Trăm năm cô đơn - Chương 06 - Phần 1
Chương
6
Đại tá Aurêlianô
Buênđya đã phát động ba mươi hai cuộc vũ trang nổi dậy và thất bại hoàn toàn.
Chung đụng với mười bảy cô gái ở những làng khác nhau, ngài sinh được mười bảy
người con trai và tất cả bọn họ đều lần lượt bị giết hại chỉ trong một đêm trước
khi người con cả vừa đúng ba mươi lăm tuổi Ngài đã thoát nạn trước mười bốn vụ
mưu sát, bảy mươi ba vụ phục kích và một đội hành hình. Ngài sống sót qua vụ đầu
độc bằng bột mã tiền hòa trong cà phê với lượng đủ giết chết một con ngựa. Ngài
từ chối Huân chương Công Huân do Tổng thống nước Cộng hoà tặng. Ngài trở thành
Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng có uy quyền từ nước này sang nước
khác và là người buộc chính phủ phải gờm, nhưng không bao giờ ngài cho phép người
ta chụp ảnh mình. Ngài khước từ lương hưu trí dành cho mình sau chiến tranh và
sống cho đến tuổi già nhờ những chú cá vàng được sản xuất trong xưởng kim hoàn
của mình ở làng Macônđô. Mặc dù lúc nào cũng dẫn đầu quân đội của mình trong trận
mạc nhưng vết thương duy nhất trên người lại do chính tay ngài gây nên sau khi
ký hiệp định đình chiến Neclanđia, kết thức hai mươi năm nội chiến. Ngài tự bắn
một phát súng lục vào ngực mình và - viên đạn chui ra ở phía lưng không hề gây
tổn hại cho lực phủ ngũ tạng. Cái duy nhất còn lại trong hai mươi năm nội chiến
là con đường ở Macônđô mang tên ngài. Tuy nhiên, theo lời tuyên bố của ngài mấy
năm trước khi chết vì già lão, ngay điều đó cũng không hề là điều ngài mong đợi
trong buổi sáng ngài cùng với hai mươi mốt chàng trai khoẻ mạnh lên đường gia
nhập các lực lượng vũ trang của tướng Vichtôriô Mêđina.
- Chúng ta để lại
Macônđô cho cháu đấy. - Đó là tất cả những gì chàng nói với Accađiô trước lúc
lên đường. - Chúng ta hài lòng để nó cho cháu. Vậy cháu hãy cố gắng lo cho nó để khi
trở về chúng ta thấy nó tốt đẹp hơn.
Accađiô đã đáp lại lời
khuyên nhủ ấy theo cách riêng của mình. Cậu may một bộ quân phục với lon và tua
ngù cấp nguyên soái, mô phỏng theo hình vẽ trong cuốn sách của Menkyađêt và đeo
vào thắt lưng mình thanh gươm có bao khảm vàng của viên đại uý bị hành hình. Đặt
hai cỗ pháo ngay ở cổng làng, cho học trò cũ của mình - những kẻ điên khùng bởi
nhũng lời tuyên bố nẩy lửa của cậu - mặc đồng phức và cho chúng ngông nghênh
mang vũ khí đi đi lại lại trên khắp nẻo đường làng để gây cho những người lạ mặt
có cảm nghĩ đây là một vị trí quân sự bất khả xâm phạm. Đó là một trò chơi giống
như con dao hai lưỡi bởi vì nhờ nó chính phủ không dám cho quân tấn công quảng
trường liền trong mười tháng trời, nhưng cũng vì nó mà khi chính phủ ra lệnh tấn
công quảng trường thì quân đội đã dùng một lực lượng lớn được vũ trang cực mạnh
đến mức đã tiêu diệt lực lượng đề kháng chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Ngay từ ngày đầu tiên
thực thi quyền lực của mình, Accađiô đã lộ mặt la một kẻ hống hách. Hàng ngày,
cậu ta đọc lệnh cho tới bốn giờ chiều để ra lệnh và sắp đặt mọi việc theo ý muốn
của mình. Cậu ta thi hành lệnh cưỡng bức quân sự đối với những người từ mười
tám tuổi trở lên, tuyên bố trưng dụng những súc vật nào còn lang thang ngoài đường
sau sáu giờ chiều và bắt buộc những người đàn ông lớn tuổi phải đeo băng đỏ ở
cánh tay.
