Nụ hôn của Casanova - Phần một - Chương 01 - 02 - 03
Phần một:
Scootchie Cross
Chương 1
Washington, D.C., tháng 4
năm 1994
Khi chuyện xảy ra, tôi đang ở ngoài
hàng hiên lắp kính trong nhà tôi trên phố Năm mươi. Trời lúc đó đang
“mưa như trút nước” theo cách nói của cô con gái Janelle bé bỏng của
tôi, và ngồi ngoài hiên quả là thú vị. Bà tôi từng dạy một câu cầu
nguyện mà tôi không bao giờ quên được: “Cảm ơn Chúa vì tất cả
những gì mà Người ban tặng cho chúng con”. Vào ngày hôm đó, câu
nói này có vẻ đúng - gần như vậy.
Trên bức tường hiên có treo bức tranh
biếm hoạ Far side của Gary Larson. Nó kể về buổi tiệc
thường niên mang tên “Những quản gia của thế giới” trong đó một quản
gia bị sát hại. Một con dao xuyên thẳng vào ngực anh ta. Một thám tử
trong tranh thốt lên, “Chúa ơi, Collings, tôi ghét phải khởi đầu tuần
mới với những vụ thế này!” Đặt bức tranh ở đó là tôi muốn nhắc
nhở chính mình rằng cuộc sống không chỉ có công việc của một thám
tử D.C. chuyên điều tra án mạng. Đính bên cạnh là một bức tranh hai
năm tuổi của Damon với dòng chữ “Tặng người cha vĩ đại nhất”.
Đó lại là một lời nhắc nhở khác.
Tôi chơi những bản nhạc của Sarah
Vaughan, Billie Holiday, Bessie Smith trên chiếc đàn piano cũ kỹ. Gần đây,
nhạc Blues đối với tôi bỗng trở nên buồn bí ẩn. Hình ảnh của Jezzie
Flanagan cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi. Đôi lúc khi đưa mắt nhìn ra xa,
tôi lại tưởng tượng ra khuôn mặt xinh đẹp đầy ám ảnh của nàng, vì
vậy mà tôi cố gắng hạn chế nhìn mông lung.
Hai đứa con tôi, Damon và Janelle, đang
ngồi bên cạnh tôi trên chiếc ghế chơi đàn khá bền, tuy hơi bị lung lay.
Cánh tay nhỏ xíu của Janelle rướn hết cỡ để vòng quanh lưng tôi, nhưng
nó cũng chỉ được một phần ba lưng.
Tay kia nó cầm một túi kẹo Gummi Bears. Nó lại chia cho
mọi người như thường lệ. Tôi từ tốn ngậm một chiếc Gummi màu đỏ.
Jannie và Damon huýt sáo theo tiếng
đàn, mặc dù đối với con bé, huýt sáo cũng chẳng khác gì phun phì
phì vào một giai điệu có sẵn. Trên nóc chiếc piano là quyển truyện
tranhGreen Eggs & Ham nhàu nhĩ, rung lên theo từng nhịp
đàn.
Cả Jannie và Damon đều biết dạo này
tôi gặp trục trặc trong cuộc sống, ít nhất vài tháng gần đây. Chúng
luôn cố gắng làm tôi vui. Chúng tôi chơi nhạc và huýt sáo theo những
giai điệu blues, soul và cả thứ nhạc kết hợp, nhưng chúng tôi cũng
cười vang và tỏ ra phấn khích như trẻ con.
Tôi yêu những lúc ở bên bọn trẻ hơn
bất cứ lúc nào khác trong đời, tôi ngày càng dành nhiều thời gian
bên chúng hơn. Những bức ảnh chụp bọn trẻ bằng máy Kodak luôn nhắc
nhở tôi rằng các con tôi chỉ có một lần năm và bảy tuổi trong đời
thôi. Tôi sẽ không để lỡ giai đoạn này.
