82. CON THUYỀN - Phần 01
Những
công việc không tên (Pieces on the Board)
Trở lại Urû’baen cùng
Saphira, Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada đã phục hồi cái tên Ilirea, như cách
tôn trọng lịch sử và di sản nó mang lại.
Đồng thời nó thấy buồn khi
biết Arya đã rời đến Ellesméra cùng Däthedr và rát nhiều tiên nhân khác, mang
theo quả trứng rồi màu lục tìm thấy trong tòa thành.
Nasuada chuyển cho nó một
bức thư cô viết. Trong đó Arya giải thích cô cần hộ thống thi hài mẹ mình về Du
Weldenvarden để chôn cất đàng hoàng. Còn về quả trứng rồng cô viết:
… và bởi
Saphira đã chọn cậu, một con người, làm Kỵ Sỹ của nó, sẽ hợp lý nếu một tiên
nhân trở thành Kỵ Sỹ tiếp theo, nếu con rồng trong quả trứng đồng ý. Tôi ước điều
đó có thể thành hiện thực ngay. Nó đã ở quá lâu trong vỏ rồi. Bởi còn rất nhiều
trứng ở nơi khác – tôi không tiện nói tên –hy vọng cậu sẽ không tin rằng tôi đã
quá táo bạo hoặc có thành kiến tốt cho giống loài của mình. Tôi đã hỏi ý các
Eldunarí chuyện này, họ đồng ý với quyết định của tôi.
Dù sao,
khi cả Galbatorix và thân mẫu đã trở thành hư vô, tôi không còn muốn làm đại sứ
ở Varden nữa. Thay vào đó, tôi sẽ quay lại nhiệm vụ mang quả trứng rồng khắp
vùng đất này như với quả trứng của Saphira. Dĩ nhiên, giữa giống loài chúng ta
vẫn cần một đại sứ. Vì vậy, Däthedr và tôi đã cử ra một tiên nhân trẻ thay thế
tên Vanir, người cậu đã gặp khi còn ở Ellesméra. Cậu ta cũng bày tỏ niềm ham muốn
được học hỏi thêm về giống loài cậu, tôi thấy đó là một lý do tốt để giữ vị trí
ấy – ít nhất cho đến khi cậu ta tỏ ra không có năng lực.
Bức thư còn thêm một vài
dòng, nhưng Arya không ngụ ý khi nào, hoặc có khi nào, cô sẽ trở lại miền Tây
Alagaësia. Eragon mừng cô đã nghĩ đến nó, nhưng nó ước cô có thể chờ họ trở lại
rồi mới rời đi. Giờ đây không có cô, nó cảm thấy vô cùng hụt hẫng, dù có dành
nhiều thời gian với Roran và Katrina hay Nasuada, cảm giác trống rỗng quặn thắt
trong người nó vẫn không lui. Cùng với cảm giác ngày qua ngày, nó thấy mình như
bị tách rời ra. Cứ như nó đang quan sát bản thân từ bên ngoài vậy. Nó hiểu nguồn cơn cảm giác ấy,
nhưng nó không biết cách nào chữa trị hơn chờ đợi.
Trong một chuyến đi gần
đây, nó nhận ra rằng – bằng quyền năng với cổ ngữ có được từ tên của các tên –
nó có thể xóa bỏ hẳn tàn dư lời chúc phúc, mà hóa ra lại là lời nguyền rủa của
mình. Thế là nó tới chỗ cô bé, lúc này đang sống trong tòa nhà lớn của Nasuada,
nói suy nghĩ của nó và hỏi ý kiến cô bé.
Cô bé không mừng rỡ như nó
tưởng, mà ngồi nhìn trân trối lên sàn, khuôn mặt nhợt nhạt nhăn lại. Cô bé cứ
ngồi như vậy im lặng cả tiếng – còn nó ngồi một bên chờ đợi không phàn nàn gì hết.
