63. THÀNH PHỐ BUỒN THƯƠNG

Thành
phố u ám

Mặt trời vẫn đứng bóng khi
quân Varden tới sát Urû’baen.

Roran nghe thấy tiếng hò
reo của những chiến binh đứng đầu đội ngũ khi họ leo lên đỉnh đồi. Anh tò mò
ngóng qua gót chân một người lùn đri tước, rồi khi lên đến đỉnh đồi, anh khựng
lại để ngắm nhìn, cũng như những người lính đã đi trước.

Vùng bình nguyên trải dài
thoai thoải xuống vài dặm, được san phẳng thành một khu đất rộng cho những cánh
đồng, cối xay gió và những toàn nhà bằng đá khối, gợi anh nhớ đến một nơi gần
Aroughs. Khoảng năm dặm phía xa ra bức tường thành Urû’baen đứng sừng sững.

Không giống như
Dras-Leona, tường thành của Urû’baen đủ dài để ôm gọn toàn bộ thành phố phía
trong. Nó cũng cao hơn nhiều, thậm chí từ khoảng cách này Roran có thể nói tường
thành ở Dras-Leona lẫn Aroughs chỉ như những chú lùn khi so với nó. Anh đoán độ
cao của bức tường tầm khoảng ba trăm thước. Anh còn nhìn thấy những máy phóng
tên (ballistate) và máy bắn đá (catapult) được đặt đều đặn trên những lỗ châu
mai rộng hoác.

Khung cảnh này làm anh thực
lo lắng. Mấy cái may này quả là rất khó hạ - chưa kể là chúng còn được bảo vệ bởi
phép thuật – và từ kinh nghiệm của mình anh biết chúng nguy hiểm nhường nào.

Phía sau bức tường là đám
hổ lốn những công sự do con người lẫn tiên nhân xây nên. Cao sáu bộ và trông rất
thanh nhã, những tòa tháp nổi bật nhất của tiên nhân được làm bởi những phiến
đá xanh lục, nằm rải rác thành một hình vòng cung bao lấy khu – anh đoán – lâu
đời nhất của thành phố. Hai cái tháp bị mất ngói, và có vẻ anh còn thấy hai cái
nữa bị đổ, bị chôn vùi bởi hàng dãy nhà phía dưới.

Tuy nhiên, thứ gây chú ý
cho anh nhất không phải là bức tường hay mấy toà tháp, mà khu vực đó nằm dưới
bóng của một phiến đá khổng lồ, rộng ít nhất nửa dặm và dày ít nhất năm trăm thước.
Phần đá nhô ra trông như bên sườn đồi trải dài về phía bắc đến vài dặm. Trên bờ
đá lởm chởm là một bức tường khác giống bức bao quanh thành phố, cùng với những
tháp canh vững chãi. (sao Paolini không vẽ đại ra người ta còn tưởng tượng cho
dễ, aizzz)

Phía sau khoảng hõm vào
bên dưới tảng đá là một tòa thành vĩ đại, tô điểm bởi hàng loạt tháp canh với
tường chắn. Tòa thành vươn cao lên khỏi toàn bộ thành phố, gần như chạm đến mặt
dưới của phiến đá. Điều đáng hãi nhất của cổng vào đặt trước tòa thành: một
hang  động bự chảng, đủ để
Saphira và Thorn bước cạnh nhau trong nó.

Ruột Roran quặn thắt. Nếu
những gì trước mắt đúng như anh nghĩ, Shruikan đủ lớn để quét sạch toàn bộ đoàn
quân này. Tốt
hơn là Eragon và Saphira nhanh nhanh lên, anh nghĩ. Cả đoàn quân tiên
nhân nữa.  Từ những
gì anh đã thấy, các tiên nhân có thể cầm cự được với con hắc long của nhà vua,
những cũng có khó mà giết được nó.