Cuộc vui của chúng tôi bị ngắt quãng
bởi tiếng chân chạy nặng nề trên cầu thang gỗ hiên sau. Và rồi tiếng
chuông cửa reo: một, hai rồi ba hồi chuông nhỏ. Người ở ngoài kia dù
là ai thì chắc hẳn cũng đang rất vội vã.
“Bing boong, mụ phù thuỷ đã chết.”
Đúng lúc này, Damon lại chia sẻ suy nghĩ̃ ngẫu hững của nó. Nó đeo kính râm ốp sát
mặt, ra dáng anh chàng xì ngầu. Thực ra nó là một
cậu nhóc xì ngầu.
“Không, mụ phù thuỷ chưa chết,” Jannie phản
đối. Gần đây, tôi để ý thấy con bé bảo vệ khá quyết liệt giới tính
của mình.
“Có khi đó không phải tin về mụ phù
thuỷ đâu,” tôi nói gần như cùng lúc. Bọn trẻ cười phá lên. Chúng khá
hiểu câu đùa của tôi, nghĩ mà thấy sợ.
Có ai đó liên tục đập vào khung cửa,
hét gọi tên tôi một cách bi thương và hoảng hốt. Khốn thật,
hãy để chúng tôi được yên. Chúng tôi không cần điều gì bi thương hay
hoảng hốt trong cuộc sống của mình lúc này.
“Tiến sĩ Cross, hãy tới đây! Xin ông!
Tiến sĩ Cross,” tiếng hét tiếp tục vang lên. Tôi không nhận ra giọng
của người phụ nữ nhưng rõ ràng người đó gọi đích danh tôi bởi danh
vị tiến sĩ.
Tôi bỏ bọn trẻ xuống, hai tay áp chặt
lên khuôn đầu nhỏ xinh của chúng. “Bố là tiến sĩ Cross cơ mà, có
phải hai con đâu. Cứ ngồi đây ngân nga và giữ chỗ cho bố nhé. Rồi bố
sẽ trở lại ngay.”
“Rồi bố sẽ trở lại ngay!” Damon nhắc
lại với giọng điệu của Kẻ huỷ diệt. Tôi phì cười với câu đùa của
nó. Nó đúng là một đứa trẻ lớp hai láu lỉnh.
Tôi chạy nhanh ra cửa sau, đồng thời
vớ lấy khẩu súng cảnh sát. Tình làng nghĩa xóm sẽ chẳng có nghĩa
gì trong trường hợp này kể cả với một cảnh sát như tôi. Tôi nheo mắt
nhìn qua tấm kính phủ đầy sương mù và bụi để xem ai đang đứng trên
bậc hiên.
Tôi nhận ra cô gái đó. Cô ta sống trong
khu ổ chuột Langley. Rita Washington, hai mươi ba tuổi, nghiện thuốc
phiện và sống vật vờ trên đường phố như một bóng ma xám ngoét. Rita
đủ khôn ngoan và xinh đẹp nhưng dễ bị dụ dỗ và lôi kéo. Cô ta đã lầm
đường lạc lối, dần đánh mất vẻ ngoài xinh đẹp và bây giờ có lẽ
còn đang gặp hạn.
Tôi mở cửa ra thì bị một luồng gió
ẩm lạnh táp thẳng vào mặt. Máu nhỏ thành dòng từ cổ tay lẫn bàn
tay của Rita và cả mặt chiếc áo choàng du lịch giả da màu xanh lá
cây.
“Rita, có chuyện gì xảy ra với cô
thế?” tôi hỏi. Tôi đoán cô ta đã bị bắn hoặc bị đâm liên quan tới ma
tuý.
“Xin ông hãy đi cùng với tôi.” Rita
Washington vừa ho khan vừa nức nở. “Là Marcus Daniels nhỏ bé,” cô ta
nói và thậm chí còn khóc to hơn. “Thằng bé bị đâm! Nó hiện đang rất
nguy kịch! Nó cứ gọi tên ông, nó muốn gặp ông, tiến sĩ Cross.”