Rồi cô bé nhìn nó nói,
“Không. Tôi có thể nói mình rất … vui mừng khi anh đã hỏi, nhưng khả năng này đối
với tôi rất có ý nghĩa, và tôi không thể từ bỏ nó. Nếu không thể cảm nhận nỗi
đau của người khác, tôi sẽ chỉ là một con bé ngốc nghếch lạc loài, chẳng có ích
gì ngoài việc thỏa mãn nỗi tò mò hèn kém của những người cho phép tôi ở bên, của
những người khoan
dung tôi. Với nó, tôi vẫn
là kẻ lạc loài, nhưng tôi cũng có ích nữa, và tôi có sức mạnh khiếc kẻ khác sợ
và nắm được số phận chính mình, thứ rất nhiều nữ giới không hề có.” Cô bé chỉ
lên căn phòng lộng lẫy xunh quanh. “Ở đây tôi sống rất thoải mái – tôi được sống
bình yên – và vẫn làm được gì đó tốt đẹp bằng cách giúp đỡ Nasuada. Nếu anh lấy
đi khả năng ấy thì tôi còn lại cái gì? Tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ là thứ gì? Xóa bỏ
bùa chú ấy không phải chuyện tốt đẹp đâu Eragon. Không, tôi sẽ vẫn giữ nguyên,
chịu đựng thử thách từ món quà bằng ý chí tự do của mình. Nhưng tôi cảm tạ
anh.”
Hai ngày sau khi nó và
Saphira hạ cánh xuống Ilirea, Nasuada điều họ ra ngoài, tới Gil’ead rồi Ceunon
– hai thành phố các tiên nhân chiếm được – rồi Eragon có thể dùng tên của các
tên xóa sạch bùa chú của Galbatorix.
Cả hai đều thấy không vui
khi quay lại Gil’ead. Nó gợi họ nhớ lại nơi Urgal đã bắt Eragon theo lệnh Durza
lẫn cái chết của Oromis.
Eragon và Saphira nghỉ tại
Ceunon thêm ba ngày. Nơi đây không giống bất kì thành phố nào họ từng thấy. Những
tòa nhà phần lớp bằng gỗ, mái cao vút, và ở những tòa nhà lớn còn có nhiều lớp.
Đỉnh mái thường trang trí bởi hình chạm đầu rầu, còn cửa khắc hoặc vẽ lên những
hình cầu kì xoắn lại.
Lúc rời đi, Saphira có ý
muốn đổi đường. Cô nàng không phải cố thuyết phục Eragon, nó vui vẻ đồng ý khi
cô nàng giải thích chuyến đi sẽ không mất nhiều thời gian.
Từ Ceunon, Saphira bay về
phía Tây, qua vịnh Fundor: một mảng nước rộng bao la viền cát trắng. Những chiếc
lưng xám hay đen của cá biển thường nhấp nhô trên mặt nước như những hòn đảo nhỏ
bằng da. Rồi chúng phụt ra những cột nước từ cái lỗ trên lưng, đầu nhô cao lên
không rồi hụp xuống lòng nước sâu thẳm lặng lẽ.
Vượt vịnh Fundor, họ bay
qua những cơn gió lạnh dữ dội tới rặng Spine mà Eragon biết rõ tên từng ngọn
núi, từ đó quay lại thung lũng Palancar lần đầu tiên từ khi rời đi đuổi theo lũ
Ra’zac cùng Brom, chuyến đi tưởng như đã cách cả đời người.
Với Eragon. thung lũng dậy
lên mùi như quê hương vậy, mùi hương của những cây thông, cây liễu hay cây bạch
dương trong tuổi thơ nó, rồi vị đắng của không khí khi mùa đông sắp cận kề.
Họ đáp xuống bãi tro tàn
khu làng Carvahall, rồi Eragon đi dọc theo những con đường mọc đầy cỏ dại.
Một đàn chó hoang phóng
qua cây bạch dương gần đó. Chúng dừng lại khi thấy Saphira, gầm gừ, sủa ăng ẳng
chạy trốn. Saphira cũng gầm lên xịt khói nhưng không đuổi theo chúng.