Giam lỏng cha Nicanô
trong tu viện với lời đe doạ sẽ đem bắn và cấm cha làm lễ mixa và kéo chuông nếu
không phải là để mừng thắng lợi của phái Tự do. Để không còn một ai nghi ngờ
tính chất nghiêm túc ở những chủ trương của mình, cậu ta ra lệnh cho một đội
hành hình tập bắn thằng bù nhìn ở ngoài quảng trường ngay trước mắt thiên hạ.
Lúc đầu chẳng một ai coi trọng điều đó. Chẳng qua là các cậu học trò chơi trò
người lớn thôi. Nhưng có một đêm, khi Accađiô bước vào tiệm ăn của bác
Catarinô, nghệ sĩ thổi kèn trômpét đã chào cậu bằng một hồi kèn bông lơn khiến
cho đám đông cười rộ lên, thế là cậu ra lệnh bắn chết anh ta vì tội không tôn
trọng nhà chức trách. Đối với những ai dám phản đối mình, cậu ra lệnh còng tay
nhất vào trại giam vốn là một phòng học và cho họ ăn bánh nhạt với nước lã. “Mày
là đứa giết người.” Ucsula mắng cậu mỗi khi bà biết được một hành động bạo ngược
mới của cháu mình. “Nếu Aurêlianô mà biết thì nó sẽ giết mày và tao sẽ là người
đầu tiên trong cái làng này hả lòng hả dạ”. Song những lời la mắng ấy của bà đều
vô ích. Accađiô vẫn điên khùng xiết chặt các ốc vít của bộ máy kìm kẹp cho đến
khi cậu ta trở thành tên khát máu nhất chưa từng có trong số những nhà chức
trách ở làng Macônđô. “Giờ đây mới khổ sở với sự tranh giành.” Đông Apôlina
Môscôtê nói ra miệng trong một số dịp: “Đó là Thiên đường của những kẻ Tự do mà”.
Accađiô biết. Cầm đầu toán quân lùng sục, cậu đột nhập ngôi nhà ở, đập phá bàn
ghế giường tủ, đánh đập các cô con gái và lôi xềnh xệch đông Apôlina
Môscôtê đi theo. Ngay lúc Accađiô sắp sửa đích thân ra lệnh cho đội hành hình nổ
súng vào đông Apôlina Môscôtê thì Ucsula, sau khi đã sượng
sùng la thét và giận dữ huơ huơ chiếc roi da sơn hắc ín để rẽ đám đông, làm ồn
cả sân trại lính: “Thằng đểu, mày hỗn vừa vừa chứ! “Trước khi Accađiô kịp phản ứng,
bà đã quất cho cậu một roi da, “Thằng giết người. Mày hỗn láo quá thể.” Bà
thét. “Mày giết cả tao nữa, đồ mất dạy. Như thế tao đỡ phải khóc vì nhục nhã đã
nuôi nấng một tên phản phúc”. Bà cứ thế quất lia lịa không thương tiếc, đuổi
theo cậu ta đến tận cuối sân mà đánh, làm cho cậu ta phải lăn lộn như một con ốc
sên. Đông Apôlina Môscôtê đứng chết khiếp đi, bị trói ghì vào
chiếc cột trước đây những thằng hình nộm tan xác pháo do đạn súng của đội hành
hình tập.
Các chàng trai của đội
hành hình tản mát hết vì sợ Ucsula sẽ đánh chết họ. Nhưng bà không thèm nhìn họ.
Để mặc Accađiô với bộ quân phức lôi thôi, lếch thếch, rên ri vì đau đớn và giận
dữ, bà đi cởi trói cho đông Apôlina Môscôtê rồi dẫn ngài về
nhà. Trước khi đi khỏi trại linh, bà còn thả nốt các chính trị phạm.
Kể từ dạo ấy, bà là
người cai quản làng Macônđô. Bà khôi phục lễ mixa ngày chủ nhật, bãi bỏ việc
đeo băng đỏ, bãi bỏ các đội tuần tra hung bạo. Nhưng vào lúc nghỉ ngơi bà vẫn
khóc than cho số phận hẩm hiu của mình. Bà cảm thấy quá ư cô quạnh đến mức bà
phải tìm đến người chồng bị lãng quên dưới bóng cây dẻ. “Mình ơi, mình hãy nhìn
cảnh ngộ của chúng ta, có thảm không chứ.” Bà nói với ông trong lúc những trận
mưa rào tháng bảy đe doạ quật đổ túp lều lá cọ. “Mình hãy nhìn ngôi nhà hoang vắng,
con cái chúng ta ly tán khắp thế gian, và một lần nữa chỉ có hai chúng ta với
nhau như cái thuở ban đầu”.