“Các con ở đó nhé! Bố sẽ quay lại
ngay.” Tôi hét lên át tiếng gào khóc cuồng loạn của Rita Washington.
“Nana ơi, trông chừng bọn trẻ con nhé!” Tôi gào lên thậm chí còn to hơn.
“Con phải ra ngoài có chút việc!” Tôi vớ lấy áo choàng rồi cùng Rita
Washington bước ra ngoài dưới cơn mưa lạnh tầm tã.
Tôi tránh không giẫm lên những vết máu
đỏ tươi nhỏ xuống như vệt sơn ướt trên khắp bậc hiên.
Chương 2
Tôi chạy hết tốc lực dọc con phố Năm
mươi. Tôi cảm thấy tim mình đập thình thịch, thình thịch,
thình thịch và mồ hôi chảy ròng ròng dù mưa xuân lạnh lẽo
vẫn tầm tã rơi. Máu chảy rần rật lên đầu. Cơ bắp, gân cốt trong cơ
thể căng hết ra, dạ dày quặn thắt lại.
Tôi bế Marcus Daniels mười một tuổi
trong tay, ghì chặt cậu bé vào ngực. Cậu bé đang chảy máu lênh láng.
Rita Washington đã bắt gặp Marcus ở góc cầu thang tối tăm, dính nhớp
dẫn xuống tầng hầm trong toà nhà, nên vội đưa tôi đến chỗ cơ thể co
quắp này.
Tôi chạy như gió, cố gắng kìm nén sự
thương xót khi đang làm nhiệm vụ ở bất kì đâu, như đã được đào tạo.
Những con người Đông Nam vốn không hay
có tính soi mói cũng phải nhìn chằm chằm vào tôi khi tôi chạy sầm
sập về phía trước như một chiếc bán rơ moóc mười bánh lao thục mạng
vào thành phố.
Tôi vượt qua những chiếc taxi, quát
tất cả mọi người tránh đường. Tôi chạy qua hết cửa hàng hoang phế
này đến cửa hàng hoang phế khác, được lót bằng những tấm gỗ dán
đen sì, mục nát vẽ đầy hình graffiti nguệch ngoạc.
Tôi lướt chân qua đống thuỷ tinh vỡ
cùng đá vụn, những chai rượu Irish Rose và đôi lúc là đám cỏ dại và
bụi lả tả đầy ảm đạm. Đây là nơi chúng tôi sống, phần của chúng tôi
trong giấc mơ Mỹ, thủ đô của chúng tôi.
Tôi nhớ một câu nói mà tôi từng được
nghe về D.C.: “Nếu cúi xuống bạn sẽ bị đè bẹp, còn nếu đứng thẳng
lên bạn sẽ bị bắn.”
Trong khi tôi chạy, Marcus tội nghiệp
cứ túa máu ra như một chú cún con với bộ lông ướt nhẹp rỏ nước tong
tong. Cổ và tay tôi nóng như thiêu, cơ tiếp tục căng ra.
“Cố lên cháu,” tôi nói với đứa trẻ. “Cố
lên cháu,” tôi cầu nguyện.
Đi được nửa đường, Marcus khẽ rên lên,
“Trời, tiến sĩ Alex!”
Đó là tất cả những gì cậu bé nói
với tôi. Tôi biết tại sao. Tôi hiểu rõ Marcus bé bỏng.
Tôi leo lên con đường dốc mới trải
nhựa dẫn vào bệnh viện St. Anthony hay còn gọi là St. Tony’s Spaghetti
House như trong một số công trình. Một xe cứu thương vượt qua chúng tôi,
hướng về phía thành phố L.
Tài xế đội chiếc mũ Chicago Bulls
lệch sang một bên, vành mũ lạ thay lại quay hướng vào tôi. Tiếng nhạc
Rap vọng ra inh ỏi, chắc hẳn bên trong nghe rất chói tai. Tài xế và
bác sĩ không dừng lại, mà hình như cũng chẳng có ý định dừng. Cuộc
sống ở vùng Đông Nam đôi khi là vậy. Người ta không dừng lại vì mọi vụ
trộm cướp hay giết người mà ta bắt gặp trong cuộc sống thường nhật.