Một mẩu gỗ cháy nứt dưới
chân Eragon khi nó bước trên đống tro tàn. Cảnh ngôi làng bị tàn phá khiến nó
buồn lòng. Nhưng hầu hết những dân làng thoát được vẫn còn sống. Nếu trở lại,
Eragon biết họ sẽ tái thiết Carvahall còn đẹp hơn xưa. Những ngôi nhà trong tuổi
thơ nó đã không còn nữa. Dân làng vắng bóng càng khiến nó cảm thấy không còn
thuộc về thung lũng Palancar, nhìn những khoảng trống vắng vẻ càng làm nó thấy
có cảm giác sai trái, như thể nó đang trong một giấc mơ lộn xộn.
“Thế giới này chẳng có gì
liền lạc cả,” nó lẩm bẩm.
Eragon dựng một đống lửa
nhỏ cạnh nơi từng là quán rượu của Morn, nấu nồi thịt hầm lớn. Trong lúc nó ăn,
Saphira lảng vảng xung quanh, khịt mũi khi thấy cái gì đó thú vị.
Ăn hết nồi thịt, nó mang nồi,
bát và thìa ra dòng Anora rửa trong dòng nước băng giá. Ngồi xổm lên bờ sông đầy
đá, nó nhìn chăm chăm lên đỉnh thung lũng: dòng thác Igualda trắng xóa, kéo dài
lên nửa dặm trước khi biến mất trong những phiến đá trên đỉnh Narnmor. Ngắm
nhìn đỉnh núi, nó hồi tưởng lại ngày mang trứng Saphira từ rặng Spine, không biết
gì về những điều sẽ xảy ra giữa hai đứa, hay thậm chí sẽ có hai đứa.
“Đi nào,” nó đi tới bên cô
nạng cạnh miệng giếng giữa thị ngôi làng.
Anh có
muốn thăm lại nông trại không? cô nàng hỏi khi nó đang leo lên lưng.
Nó lắc đầu. “Không. Anh muốn
nghĩ về nó như trước kia, không phải bây giờ.”
Cô nàng đồng ý. Tuy nhiên,
cô nàng tay về phương nam theo hướng họ từng rời thung lũng Palancar. Trên đường,
Eragon thấy rõ nơi từng là nhà nó, nhưng bởi quá xa và mây mù che phủ, nó vẫn
có thể vờ như ngôi nhà và khu trại vẫn còn nguyên xi.
Tại rìa phía Nam thung
lũng, Saphira lướt trên một luồng khí bốc lên từ đỉnh ngọn núi trơ trụi Utgard,
nơi các Kỵ Sỹ từng dựng một tháp canh để trông chừng vị vua Palancar điên rồ.
Cái tháp từng được biết đến như Edoc’sil, giờ mang tên Ristvak’baen hay “Cõi U
buồn,” vì đó là nơi Galbatorix đã giết chết Vrael.
Cạnh đống đổ nát của tháp
canh, Eragon, Saphira và các Eldunarí đi theo cùng tưởng niệm Vrael. Umaroth đặc
biệt tỏ ra sầu não, nhưng ông nói, Cảm ơn Saphira, vì đã mang ta tới đây. Ta không bao giờ nghĩ có thể
nhìn thấy nơi Kỵ Sỹ của mình ngã xuống.
Rồi Saphira sải cánh bay
khỏi tháp canh, phi khỏi và cánh đồng đầy cỏ xa xa.
Nửa đường tới Ilirea,
Nasuada liên lạc với họ qua một pháp sư Varden điều họ gia nhập một binh đoàn lớn
đang hành quân từ thủ đô tới Teirm.
Eragon vui mừng biết Roran
chỉ huy binh đoàn đó, trong hàng ngũ có Jeod và Baldor – cánh tay đã hồi phục
hoàn toàn sau khi được các tiên nhân ghép lại – và vài dân làng khác.
Eragon ngạc nhiên khi người
dân thành Teirm từ chối đầu hàng, kể cả sau khi nó giải phóng họ khỏi lời thề với
Galbatorix, và dù hiển nhiên là với sự giúp đỡ của Saphria và Eragon, quân
Varden có thể dễ dàng chiếm thành phố nếu muốn. Thay vào đó, thị trưởng thành
Teirm, Lãnh chúa Risthart yêu cầu họ được trở thành một khu tự trị được tự do
chọn lãnh chúa và luật pháp.