Hôsê Accađiô Buênđya
triền miên trong bể thẳm vô thức, cứ trơ như đá trước những lời thở than của
bà. Vào lúc mới điên rồ, ông thường dùng những câu latinh khó hiểu để thông báo
cho mọi người biết những nhu cầu tối cần thiết hàng ngày của mình. Trong những
lúc tỉnh táo ngắn ngủi, khi Amaranta mang cơm cho ông, ông đã báo cho cô biết
những phiền toái nhất của mình, và ông ngoan ngoãn uống thuốc cao hạt cải và để
cho cô giác máu. Nhưng ở thời kỳ Ucsula thở than bên ông thì ông hoàn toàn mất
khả năng tiếp xúc với đời thực. Ông ngồi trên ghế để bà tắm từng bộ phận một
cho mình. Trong lúc tắm bà kể cho ông nghe chuyện nhà chuyện cửa. “Đã bốn tháng
nay, Aurêlianô đi trận, và chúng ta vẫn chưa nhận được tin tức gì về hắn.” Bà
nói trong lúc kỳ cọ xà phòng cho ông. “Hôsê Accađiô dã trở về, đó là một người
đàn ông thực thụ, cao hơn cả ông ấy, và săm khắp người. Hắn trở về chỉ để mang
nỗi nhục cho gia đình mình”. Tuy nhiên, bà quan sát thấy hình như chồng mình buồn
trước những tin dữ ấy. Thế là bà đổi giọng khuyển sang nói dối ông “Mình đừng
tin những điều tôi vừa nói nhé.” Bà nói, trong lúc rắc gio xuống những bãi phân
của ông để lấy mo hót đi. “Thượng đế muốn Hôsê Accađiô và Rêbêca lấy nhau và giờ
đây chúng nó sống rất hạnh phúc”. Rồi bà trở nên quá thành tâm trong khi nói dối
đến nỗi ngay bản thân bà cũng cảm thấy dược an ủi bằng chính những lời mình phỉnh
phờ. “Accađiô đã trở thành một chàng trai đứng đắn - bà nói - rất dũng cảm và rất
bảnh bao diện bộ đồng phục và đeo kiếm bên hông”. Tất cả những lời ấy được nói
ra như thể nói với người chết, bởi Hôsê Accađiô Buênđya thanh thản, rất thanh
thản ở ngoài mọi băn khoăn lo lắng. Những bà vẫn không thôi. Bà thấy ông hiền
lành quá giống với mọi người quá, đến mức bà cởi trói cho ông. Ông vẫn nằm trên
chiếc ghế, như thể những chiếc chạc không còn cần thiết nữa, bởi vì dường như
đã có một sức mạnh còn mạnh hơn cả những nút trói buộc mà mắt thịt có thể nhìn
thấy đã trói ghì ông vào gốc cây dẻ. Vào khoảng tháng tám, khi mùa đông bắt đầu
dài lê thê, Ucsula đã có thể báo cho ông biết một tin:
- Này ông, vận may vẫn
đến với chúng ta đấy, - bà bảo ông, - Amaranta và anh người Ý chữa cây đàn
pianô tự động ấy sẽ cưới nhau đấy.
Quả thật, Amaranta và
Piêtrô Crêspi đã có một tình bạn sâu sắc. Cả hai đều được Ucsula đùm bọc yêu
thương. Lần này bà thấy không cần thiết phải ngồi canh chừng đôi trai gái chuyện
trò. Đó là một mối tình trong buổi hoàng hôn. Anh người Ý với bông hoa dành
dành trắng ngà nổi bật trên ve áo đến nhà vào buổi chiều, và dịch ra tiếng Tây
Ban Nha cho Amaranta nghe những bài thơ sônê của Petrăcca[21].