Tôi biết đường đến phòng cấp cứu ở
St. Anthony bởi đã từng đến đó rất nhiều lần. Tôi dùng vai mở cánh
cửa kính xoay quen thuộc. Trên đó có in chữ CẤP CỨU nhưng mấy chữ đó
đã bị bong tróc, và có những vết móng tay cào lên tấm kính.
“Chúng ta ở đây
rồi, Marcus. Chúng ta đang ở bệnh viện,” tôi thì thầm với cậu bé
nhưng cậu bé không nghe thấy tôi nói gì. Giờ đây, cậu bé đã rơi vào
tình trạng bất tỉnh.
“Chúng tôi cần giúp
đỡ! Mọi người, hãy giúp tôi cứu chú bé này với!” Tôi gào
lên.
Có lẽ người giao
pizza là chú ý hơn cả. Một gã bảo vệ mặt mày chán chường liếc về
phía chúng tôi, ném cho tôi cái nhìn đăm đăm thường trực. Ai đó đặt
chiếc cáng cũ kĩ đánh cạch xuống sảnh bệnh viện.
Tôi trông thấy các y
tá tôi quen. Cụ thể là Annie Bell Waters và Tanya
Heywood.
“Đưa đứa trẻ đến đây mau.” Annie Waters
nhanh chóng mở đường ngay sau khi xem tình hình. Chị không hỏi tôi bất
kỳ một câu nào trong khi dẹp nhân viên bệnh viện cùng những bệnh nhân
khập khiễng sang bên để lấy đường đi.
Chúng tôi đi qua bàn lễ tân với biển
ĐĂNG KÝ TẠI ĐÂY bằng ba thứ tiếng: Anh, Tây Ban Nha, và Hàn Quốc. Tôi
ngửi thấy mùi thuốc khử trùng bệnh viện ở khắp mọi nơi.
“Tự cứa cổ bằng một con dao trọng
lực. Tôi nghĩ nó đã cắt động mạch cảnh,” tôi nói khi chúng tôi hối
hả bang qua hành lang màu xanh xỉn đông nghịt người, đầy những tấm
biển bạc màu: TIA X-QUANG, CHẤN THƯƠNG, THU NGÂN.
Cuối cùng, chúng tôi cũng dừng lại ở
một căn phòng có kích cỡ gần bằng cái tủ quần áo. Vị bác sĩ nom
khá trẻ vừa vội vã bước vào bảo tôi ra ngoài.
“Thằng bé mười một tuổi.” Tôi nói,
“Tôi nhất định phải ở đây. Cả hai cổ tay đều bị cứa. Đây là một vụ
tự sát. Cố lên cháu,” tôi thì thầm với Marcus. “Cố lên cháu.”
Chương 3
Cạch! Casanova bật chốt cốp xe, và
nhìn xoáy vào đôi mắt to nhoà lệ đang giương giương nhìn hắn. Thật
đáng thương. Thật đáng tiếc, hắn nghĩ khi nhìn xuống cô gái.
“Ú oà,” hắn nói. “Bắt được rồi
nhé.” Hắn đã hết tình cảm với cô sinh viên đại học hai mươi hai tuổi
đang bị trói trong cốp xe. Hắn căm giận cô. Cô đã phá bỏ luật lệ. Cô
đã làm tan giấc mộng hiện tại của hắn.
“Trông cô đúng là đồ quỷ cái chết
tiệt,” hắn nói. “Tất nhiên, đó là cách nói tương đối thôi.”
Bị nhét giẻ ướt vào miệng, cô gái
không thể đáp lời, chỉ trừng trừng nhìn hắn. Đôi mắt nâu đen của cô
hiện rõ vẻ sợ sệt và đau đớn, nhưng hắn vẫn nhận ra nét bướng
bỉnh, ngoan cố trong cái nhìn đó.