Cứ như vậy, Roran đứng lặng
nhìn trên đỉnh đồi. Rồi anh giật cương con Hỏa Tuyết. Đằng sau anh, con bạch mã
khụt khịt đi theo Roran tiếp tục hành trình mệt rã rời, thoải bước xuống sườn đồi
gió thổi lồng lộng.

Anh có thể cưỡi nó – đáng
lẽ như thế, với vị trí tiểu đoàn trường – những sau hành trình tới Aroughs rồi
trở lại, anh trở nên ngán ngẩm ngồi trên lưng ngựa.

Vừa đi, anh vừa nghiền ngẫm
cách tốt nhất để tấn công thành phố. Phiến đá bao gọn Urû’baen ngăn cản công
thành từ bên sườn cũng như phía sau, cũng khiến việc tấn công từ trên xuống phiền
phức hơn nhiều, đây chắc là lý do các tiên nhân chọn nó làm nơi định cư đầu tiên.

Nếu có
thể phá tan phần thoải ra, ta sẽ chiếm được tòa thành và hầu hết thành phố, anh nhẩm tính, nhưng cũng nhận ra rằng chuyện đó thật
khó xảy ra, vì vách đá quá dày. Dù sao,ta vẫn có thể chiếm bờ tường phía đỉnh đồi. Từ đó ta có thể
thả đá và đổ dầu sôi xuống dưới. Chiến đấu ở trên đồi, và mấy bức tường… Có khi
tiên nhân làm được. Hoặc Kull. Họ chắc khoái lắm.

Dòng sông Ramr chảy phía Bắc
cách Urû’baen vài dặm, quá xa nên chẳng giúp được gì. Saphira có thể đào một
con rạch để chuyển hướng nó, nhưng cô rồng cũng cần hàng tuần lễ để hoàn thành,
mà Varden thì không có đủ ngần ấy lương thực. Quân lương chỉ còn đủ trong vài
ngày. Sau đó chỉ còn đường chết đói hoặc tan rã.

Lựa chọn duy nhất bây giờ
là tấn công phủ đầu quân đội Đế chế. Roran không tin Galbatorix sẽ tấn công. Từ trước tới giờ lão có vẻ
thoải mái để quân Varden tới gần mình. Sao lão phải mạo hiểm làm chi? Lão càng chờ thì quân ta càng yếu.

Điều đó có nghĩa là cuộc tấn
công trực diện – bằng cách xung phong ào ạt điên rồ tới bức tường quá dày và
quá cao để có thể trèo qua hay phá vỡ, chưa kể cung thủ và máy bắn đá nã liên tục.
Chỉ tưởng tượng thôi cũng khiến lông mày anh nhăn tít lại. Quân ta sẽ chết ý
như súc vật vậy. Anh chửi thề. Chúng ta tự tìm chết, còn Galbatorix thì cười ngặt nghẽo trên ngai
vàng của lão … Nếu quân ta có thể tới gần bức tường, quân địch sẽ không thể bắn
hoặc nã đá được nữa, nhưng vậy lại dễ làm mồi cho dầu nóng với đá tảng rơi vào
đầu.

Kể cả nếu quân Varden có
phá được tưởng thành đi chăng nữa, họ vẫn phải đối mặt với cả đoàn quân của
Galbatorix. Quan trọng hơn nữa, ai mà biết được tính cách và phẩm chất của những
binh sĩ đó. Liệu họ có liều mạng chiến đấu đến cùng không? Họ có biết sợ không?
Họ có tháo chạy khi bị quân ta ép tới không? Loại thề nguyền và thần chú nào
trói buộc họ đây?

