chờ đợi đã cho rằng chẳng có gì đáng phải lo ngại trong
việc Mêmê tham dự các buổi khiêu vũ cũng như chăm chút các quan hệ bạn bè với
những người Mỹ cùng lửa tuổi, miễn sao cô chắt gái lúc nào cũng biết giữ vững
quan điểm của mình và đừng để mình trở thành đồ đệ của đạo Tin lành là được rồi.
Mêmê lĩnh hội rất đúng tư tưởng của cụ cố nội, và vào ngày hôm sau các buổi
khiêu vũ cô dậy sớm hơn thường lệ để đi lễ mixa. Sự phản đối của Phecnanđa được
duy trì cho đến ngày Mêmê báo tin người Mỹ muốn nghe cô chơi đàn tiểu dương cầm
và điều này đã làm bà thay đổi lập trường. Lại một lần nữa cây đàn được đưa ra
khỏi nhà và được đưa đến nhà ngài Brao, nơi cô nghệ sĩ đàn tiểu dương cầm trẻ
tuổi đã nhận những tràng vỗ tay chân thành nhất và những lời chúc mừng nhiệt liệt
nhất. Kể từ dạo ấy, cô được mời đến nhà không chỉ vào các buổi khiêu vũ chiều
thứ bảy mà còn vào các buổi tắm ngày chủ nhật ở bể bơi, và mỗi tuần một bữa cơm
trưa. Mêmê tập bơi như một vận động viên chuyên nghiệp, chơi tennis và tập ăn
xúc xích xứ Virginia với dứa lát. Cô học tiếng Anh rất nhanh trong các buổi
khiêu vũ, tập bơi và tập tennis. Aurêlianô Sêgunđô phấn chấn quá đỗi trước những
bước tiến của cô con gái đến mức ông đã mua một cuốn từ điển bách khoa tiếng
Anh dày sáu tập gồm nhiều tranh ảnh màu của một người bán sách rong, để cô đọc
vào những lúc rỗi rãi. Việc đọc sách lôi cuốn hết tâm tri mà trước đây cô vẫn
dành cho cô bạn gái đáng yêu hoặc cho các buổi đóng kín phòng để ở trong đó với
các bạn gái, đó không phải vì người ta buộc cô phải đọc như một thứ kỷ luật mà
vì cô không có thú tán nhảm vốn là một thứ bệnh chung của mọi người. Cô nhớ lại
lần bị say rượu như một cú mạo hiểm ngây thơ mà cô cảm thấy hết sức ngộ nghĩnh,
đến mức cô kể lại cho Aurêlianô Sêgunđô nghe, và khi nghe, cha cô còn cảm thấy
thích thú hơn cả cô. “Nếu mẹ con mà biết được.” Ông nói với con gái trong lúc sặc
sụa cười. Như vẫn thường nói với cô rằng hãy tin ở mình, ông cũng đã nói với cô
rằng với chính lòng tin ấy cô có thể lộ cho ông biết mối tình đầu của cô. Và do
đó Mêmê đã kể cho ông biết cô thân với một chàng thanh niên Mỹ tóc đỏ, người đã
đến đây nghỉ hè với bố mẹ anh ta. “Bợm nhỉ?” Aurêlianô Sêgunđô cười: “Nếu mẹ
con mà biết được”. Nhưng Mêmê còn kể cho ông biết chàng trẻ tuổi người Mỹ ấy đã
trở về nước và cô vẫn chưa được biết tin tức gì của anh ta. Vậy là sự chín chắn
trong cách suy nghĩ của cô đã bảo đảm cho gia đình được êm ấm yên vui. Lúc này
Aurêlianô Sêgunđô dành nhiều thời gian hơn cho Pêtra Côtêt, và dẫu rằng thể xác
và tâm hồn ông không cho phép ông lao vào các cuộc vui chơi bạt mạng như trước
đây, ông vẫn không để lỡ dịp tổ chức chúng và không để yên cho cây phong cầm
lúc này đã có nhiều phím phải buộc lại bằng dây giày. Ở nhà, Amaranta khâu khăn
liệm cho mình mà không biết đến bao giờ thì xong, còn Ucsula cứ để mặc cho tuổi
già lôi kéo mình đến đáy sâu của sự mù loà, là nơi cái hình ảnh duy nhất có thể
nhìn thấy được là hình ảnh cụ Hôsê Accađiô Buênđya ở dưới gốc cây dẻ. Phecnanđa
củng cố quyền lực của mình. Những bức thư đều đặn gửi hàng tháng cho con trai
bà là Hôsê Accađiô lúc này không hề có lấy một dòng nói dối, ngoại trừ quan hệ
thư từ với các thầy thuốc không thể nhìn thấy, những người đã chuẩn đoán rằng
bà có một chỗ viêm tấy ở ruột già và họ đang chuẩn bị cho bà được thực nghiệm một
cách chữa bệnh bằng điều khiển từ xa.