Đầu tiên hắn lấy chiếc túi xách màu
đen ra, rồi thô bạo nhấc cô gái nặng năm mươi cân ra khỏi xe. Đến lúc
này hắn cũng chẳng cần tỏ vẻ tử tế làm gì nữa.
“Chào mừng cô,” hắn nói sau khi để cô
xuống. “Quên cách chúng ta đối xử với nhau rồi phải không?” Chân cô run
rẩy và gần như ngã quỵ nhưng Casanova đã dễ̃ dàng nâng cô dậy chỉ với một tay.
Cô mặc một chiếc quần soóc chạy bộ
màu xanh sẫm của đại học Wake Forest, áo ba lỗ trắng, và một đôi
giày thể thao mới hiệu Nike. Hắn thừa biết cô thuộc loại sinh viên hư
hỏng điển hình nhưng có sắc đẹp tuyệt trần. Một sợi dây da dài
khoảng nửa mét buộc quanh đôi mắt cá chân thanh mảnh. Hai bàn tay bị
trói quặt ra sau cũng bằng một sợi dây da.
“Việc của cô là đi đằng trước tôi. Tôi
không bảo gì thì cứ đi thẳng. Nào, đi đi,” hắn ra lệnh.
“Nhấc cặp chân dài yêu kiều của cô đi. Bước, bước, bước.”
Họ bắt đầu di chuyển qua khu rừng
rậm, rừng còn trở nên rậm rạp hơn khi họ từ từ tiến về phía trước.
Càng lúc càng um tùm, tăm tối. Càng lúc càng rùng rợn. Hắn vung vẩy
cái túi đen như đứa trẻ tung tăng cầm hộp cơm trưa. Hắn yêu những rừng
cây tối. Luôn luôn là vậy.
Casanova có vóc dáng cao to lực lưỡng,
và khuôn mặt ưa nhìn. Hắn biết hắn có thể câu không ít đàn bà, nhưng
không theo cách mà hắn muốn. Không phải như thế này.
“Chẳng phải tôi đã nói với cô rồi
sao? Nhưng cô có nghe đâu.” Hắn nhẹ nhàng nói, vẻ hờ hững. “Tôi đã
nói với cô về các quy tắc trong gia đình. Nhưng cô lại muốn tỏ ra khôn
ngoan. Vậy thì cứ khôn ngoan đi. Và đây là phần thưởng cho cô đấy.”
Cô gái bước về phía trước với nỗi
sợ hãi tăng dần, gần như khiếp sợ. Rừng cây giờ trở nên rậm rạp hơn,
đám cành thấp cứa vào cánh tay trần của cô, để lại những vết xước
dài. Cô biết tên kẻ bắt cóc mình: Casanova. Hắn tự nhận mình là
người tình vĩ đại nhất, và thực sự hắn có khả năng cương cứng lâu
hơn bất cứ gã đàn ông nào cô biết. Hắn luôn tỏ ra tỉnh táo và tự
chủ nhưng cô biết hắn chắc chắn bị điên. Mặc dù đôi
khi hắn cũng có những biểu hiện khá bình thường. Một khi ta chấp
nhận lý lẽ của riêng hắn, điều mà hắn từng nói vời cô vài lần: “Đàn
ông sinh ra là để săn… đàn bà.”
Hắn đưa ra luật lệ trong ngôi nhà của
hắn. Hắn cảnh báo rõ với cô là phải tuân theo. Cô đã không làm vậy.
Cô bướng bỉnh, ngu ngốc và đã mắc phải một sai lầm chiến thuật vô
cùng lớn.
Cô cố gạt đi ý nghĩ về những gì hắn
định làm với cô ngoài đây trong khu rừng kiểu tranh tối tranh sáng
rùng rợn này. Chắc chắn nó sẽ khiến cô vỡ tim. Cô sẽ̃ không để cho hắn mãn
nguyện khi nhìn thấy cô sợ hãi và khóc lóc.