[21] Francisco
Petrarca (1304-1374) nhà thơ Ý, một trong những nhà nhân văn vĩ đại
Hai người ngồi ở hành
lang nồng nặc mùi hoa hồng và hoa thu hải đường. Chàng đọc thơ, nàng dệt những
tấm đăng ten, không hề biết những sự kiện kinh người và những tin dữ ngoài mặt
trận, cho tới khi muỗi đốt dữ dội họ mới chạy vào phòng khách. Tình cảm dịu
dàng của Amaranta với những lời âu yếm đầy ý nhị giống như một tấn mạng nhện vô
hình ngày một bọc chặt lấy người yêu mến đến mức vào lúc tám giờ tối buộc anh
phải lấy những ngón tay mai mái xanh đeo nhẫn gỡ nó ra để về nhà mình. Hai người
đã làm một cuốn albom tuyệt vời với những tấm bưu thiếp từ Ý gửi đến cho Piêtrô
Crêspi. Đó là những bức ảnh chụp những người yêu nhau trong những vườn hoa vắng
vẻ, với hình vẽ trang trí trái tin bị mũi tên xuyên ngang và những dải vàng
vương cánh những đôi bồ câu. “Anh biết công viên này ở Phlôrênxi.” anh nói,
trong lúc lần giở các tấm bưu thiếp. “Người ta vừa chìa bàn tay ra, lập tức chim đã sà xuống
để ăn”. Đôi lúc, trước một nhà cây cảnh, nỗi nhớ nhung đã biến mùi bùn và mùi
cá thối trong các kênh mương thành phố Vênêxi thành một mùi hoa thơm dìu dịu.
Amaranta thở dài, cười, mơ mộng đến một tổ quốc thứ hai gồm những chàng trai và
những cô gái đẹp lộng lẫy nói thứ tiếng nói của trẻ thơ, trên những thành phố cổ
kính mà thời huy hoàng oanh liệt xưa của chúng giờ chỉ còn lại những chú mèo lẩn
quất bên những đống gạch vữa đổ nát. Sau khi vượt qua trùng dương mênh mông
trong sự tìm kiếm của mình, sau khi đã nhầm lẫn nó với nỗi đam mê trong những
lúc âu yếm mãnh liệt của Rêbêca, giờ đây Piêtrô Crêspi đã gặp được tình yêu. Niềm
vui mang theo cả sự giàu có, lúc này cửa hàng của anh chiếm gần hết một ô phố.
Đó là một tủ kính khổng lồ kỳ ảo nhận phục chế những chiếc đồng hồ báo thức xứ
Phlorênxi mà mỗi bận điểm giờ chúng làm vang lên một bản hợp xướng những tiếng
chuông, bày bán những hộp phấn Tàu khiến năm ngón tay thích thú khi mở nắp, và
đủ loại nhạc cụ có thể tưởng tượng ra, đủ loại đồ chơi dây cót có thể mơ ước thấy.
Brunô Crêspi, em út của
anh, ngồi trông coi cửa hàng, bởi vì cậu chưa đủ khả năng đảm đương lớp học nhạc.
Nhờ có Piêtrô Crêspi đường Thổ Nhĩ Kỳ vội sự trưng bày lộng lẫy các thứ hàng
quý giá đã trở thành một nơi yên tĩnh du dương để quên đi nhũng hành động tàn bạo
của Accađiô và không khí ảm đạm muôn thuở của chiến tranh. Khi Ucsula quyết định
phục hồi các buổi lễ mixa ngày chủ nhật, Piêtrô Crêspi đã hiến nhà thờ một cây
đàn thiếu nhi, chuẩn bị một bài hát sẽ làm cho buổi lễ mixa trầm buồn của cha xứ
Nicanô vui hẳn lên. Không một ai còn nghi ngờ Amaranta sẽ là một người vợ hạnh
phức. Cứ để cho tình cảm lứa đôi mặc nhiên nẩy nở từ trái tim của hai người,
không cần phải thôi thúc, bọn họ đã đi đến đỉnh điểm của tình yêu chỉ còn thiếu
việc định ngày làm lễ cưới. Bọn họ không gặp một trở ngại nào. Ucsula thầm
trách mình với việc trì hoãn không thời hạn ngày cưới đã làm thay đổi số phận của
Rêbêca. Cho đến bây giờ bà vẫn chưa nguôi nỗi tủi hổ. Việc để tang Rêmêđiôt thật
nghiêm túc đã phải lui xuống hàng thử, bởi sự chết chóc do chiến tranh gây nên,
bởi sự vắng mặt của Aurêlianô, bởi hành động tàn bạo của Accađiô, bởi việc tống
khứ Hôsê Accađiô và Rêbêca ra khỏi nhà. Trước đám cưới sắp đến, chính Piêtrô
Crêspi đã khẩn khoản xin được coi Aurêlianô Hôsê vốn được anh quý như con đẻ,
là đứa con đầu lòng của mình. Tất cả đều khiến cho mọi người nghĩ rằng Amaranta
đang đi tới một hạnh phúc dễ dàng. Nhưng, khác hẳn với Rêbêca, cô không hề để lộ
sự thèm khát của lòng mình. Với chính cái tình cảm khi ngồi dệt những tấm khăn
trải bàn, những diềm đăng ten kết những con công đính trên cây thánh giá chờ đợi
cho Piêtrô Crêspi không thể ghìm được những đòi hỏi khẩn cấp của trái tim anh.