Sau vài ngày đàm phán,
Nasuada chấp thuật điều kiện của ông, đổi lại Lãnh chúa Risthart thề trung
thành với nữ hoàng là cô, và cũng như vua Orrin, chấp thuận tuân theo luật dành
cho pháp sư.
Từ Teirm, Eragon và
Saphira hộ tống các chiến binh về phương nam, qua bờ biển hẹp, cho tới khi đến
thành phố Kuasta. Họ vây hãm thành phố, nhưng không như Term, thị trưởng Kuasta
nhanh chóng đầu hàng và chấp thuận gia nhập vương quốc mới của Nasuada.
Eragon và Saphira một mình
bay tới Narda ở miền Bắc, thu được lời hứa y hệt rồi trở lại Ilirea, rồi nghỉ lại
vài tuần trong một căn nhà lớn gần nơi ở Nasuada.
Khi thời gian lại cho
phép, nó và Saphira liền rời thành phố tới lâu đài nơi Blödhgarm và các pháp sư
đang trông coi các Eldunarí
thu được của Galbatorix. Eragon cùng Saphira giúp đỡ chữa lành tâm trí của lũ rồng.
Họ cũng có tiến triển nhưng khá chậm chạp, có một vài Eldunarí phản ứng sớm
hơn. Eragon lo lắng khá nhiều rồng đơn giản không hề để tâm đến cuộc sống nữa,
hoặc đã lạc lối trong mê cung tâm trí quá lâu để có thể giao tiếp với chúng có
ý nghĩa, thậm chí kể cả với những con rồng tiền bối như Valdr. Để ngăn cản hàng
trăm con rồng áp đảo tâm trí những người đang giúp chúng, các tiên nhân giữ phần
lớn Eldunarí nửa mê man, chỉ chọn ra một vài con rồng để giao tiếp cùng thời điểm.
Eragon cũng làm việc bên
những pháp sư của Con Đường Lãng Du nhằm dọn dẹp kho báu trong tòa thành. Hầu hết
công việc đổ lên đầu nó, bởi các pháp sư không đủ kinh nghiệm hay hiểu biết để
xử lý những món đồ vật bị yểm bùa Galbatorix để lại. Nhưng Eragon không ngại lắm:
nó vui vẻ khám phá những pháo đài hư hại, thám hiểm những bí mật ẩn giấu bên
trong. Galbatorix đã thu giữ hàng đống báu vật trong suốt thế kỉ, vài thứ khá
nguy hiểm, song tất cả đều rất thú vị. Eragon thấy thích thú nhất cái máy đo
thiên thể, khi đặt mắt lên nó có thể thấy rõ những ngôi sao kể cả vào ban ngày.
Nó giữ bí mật về những món
đồ nguy hiểm nhất cho mình, Saphira và Nasuada, ngăn ngừa rủi ro tin tức bị lan
truyền.
Nasuada cũng sử dụng ngay
vô số báu vật thu được trong tòa thành để cho các chiến binh cái ăn cái mặc,
cũng như tái thiết phòng thủ của những thành phố họ chiếm được trong cuộc chiến
tranh. Thêm nữa, cô ban tặng một món vàng tương đương năm chiếc mũ vàng cho mọi
thần dân: tuy chỉ là một món nhỏ với các quý tộc nhưng thực sự vô giá với các
nông dân nghèo. Eragon biết hành động ấy đã thu được sự ủng hộ và trung thành
theo cách Galbatorix không bao giờ hiểu được.
Họ cũng thu được hàng trăm
thanh gươm của các Kỵ Sỹ: các thanh gươm đủ màu sắc kiểu dáng, làm bởi con người
lẫn tiên nhân. Đó thực sự là một khám phá ngoạn mục. Eragon và Saphira tự mình
mang chúng tới lâu đài nơi đang giữ các Eldunarí, phòng một ngày chúng lại được
các Kỵ Sỹ cần tới.
Eragon tự nhủ Rhunön sẽ rất
mừng khi biết nhiều sản phẩm của bà vẫn còn tồn tại.