Tình báo của Varden cho biết
Galbatorix đã phong một kẻ tên là Ngài Barst làm chỉ huy quân đội trong
thànhUrû’baen. Roran chưa bao giờ nghe tới tên Barst trước đây, nhưng mẩu tin
có vẻ làm Jörmundur phát nản, rồi lính trong tiểu đoàn của Roran cứ kể mấy câu
chuyện về sự tàn độc của Barst. Hình như trước đây Barst từng là chủ của một điền
trang rất lớn ở Gil’ead, rồi phải bỏ đi sau khi tiên nhân đến xâm chiếm. Các nô
lệ của hắn sống trong sợ hãi thường trực, vì Barst có xu hướng giải quyết tranh
cãi và trừng phải tội nhận bằng cách tàn bạo nhất có thể, và thường là đơn giải
xử tử những kẻ hắn tin là có tội. Chỉ thế thôi thì có vẻ không đáng chú ý lắm;
cả tá những chủ nô lệ khắp Đế chế mang tiếng hung ác. Tuy nhiên, Barst không chỉ
tàn độc mà còn rất mạnh – mạnh khủng khiếp – và xảo trá vô cùng. Trong tất cả
những chuyện về Barst mà Roran từng nghe, trí thông minh của hắn là rõ rồi.
Barst có thể là một kẻ khốn nạn, nhưng cũng rất tài trí, và Roran hiểu rõ rằng
đánh giá thấp hắn sẽ là sai lầm chết người. Galbatorix sẽ không đời nào chọn một
kẻ yếu đuối, hoặc ngốc nghếch chỉ huy lính của hắn.

Và còn đó Thorn với
Murtagh. Galbatorix có vẻ không thích ra khỏi thành trì của lão, nhưng con rồng
đỏ và Kỵ Sỹ của nó thì chắc chắn sẽ bảo vệ tòa thành. Eragon và Saphira
phải dụ chúng ra xa. Nếu không quân ta sẽ chẳng bao giờ vượt qua được tường
thành. Roran cau mày. Vấn
đề là ở chỗ đó. Murtagh trước đây còn mạnh hơn Eragon bây giờ. Eragon vẫn cần
các tiên nhân trợ giúp để tiêu diệt hắn.

Roran lại cảm thấy cơn giận
dữ và oán hận dâng lên trong lòng. Anh ghét việc phải chịu quyền sinh quyền sát
của những kẻ sử dụng pháp thuật. Ít ra khi cần đến sức mạnh và khôn khéo, người
ta có thể thừa cái này thiếu cái kia, nhưng chẳng có cách nào bù đắp được một
người không có phải thuật cả.

Quá chán nản, anh vốc một
viên sỏi lên, thầm thì “Stenr rïsa” như Eragon dạy. Viên đá vẫn trơ ra.

Viên đá mãi trơ ra như vậy.

Anh khịt mũi, ném nó qua vệ
đường.

Vợ con anh đều ở Varden,
mà anh thì chẳng thể làm được gì để giết Murtagh hay Galbatorix. Anh siết chặt
bàn tay, tưởng tượng đã nghiền nát cái gì đó. Hầu hết là xương cốt kẻ địch.

Có khi
ta nên bỏ đi. Lần đầu
tiên ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu Roran. Anh biết có những miền đất nằm ngoài
tầm tay của Galbatorix mãi về phía đông – những đồng bằng màu mỡ chưa có dân du
mục khai phá. Nếu những dân làng khác đi với anh và Katrina, họ có thể bắt đầu
một cuộc sống mới tự do ngoài Đế chế và Galbatorix. Tuy nhiên ý nghĩ này khiến
anh phát bệnh. Anh sẽ bỏ rơi Eragon, lính của anh, vùng đất mà anh gọi là nhà
ư.Không. Mình sẽ không để con của chúng ta sinh ra trong thế
giới mà Galbatorix vẫn thống trị được. Sống mà sợ hãi thế thì thà chết còn hơn.

Dĩ nhiên, nghĩ ngợi thế chẳng
giải quyết được cách chiếm Urû’baen. Trước đây, luôn có những điểm yếu mà anh
có thể khai thác được. Ở Carvahall, bọn Ra’zac đã không hiểu dân làng có thể
chiến đấu quyết liệt thế nào. Khi anh vật nhau với Urgal Yarbog, đó chính là sừng
của đối thủ. Ở Aroughs, đó là con kênh thượng nguồn. Nhưng giờ đây với
Urû’baen, anh không nhìn thấy điểm yếu nào, chẳng có gì giúp anh biến lợi thế của
kẻ địch thành của mình cả.