Giờ tận số của anh đã đến vào những ngày mưa bất hạnh trong tháng mười. Piêtrô
Crêspi gỡ tay cô khỏi khung thêu và hai tay anh cầm thật lâu bàn tay cô. “Anh
không thể đợi hơn được nữa.” anh nói với cô. “Chúng ta sẽ cưới nhau vào tháng tới
nhé”. Amaranta không run rẩy khi tay cô chạm phải bàn tay lạnh buốt của anh. Cô
từ từ rút tay mình ra khỏi hai tay anh. Giống như một con vật lẩn tránh, cô lại
tiếp tục công việc.
- Thôi đi đừng có mà
ngây ngô quá thế đi Crêspi. - Cô cười. - Dù có chết tôi cũng không lấy anh đâu.
Piêtrô Crêspi không tự
chủ được bản thân. Anh khóc nức nở không còn biết xấu hổ, gần như bóp nát các
ngón tay vì thất vọng. Nhưng anh vẫn không lay chuyển được cô. “Đừng chần chừ mất
thời gian nữa.” Đó là tất cả những gì mà Amaranta có thể nói. “Nếu quả tình anh
yêu tôi tha thiết thì xin đừng bước tới nhà này nữa.” Ucsula tưởng như mình
phát điên lên vì xấu hổ. Piêtrô Crêspi trổ hết tài van xin, tự hạ mình tới mức
không thể tưởng tượng được. Suốt một đêm anh khóc như một đứa bé trên ngực
Ucsula, người có lẽ phải bán cả linh hồn để an ủi anh.
Trong những đêm mưa
người ta bắt gặp anh đội chiếc ô lụa lảng vảng quanh nhà cố lòng bắt gặp ánh
sáng trong phòng Amaranta. Chưa bao giờ anh mặc diện như lúc ấy. Mái đầu đẹp lộng
lẫy như của một vị hoàng đế qua cơn sóng lòng đã mang vẻ lạ lẫm hẳn đi. Anh đón
đường các bạn gái của Amaranta, những cô gái vẫn thường đến thêu ở hành lang, để
nhờ họ khuyên giải Amaranta. Anh không còn lòng dạ nào chăm lo tiệm buôn. Suốt
ngày anh ở nhà trong viết những bức thư nhàm chán để gửi đến Amaranta cùng với
những cánh hoa và những con bướm ướp khô. Nhưng cô vẫn để nguyên gửi trả anh.
Đóng cửa phòng, anh ngồi lỳ ngày nọ qua ngày kia để chơi đàn lục huyền. Có một
đêm anh hát. Macônđô thức dậy trong nỗi thảng thốt đặc biệt mà tự cảm thấy mình
được thần thánh lựa bởi tiếng đàn lục huyền vang lên rền rĩ không phải từ thế
gian này mà bởi một giọng hát nỉ non chan chứa tình yêu thương dường như không
thể có trên mặt đất này. Thế là lúc đó Piêtrô Crêspi nhìn thấy ánh sáng ló ra từ
cửa sổ khắp các nhà trong làng chỉ trừ cửa sổ phòng Amaranta. Ngày mồng hai
tháng mười một, ngày lễ của tất cả các vong linh, em trai anh mở cửa hàng và bắt
gặp tất cả các ngọn đèn đều thắp sáng, tất cả các hộp nhạc đều mở, tất cả đồng
hồ đều dừng lại ở một giờ vô tận, và trong quang cảnh ngổn ngang ấy cậu thấy
Piêtrô Crêspi ngồi bên bàn viết ở nhà trong với bàn tay các ngón đều bị dao cắt
ngâm trong chậu cánh kiến.