Giá như hắn cởi cái khăn bịt miệng
cho cô. Miệng cô khô khốc, cô khát không chịu nổi. Có lẽ cô phải tự
mình thoát khỏi tình cảnh này - khỏi những gì mà hắn định làm với
cô.
Cô dừng bước, và quay lại đối diện
với hắn. Đây là thời khắc mang-tính-quyết-định.
“Cô muốn dừng ở đây sao? Tốt thôi. Mặc
dù thế tôi cũng không cho cô nói đâu. Không một lời trăng trối nào đâu
em yêu. Không có lệnh ân xá nào của chính quyền cả. Cô mắc sai lầm
quá lớn rồi. Nếu ta dừng lại ở đây thì chưa chắc cô đã khoái
đâu. Còn nếu cô muốn đi tiếp thì cũng tốt thôi. Chỉ là tôi thích
những cánh rừng này, cô hiểu chứ?”
Cô phải nói với hắn, phải giao tiếp
với hắn bằng cách nào đó. Hãy hỏi hắn tại sao. Biết đâu
lại làm hắn sao lãng. Cô cố gọi tên hắn, nhưng chỉ phát ra những
tiếng nghèn nghẹt qua chiếc khăn bịt miệng ẩm ướt.
Hắn có vẻ tự tin, và thậm chí còn
bình thản hơn thường lệ. Hắn đi với điệu bộ vênh váo. “Tôi chẳng
hiểu cô nói gì. Mà dù tôi có hiểu đi chăng nữa thì cũng chẳng thay
đổi được gì đâu.”
Hắn đeo một trong những chiếc mặt nạ
kỳ quái mà hắn thường trưng ra. Hắn nói với cô đây là mặt nạ xác
chết, thường được dùng để tái tạo khuôn mặt trong bệnh viện hoặc
nhà xác.
Màu da của chiếc mặt nạ xác chết
rất thực, và từng chi tiết trên đó giống thật đến đáng sợ. Khuôn
mặt hắn chọn trông trẻ đẹp, hoàn toàn thuần Mỹ. Cô thắc mắc thực
sự thì hắn trông ra sao. Hắn là gã quái nào? Tại sao hắn lại đeo
mặt nạ?
Dù thế nào mình cũng phải trốn đi, cô tự nhủ. Rồi cô sẽ làm cho hắn phải ngồi tù rục
xương. Không có án tử hình - phải để hắn chịu đựng.
“Nếu đây là lựa chọn của cô thì được
thôi,” hắn nói, rồi đột ngột đá khuỵu chân cô. Cô ngã đập mạnh lưng
xuống đất. “Cô sẽ chết ở chính chỗ này.”
Từ chiếc túi y tế màu đen sờn rách
vẫn mang theo bên mình, hắn rút một cây kim ra. Hắn khua kim như thể nó
là một thanh kiếm tí hon. Hãy cho cô ta thấy.
“Cây kim này gọi là Tubex,” hắn giải
thích. “Nó đã bơm sẵn thiopental sodium, một loại thuốc an thần. Có
tác dụng xoa dịu.” Hắn phụt ra một ít chất lỏng màu nâu nhìn giống
như trà đá và đó là thứ cô không đời nào muốn tiêm vào tĩnh mạch
của mình.
“Nó để làm gì? Anh định làm gì
tôi?” Cô hét lên sau chiếc giẻ bịt chặt. “Làm ơn bỏ cái
giẻ ra khỏi miệng tôi.”
Người cô đẫm mồ hôi, hơi thở khò khè.
Toàn bộ cơ thể cứng đờ, tê dại, mê man. Tại sao hắn lại tiêm thuốc an
thần cho cô?
“Nếu tôi có sai sót nào, cô sẽ chết
ngay lập tức,” hắn nói. “Cho nên đừng có động đậy.”
Cô lắc đầu quầy quậy. Cô đang ra sức
cho hắn biết rằng cô sẽ ngoan ngoãn nằm yên, thậm chí rất ngoan. Làm
ơn đừng có giết tôi, cô thầm cầu nguyện. Đừng làm
thế.