Nếu ta
có cung ứng, ta có thể bao vây và đợi chúng chết đói. Thế là tốt nhất. Làm khác
thì thật là điên rồ. Tuy nhiên anh biết chiến tranh thì bao giờ cũng đầy rẫy những chuyện
điên rồ như vậy.

Cách
duy nhất chỉ có phép thuật, cuối cùng anh kết luận. Phép thuật và Saphira. Nếu chúng ta có thể tiêu diệt Murtagh, cô rồng
hoặc các tiên nhân có thể giúp quân ta vượt qua bức tường.

Anh cau có, trong miệng thấy
đắng ngắt, rồi sải bước nhanh hơn. Càng tới trại nhanh càng tốt. Bàn chân anh
thấy nhức ngối vô cùng, và nếu anh phải chết trong cuộc xung phong vô nghĩa,
thì ít nhất anh cũng muốn một bữa ăn nóng hổi và giấc ngủ ngon lành trước đã.

Quân Varden lập lều trại
cách Urû’baen một dặm, men theo một nhánh nhỏ của sông Ramr. Loài người, người
lùn, và Urgal bắt đầu lập chiến lũy, kéo dài đến tận đêm và tiếp tục lúc bình
minh. Thực ra, cho đến khi nào vẫn còn ở đó, họ vẫn phải tiếp tục gia cố phòng
ngự. Các chiến binh ghét cay ghét đắng lao động, nhưng việc đó khiến họ bận rộn,
và có thể cứu mạng họ nữa.

Ai cũng nghĩ mệnh lệnh đến
từ Eragon-giả. Roran biết Jörmundur mới là người ra lệnh. Anh dần dà thấy kính
trọng người chiến binh già từ khi Nasuada bị bắt cóc và Eragon rời đi. Jörmundur
đã chiến đấu chống lại Đế chế gần như suốt đời, ông hiểu sâu sắc cả chiến thuật
lẫn hậu cần. Ông và Roran khá hợp nhau; họ đều chiến đấu bằng gươm giáo chứ
không phải bằng phép thuật.

Rồi còn King Orrin nữa,
người mà – sau vài đề phòng lúc đầu đã qua – Roran vẫn cảm thấy nhập nhằng.
Orrin chưa bao giờ hết làm anh bực mình; và nếu ai đó khiếp bọn họ bị giết, hẳn
đó là ông ta. Roran biết xúc phạm một vị vua chẳng hay ho gì, nhưng lão ngốc đó
muốn cho một người đưa tin tới cổng thành Urû’baen để có một cuộc thách đấu
công khai, như cách họ thắng được Dras-Leona và Belatona.

“Ông có muốn chọc tức Galbatorix hả?” Roran gầm
lên. “Nếu chúng ta làm thế, lão ta có thể phản ứng đấy!”

“Phải, dĩ nhiên”, Vua
Orrin cả giọng, ưỡn thẳng người. “Sẽ rất phù hợp nếu chúng ta phát ngôn ý định
rõ ràng và cho lão cơ hội đàm phán hòa bình.”

Roran trân trối, rồi khinh
bỉ quay qua phía Jörmundur, “Ngài có thể làm ông ấy biết phải trái không?”

Họ tập trung trong lều của
Orrin, theo triệu tập của nhà vua.

“Thưa Đức Vua”, Jörmundur
nói, “Roran nói phải. Tốt nhất là nên đợi chưa vội liên lạc với Đế chế.”

“Nhưng họ thấy ta mà,”
Orrin phản đối. “Chúng ta dựng trại ngay ngoài tường thành của họ. Thật là …
thô lỗ nếu không gửi sứ giả bày tỏ kiến nghị của chúng ta. Hoàng gia đòi hỏi phải
có phép lịch sự tối thiểu, thậm chỉ cả trong chiến tranh.”