Và còn đó hàng ngàn cuộn
giấy và sách vở Galbatorix đã thu thập, được các tiên nhân và Jeod sắp xếp lại,
xếp riêng ra những thứ có chứa bí mật về các Kỵ Sỹ và thành quả nghiên cứu sâu
về phép thuật.
Khi họ đang đang sắp xếp
kho tàng kiến thức đồ sộ của Galbatorix, Eragon vẫn hy vọng tìm ra gợi ý về nơi
nhà vua giấu những quả trứng Lethrblaka còn lại. Tuy nhiên, thứ duy nhất nhắc đến
Lethrblaka hay Ra’zac là trong một thư tịch cổ của các tiên nhân và Kỵ Sỹ của
thời đại trước, bàn luận về mối đe dọa của bóng tối và băn khoăn làm thế nào với
kẻ địch không thể phát giác bằng bất kì loại pháp thuật nào.
Khi nó có thể nói chuyện
thoải mái, Eragonthường xuyên bỏ ra hàng với Jeod, kể cho ông nghe những gì xảy
ra với các Eldunarí và những quả trứng, kể cả quá trình tìm ra tên thật của
mình ở Vroengard. Nó thấy rất thoải mái khi nói chuyện với Jeod, đặc biệt khi
ông là một trong số ít người biết Brom đủ để gọi ông là bạn.
Eragon thấy rất thú vị
theo cách trừu tượng khi quán sát vương quốc Nasuada được cai trị và tái thiết
từ đống tro tàn của Đế chế. Cần nỗ lực khổng lồ để quản lý đất nước rộng lớn và
đa dạng nhường ấy, và công việc dường như không bao giờ dứt: luôn có nhiều thứ
hơn phải làm. Eragon biết nó sẽ ghét những đòi hỏi của vị trí này, nhưng
Nasuada phải dựa vào chúng rất nhiều. Cô dường như không bao giờ xuống sức,
cũng như biết cách giải quyết mọi vấn đề. Ngày ngày qua ngày khác, nó thấy tầm
vóc của cô lớn dần với các sứ thần, quan chức, quý tộc và những thường dân mình
cai quản. Cô có vẻ phù hợp hoàn toàn với vai trò mới, dù nó lo lắng vì không chắc
cô có thực sự hạnh phúc không.
Nó quan sát cô phán xét
các quý tộc đã tuân theo Galbatorix – dù tự nguyên hay không – hài lòng thấy sự
công bằng và nhân từ của cô, cũng như những hình phạt nếu cần thiết. Hầu hết cô
tước bỏ đất đai, danh hiệu hoặc một phần lớn tài sản bẩn thỉu của chúng, nhưng
Eragon mừng vì cô không hành quyết ai hết.
Nó đứng bên cạnh khi cô
ban cho Nar Garzhvog một dải đất lớn bên bờ Bắc của rặng Spine, cả vùng đồng bằng
màu mỡ giữa hồ Fläm và sông Toark, nơi hiếm có con người sinh sống. Eragon tán
thành quyết định ấy.
Nar Garzhvog cũng thề
trung thành với Nữ hoàng Nasuada như vua Orrin và Lãnh chúa Risthart. Tuy
nhiên, gã Kull khổng lồ
nói, “Dân tộc tôi sẽ đồng ý, Công Nương Báo-săn-đêm, nhưng họ có dòng máu nồng
và trí nhớ ngắn ngủi, lời nói sẽ không giữ họ mãi mãi.”
Nasuada đáp lạnh lùng, “Ý
ông là dân tộc ông sẽ phá hoại hòa bình hả? Tôi có nên hiểu giống loài chúng ta
sẽ là kẻ địch nữa không?”
“Không,” Garzhvog lắc cái
đầu vĩ đại. “Chúng tôi không muốn chiến đấu với các người. Chúng tôi biết Hỏa
Kiếm sẽ giết mình. Nhưng … khi các con đực trưởng thành, chúng sẽ muốn chiến đấu
để chứng tỏ bản thân. Nếu không có, chúng sẽ tự khơi mào chiến đấu. Tôi xin lỗi,
Báo-săn-đêm, nhưng chúng tôi không thể thay đổi bản thân được.”