Hắn chích vào tĩnh mạch ở phần gập
khuỷu tay, và cô cảm thấy đau nhói ở chỗ đó.
“Tôi thật chẳng muốn để lại vết bầm
tím khó coi,” hắn thầm thì. “Sẽ không lâu đâu. Mười, chín, tám, bảy,
sáu, năm, em, thật, xinh, đẹp, hết. Tất cả đã kết thúc.”
Cô gái giờ đang khóc. Cô không thể kìm
nén được nữa. Nước mắt lăn dài từng vệt trên má. Hắn bị điên. Cô
nhắm nghiền mắt, không muốn nhìn hắn chút nào nữa. Xin Chúa,
đừng để con phải chết như thế này, cô cầu nguyện. Không
phải ở một nơi cô độc như vậy.
Thuốc nhanh chóng có tác dụng, gần
như ngay lập tức. Cô cảm thấy toàn thân ấm dần, ấm dần và cô muốn
ngủ. Cô trở nên tê liệt.
Hắn cởi phẳng chiếc áo ba lỗ của cô
và mơn trớn bầu vú như một nghệ sĩ xiếc tung hứng với những trái
bóng. Cô không thể ngăn cản được hắn nữa.
Hắn xếp đôi chân của cô gái như thể cô
là một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm điêu khắc bằng con người,
kéo căng chiếc dây da hết cỡ. Hắn vuốt ve giữa hai chân cô gái. Cú
thọc đột ngột khiến cô mở choàng mắt, nhìn trừng trừng vào cái mặt
nạ khủng khiếp. Hắn trợn mắt lại với cô. Đôi mắt hắn vô cảm, trống
rỗng, nhưng sắc lạnh kỳ lạ.
Hắn vào trong cô, cô choáng váng như
bị một dòng điện cực mạnh chạy dọc toàn thân. Hắn rất khoẻ, lúc
này bị kích thích cao độ. Hắn thoả sức khám phá cơ thể cô khi cô
đang chết dần vì thuốc an thần. Hắn đang nhìn cô chết. Đó là tất cả
những gì hắn muốn.
Cơ thể cô quằn quại, vật vã, và rung
lên từng đợt. Dù đã quá yếu, cô vẫn cố gắng hét lên. Không, xin
anh, xin anh, xin anh. Đừng làm vậy với tôi.
Nhẫn tâm thay, chỉ có bóng đen bao
trùm lấy cô.
Cô không biết mình đã bất tỉnh trong
bao lâu. Không quan tâm. Cô tỉnh dậy và vẫn còn sống.
Cô bắt đầu khóc, những âm thanh bị bóp
nghẹt trong chiếc khăn bịt miệng nghe thật đau khổ. Nước mắt chảy dài
trên má. Cô nhận ra mình muốn sống biết bao.
Cô nhận ra mình đã bị di chuyển. Hai
tay cô bị trói ra phía sau, buộc vào một cái cây. Chân cô vắt chéo,
buộc vào nhau, và miệng vẫn đang bị bịt chặt. Hắn đã lột trần cô.
Cô chẳng thấy quần áo của mình đâu cả.
Hắn vẫn ở đó!
“Cô hét tôi cũng chả quan tâm,” hắn
thản niên nói. “Ở đây chả có ma nào nghe thấy đâu.” Ánh mắt hắn loé
lên qua lớp mặt nạ giống y như thật. “Tôi không muốn xua đuổi lũ chim
và thú rừng háu đói kia.” Hắn thoáng liếc nhìn cơ thể tuyệt mỹ của
cô gái. “Thật đáng buồn vì cô đã không nghe lời tôi, phá bỏ luật
lệ,” hắn nói.
Hắn cởi bỏ mặt nạ, và lần đầu tiên
hắn cho cô gái nhìn khuôn mặt mình. Hắn khắc lại hình ảnh cô trong
trí nhớ. Rồi hắn cúi xuống, hôn lên môi cô gái.
Hôn người con gái.
Cuối cùng, hắn bỏ đi.