Ý nghĩ thôi thúc đập cho
nhà vua một cái xẹt qua đầu Roran. “Ông vẫn còn ngớ ngẩn tới mức cho rằng
Galbatorix sẽ xem ông như một kẻ ngang hàng à? Hmm! Với lão chúng ta chỉ là kiến
cỏ thôi. Lão chả quan tâm đến phép lịch sự của ông đâu. Ông quên mất Galbatorix
từng là thường dân trước khi lão lật đổ các Kỵ Sỹ rồi à. lão không hành xử như
ông đâu. Không có ai như lão trên đời này hết, mà ông còn nghĩ có thể đoán trước
được lão như. Ông muốn xoa dịu lão ư? Hmm!”

Khuôn mặt của Orrin đỏ
lên, ông quăng cốc rượu trong tay xuống sàn. “Anh đi quá xa rồi đấy, Cây Búa
Dũng Mành à. Không ai có quyền sỉ nhục tôi như thế.”

“Tôi có quyền làm bất cứ
thứ gì tôi muốn,” Roran gầm lên. “Tôi không phải là thần dân của ông. Tôi không
phải vâng lời ông. Tôi là người tự do, và tôi sẽ sỉ nhục bất kì ai tôi muốn, bất
kì lúc nào tôi muốn, bằng cách nào tôi muốn – kể cả ông. Gửi người đưa tin đi
là cực kì sai lầm, và tôi …”

Một tiếng rít vang lên khi
vua Orrin rút gươm khỏi vỏ. Ông không làm Roran hoàn toàn bất ngờ được, anh
luôn cầm cây búa của mình, và ngay khi nghe thấy tiếng động, anh lập tức lôi vũ
khí từ thắt lưng ran gay lập tức.

Thanh gươm của nhà vua trở
nên bàng bạc trong ánh sáng tù mù của căn lều. Roran thấy Orrin sẽ đâm tới ,
anh tránh đi. Rồi anh đập mạnh vào bề mặt lưỡi gươm, khiến nó rung lên, văng khỏi
tay Orrin.

Thanh gươm nạm ngọc rơi xuống
thảm, vẫn còn rung rung.

“Đức Ngài,” một lính cách
hô lên. “Ngài có ổn không?”

“Tôi vừa đánh rơi khiên,”
Jörmundur đáp. “Không có gì phải lo cả.”

“Vâng, thưa ngài.”

Roran nhìn đức vua trân tối;
trên mặt Orrin là vẻ hoang dã của một con thú bị săn. Không rời mắt khỏi ông,
Roran đeo búa vào thắt lưng. “Liên lạc với Galbatorix là ngu xuẩn và nguy hiểm.
Nếu ông cố thử, tôi sẽ giết bất kì ai ông gửi đi trước khi hắn kịp tới thành phố.”

“Mày không dám đâu!” Orrin
hổn hển.

“Tôi có thể, và sẽ làm.
Tôi sẽ không để ông gây nguy hiểm cho tất cả chúng ta chỉ để thoải mãn niềm …
kiêu hãnh hoàng gia của ông. Nếu Galbatorix muốn nói chuyện, hắn sẽ biết phải
tìm chúng ta ở đâu. Nếu không, cứ mặc hắn.

Roran phóng ra khỏi căn lều.
Bên ngoài, anh chống tay vào hông nhìn lên trời mây u ám trong khi chờ mình
bình tĩnh lại. Orrin hệt như một con la non: cố chấp, tự tin quá đáng, và sẵn
sàng chọc xà beng vào lỗ tai nếu người ta cho ông cơ hội.

Và ông
ta uống nhiềukinh khủng nữa, Roran thầm nhủ.

Anh cứ tản bộ trước căn lều
cho đến khi Jörmundur bước tới. Trước khi ông kịp nói gì, anh trầm giọng, “Tôi
xin lỗi.”