Những lời ấy làm Eragon –
cũng như Nasuada đau đầu – nó mất vài đêm nghĩ về các Urgal, cố tìm giải pháp
phù hợp.
Hàng tuần trôi qua,
Nasuada tiếp tục điều nó và Saphira đến nhiều nơi trong Surda và vương quốc,
thường với tư cách dại diện cá nhân cô tới gặp vua Orrin, Lãnh chúa Risthart,
các quý tộc và nhóm binh lính trên khắp lãnh thổ.
Đến nơi nào họ cũng tìm một
nơi có thể làm nhà cho các Eldunarí cũng như nuôi dưỡng những quả trứng giấu ở
Vroengard trong hàng thể kỉ tới. Có một khu vực ở rặng Spine có vẻ hứa hẹn,
nhưng quá gần chỗ con người lẫn Urgal, hoặc quá xa về phương Bắc đến nỗi sống
quanh năm ở đó rất khổ sở. Ngoài ra, Murtagh và Thorn cũng đi về phía Bắc,
Eragon và Saphira không muốn gây cho họ thêm khó khăn nào nữa.
Rặng Beor có vẻ hoàn hảo,
nhưng nó ngờ rằng những người lùn sẽ không hoan nghênh hàng trăm con rồng đói
ngấu nở ra trong lãnh thổ của mình. Từ bất cứ nơi nào trong khu vực dãy Beors, chỉ
cần bay một quãng ngắn là có thể đến một thành phố người lùn nào đó, mà những
con rồng nhỏ sẽ làm cỏ những đàn Feldûnost mất – Eragon rút kinh nghiệm từ
Saphira.
Nó cho là các tiên nhân sẽ
không phản đối lũ rồng sống ở những ngọn núi tại Du Weldenvarden, nhưng Eragon
vẫn băn khoăn về việc ở gần thành phố tiên nhân. Thêm nữa, nó không khoái ý tưởng
để lũ rồng và các Eldunarí trong lãnh thổ của bất kì giống loài nào. Điều đó sẽ
có vẻ như họ đặc biệt thiên vị. Các Kỵ Sỹ trong quá khứ sẽ không bao giờ làm điều
đó – Eragon tin tưởng – và cả các Kỵ Sỹ trong tương lai cũng thế.
Nơi duy nhất đủ xa khỏi mọi
thành phố mà chưa có loài nào chiếm lấy là quê hương cổ xưa của loài rồng: sâu
trong lòng sa mạc Hadarac, nơi ngọn Du Fells Nangoröth, rặng Núi-Nguyền-Rủa sừng
sững. Eragon chắc chắn đó là nơi tuyệt vời để nuôi những con rồng non. Tuy
nhiên có ba điểm bất cập. Đầu tiên, gần như sẽ không có đủ thức ăn trong sa mạc
cho những con non. Saphira sẽ phải mất phần lớn thời gian vác hươu nai và các động
vật hoang khác đến rặng núi. Và dĩ nhiên, khi những con non lớn hơn, chúng sẽ bắt
đầu tự bay, khiến chúng dễ tới gần con người, tiên nhân hoặc người lùn hơn. Thứ
hai, những người lữ hành rộng khắp – và cả những người khác – đều biết những ngọn
núi nằm ở đâu. Thứ ba, rõ ràng không khó để tới được dãy núi, nhất là trong mùa
đông. Hai điểm cuối khiến Eragon lo lắng nhất, băn khoăn không biết làm sao có
thể bảo vệ những quả trứng, lũ rồng nong và các Eldunarí.
Sẽ tốt
hơn nhiều nếu chúng ta lên hẳn những đính núi Beors, nơi chỉ những con rồng có
thể bay tới, Nó
nói với Saphira. Thì sẽ không kẻ nào có thể mò lên, trừ Thorn, Murtagh lẫn các pháp
sư.
Các
pháp sư, như bất kì tiên nhân nào ấy à? Với cả nơi đó lạnh quanh năm nữa!
Anh ngỡ
em không ngại lạnh lắm.
Em thì
không. Nhưng em không muốn sống với tuyết cả năm. Cát tốt cho vảy bọn em hơn;
Glaedr bảo vậy. Cát giúp đánh bóng và làm sạch vảy.