Ucsula quyết định sẽ
quàn thi hài anh trong nhà mình để làm lễ viếng. cha Nicanô khước từ làm lễ rửa
tội cho anh và mai táng anh ở đất thánh. Bà Ucsula đương mặt với cha. “Cả cha cả
con, chúng ta không thể hiểu được rằng con người ấy là một vị thánh.” Bà nói. “Trái
với ý nguyện của cha, con sẽ chôn anh ta ở ngay cạnh ngôi mộ của Menkyađêt”. Bà
làm đúng những điều mình nói. Được cả làng ủng hộ, bà tổ chức lễ tang thật trọng
thể cho anh. Amaranta không bước ra ngoài phòng mình. Nằm trên giường cô nghe
rõ tiếng khóc của Ucsula, tiếng chân đi lại và lời than thở sụt sùi của đám
đông và tiếng rú rùng rợn của những người đàn bà khóc mướn vọng vào nhà và sau
đó là khung cảnh yên tĩnh trầm mặc vương mùi hoa bị chà đạp. Ucsula từ bỏ cô.
Ngay cái buổi chiều Amaranta vào bếp thọc tay vào bếp than đỏ rực để nguyên cho
tới khi cô không còn biết đau đớn mà chỉ cảm thấy mùi khét lẹt của chính da thịt
mình đang xèo xèo cháy, bà cũng chẳng thèm ngước mắt nhìn để thương xót con
gái. Đó là rách chữa hiệu nghiệm những nỗi ăn năn dằn vặt. Trong vài ngày liền,
với bàn tay bỏng ngâm trong một bát lòng trắng trứng gà, cô đi đi lại lại trong
nhà và khi chữa khối những vết cháy bỏng thì dường như lòng trắng trứng gà cũng
chữa lành những vết cháy bỏng trong trái tim cô. Dấu vết bên ngoài duy nhất còn
lại của tấn bi kịch là tấm băng đen băng trên bàn tay bị bỏng và cô đã phải
mang nó cho đến khi chết.
Qua việc ra lệnh
chính thức để tang Piêtrô Crêspi, Accađiô đặc biệt tỏ ra là người cao thượng.
Ucsula giải thích hiện tượng đó như là sự trở về của một con chiên lầm đường.
Song bà nhầm to. Bà đã để mất Accađiô không chỉ từ khi cậu ta mặc bộ quân phục
mà đã từ lâu rồi. Bà những tưởng mình nuôi dưỡng nó như nuôi dưỡng một đứa con
trai, như nuôi dưỡng Rêbêca, không quá chiều chuộng cũng không quá tệ bạc. Tuy
vậy, Accađiô vốn là một đứa trẻ đơn độc và hoảng sợ trong suốt thời kỳ dịch mất
ngủ hoành hành, trong hoàn cảnh Ucsula mải mê làm giàu, Hôsê Accađiô Buênđya
điên rồ, Aurêlianô lầm lỳ ít nói, Amaranta và Rêbêca thù nhau. Aurêlianô dạy nó
học đọc và học viết, mà tâm tưởng anh cứ để ở tận đâu đâu ấy, cứ như thể anh biến
nó thành một kẻ lạ lẫm. Anh cho nó quần áo sắp rách để Visitaxiôn chữa lại cho
vừa. Accađiô khổ sở với những đôi giày quá rộng, với những chiếc quần chữa lại,
với bộ mông đàn bà của mình. Chẳng bao giờ nó giãi bày tâm sự với ai ngoại trừ
với Visitaxiôn và Cataurê qua ngôn ngữ của họ. Trên thực tế Menkyađêt là người
duy nhất bận tâm tới nó. Cụ ngâm cho nó nghe những bài nhã ca khó hiểu cũng như
giảng giải cho nó về nghề ảnh. Không ai biết nó đã khóc thầm trước cái chết của
cụ như thế nào và nó đã cố lòng làm sống lại cụ qua việc nghiền ngẫm những
trang viết của cụ mà không kết quả. Trường học, nơi cậu ta dốc lòng dốc sức làm
việc và được mọi người kính trọng, sau đó là chức quyền được giao với những mệnh
lệnh dứt khoát và bộ quân phục vinh quang, những thứ đó đã giải thoát cậu ta khỏi
nỗi đắng cay trước đấy. Có một đêm nọ, ngay trong tiệm bác Catarinô, một ai đó
đã dám nói thẳng với cậu ta: “Anh không xứng với tên họ của mình!”. Trái với điều
mọi người mong đợi Accađiô đã không ra lệnh bắn người đó:
- Rất hân hạnh. - Cậu
ta nói. - May quá, tôi lại không phải là một Buênđya.