Người ta đồn rằng
trong ngôi nhà mệt mỏi của dòng họ Buênđya sẽ êm ấm và hạnh phúc đời đời nếu
như cái chết đột ngột của Amaranta không làm cho cả thị trấn lại một lần nữa nhốn
nháo lên. Ðó là một sự kiện không ngờ. Dẫu rằng bà đã già và sống hoàn toàn
cách biệt mọi người nhưng người ta vẫn thấy bà chắc chân mạnh tay, đi đứng ngay
ngắn với cái sức khoẻ bền chắc như đá mà xưa nay bà vốn có. Không một ai biết
được ý nghĩ của bà kể từ khi bà dứt khoát từ chối đại tá Hêrinênđô Mackêt và
đóng chặt cửa buồng để một mình ở trong nhà mà khóc lóc. Khi ra khỏi phòng bà
đã cạn sạch nước mắt.
Người ta không thấy
bà khóc trước việc Rêmêđiôt - Người đẹp bay lên trời, trước việc trong một thời
gian ngắn cả mười bảy người con trai của đại tá Aurêlianô Buênđya bị tàn sát,
trước cái chết của chính ngài đại tá, vốn là người bà yêu mến nhất trần đời.
Tuy bà đã biểu lộ lòng thương của mình khi mọi người bắt gặp thi hài ngài ở dưới
gốc cây dẻ, nhưng tuyệt nhiên bà không nhỏ một giọt nước mắt. Bà đã giúp một
tay dựng tử thi dậy. Bà mặc cho ngài bộ trang phục chiến binh, cạo râu, chải
tóc cho ngài và bà trang điểm bộ râu cho ngài còn đẹp hơn cả ngài trang điểm nó
trong những năm tháng vinh quang của mình. Không một ai nghĩ rằng trong cử chỉ ấy,
bà đã để lộ tình yêu vì mọi người đã quen với sự thông thạo tang lễ của Amaranta.
Phecnanđa đùng đùng nổi cáu cho rằng Amaranta không hiểu những mối quan hệ của
đạo Cơ đốc với cuộc sống mà chỉ duy nhất hiểu những quan hệ của nó với cái chết,
như thể nó không phải là một tôn giáo mà chỉ là một tờ giấy quảng cáo cho thói
câu nệ hình thức ma chay. Amaranta chìm đắm quá sâu trong những kí ức bề bộn của
mình để hiểu cho được những lời nói ngụ ý sâu xa ấy. Bà đã bước tới tuổi già với
tất cả nỗi hoài nhớ tươi roi rói. Khi nghe những bản nhạc van của Piêtrô
Crêspi, bà vẫn có những khao khát muốn khóc như cái thuở mới lớn, như thể thời
gian và sự tự trừng phạt mình chẳng có nghĩa lý gì. Những băng nhạc mà chính bà
từng ném vào sọt rác với cái cớ chúng bị hơi ẩm làm cho mục hết, cứ tiếp tục
quay và gõ nhịp trong kí ức bà. Bà đã định nhấn chìm những khao khát ấy trong nỗi
đam mê tội lỗi ở giới hạn được phép với người cháu của mình là Aurêlianô Hôsê
và bà đã định ẩn nấp dưới sự che chở lành mạnh và cao thượng của đại tá
Hêrinênđô Mackêt, nhưng bà đã không tìm được cách đánh đổ hoàn toàn những khát vọng
ấy ngay cả trong hành động tuyệt vọng nhất của tuổi già; ấy là lúc tắm cho thằng
bé Hôsê Accađiô ba năm trước khi gửi nó đi học và bà đã mân mê nó không như một
người bà đối với đứa cháu mà lại như một người đàn bà đối với người đàn ông,
như chính cô điếm tân thời đã làm theo lời đồn của thiên hạ và như chính bà ở
tuổi mười hai, mười bốn từng muốn làm đối với Piêtrô Crêspi, khi thấy chàng vận
quần áo khiêu vũ và tay cầm cây gậy chỉ huy huyền diệu để lấy nhịp từ chiếc máy
đo nhịp. Ðôi lúc cái vết sẹo trên tay kia khiến bà đau khổ vì đã để nó theo
mình và đôi lúc nó khiến bà giận dữ quá đỗi đến mức phải lấy kim châm vào các
ngón tay, nhưng cái vườn ổi chín rộ thơm lựng của tình yêu đang tiến dần tới
cõi chết làm bà đau khổ hơn cả, khiến bà giận dữ hơn cả và cay đắng hơn cả. Như
đại tá Aurêlianô Buênđya nghĩ đến chiến tranh, Amaranta nghĩ tới Rêbêca, nghĩa
là không thể đừng được. Nhưng trong lúc anh trai bà đã tìm được cách làm cho những
kỷ niệm ấy khô cằn đi thì bà chỉ tìm cách khiến chúng nóng bỏng thêm. Ðiều duy
nhất bà cầu khẩn Thượng đế trong rất nhiều năm là ngài đừng để bà chết trước
Rêbêca. Cứ mỗi bận bà đi qua nhà Rêbêca và nhận thấy ngôi nhà đang ngày một đổ
nát thì bà cảm thấy sung sướng với ý nghĩ Thượng đế đang nghe lời cầu khẩn của
mình.