“Cũng như cậu đáng phải thế.”
Jörmundur quẹt tay lên trán, rồi rút từ trong túi một chiếc tẩu đất sét, dúi
vào một ít lá, nhồi bằng đầu ngón cái. “Nãy giờ tôi ở đó chỉ để thuyết phục ổng
không gửi đặc sứ cho tỏ ra bất chấp ý kiến của cậu đấy.” Ông dừng lại trong
giây lát. “Cậu có thực sẽ giết người của Orrin không đấy?”

“Tôi không dọa suông bao
giờ,” Roran nói.

“Tôi cũng không nghĩ thế…
Rồi, hy vọng là không đến nước đấy.” Jörmundur tản bộ dọc theo những chiếc lều,
Roran đi theo. Các binh sĩ tránh đường cho họ kèm theo những cái cúi đầu tôn
kính. Nhướn tẩu thuốc lên, Jörmundur khề khà, “Tôi thừa nhận mình cũng luôn muốn
đáp trả Orrin thẳng thừng như thế hơn một lần.” Môi của ông dang ra thành một nụ
cười nhạt. “Không may sao, lần nào tôi cũng nghĩ rồi mới làm.”

“Ổng vẫn thường … cứng đầu
như vậy từ trước tới giờ à?”

“Hmm? Không đâu. Lúc còn ở
Surda, ổng biết điều hơn nhiều.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Ổng sợ, tội nghĩ vậy. Sợ
hãi làm người ta xử sự kì quặc lắm.”

“Phải đấy.”

“Có vẻ hơi xúc phạm cậu một
tí, nhưng mà cậu cũng ngu quá đi cơ.”

“Tôi biết. Tôi cứ nóng lên
là làm tới thôi.”

“Và cậu kết oán với một vị
vua.”

“Ý ông là một vị vua khác.”

Jörmundur phì cười nhẹ. “Ờ
phải, tôi cho là cậu có kẻ thù cá nhân là Galbatorix rồi, ai khác thì cũng vô hại
cả. Dù sao đi nữa …” Ông dừng lại trước đống lửa, rút ra từ đó một cành cây mỏng
cháy đỏ. Chấm đầu cành cây vào lòng tẩu thuốc, ông rít vài hơi, châm lửa, rồi
quẳng cành cây lại vào đám lửa. “Dù sao đi nữa, tôi sẽ không bỏ qua cơn giận của
Orrin đâu. Ông ta sẵn sàng giết cậu trước đây. Nếu ổng oán ai đó, tôi nghĩ là ổng
sẽ trả thù bằng được. Tôi sẽ sắp lính canh ở lều của cậu trong vài ngày tới. Dù
sao, sau đó …” Jörmundur so vai.

“Sau đó, chúng ta sẽ đều
phải chết hoặc bị tù đày.”

Họ cùng bước đi trong im lặng
thêm vài phút, còn Jörmundur cứ rít tẩu thuốc của ông suốt. Khi họ sắp tách
nhau, Roran hỏi, “Khi ông thấy Orrin …”

“Gì vậy?”

“Có lẽ ông cho thể cho ông
ấy biết nếu động chạm đến Katrina, tôi sẽ đánh ông ta lòi ruột trước toàn doanh
trại.”

Jörmundur cúi đầu ngẫm
nghĩ một lúc, rồi ngẩng đầu gật gật. “Tôi nghĩ tôi có thể tìm ra cách làm chuyện
đó, Cây Búa Dũng Mãnh.”

“Cảm ơn.”

“Sẵn sàng thôi. Lúc nào
cũng thế, giúp cậu luôn là niềm vui độc đáo vô cùng.”

“…”

Roran tìm Katrina, thuyết
phục cô mang bữa tối đến rìa phía Bắc doanh trại, nơi anh có thể cảnh giới đặc
sứ của Orrin. Họ ăn bữa đặt trên tấm vải sạch trải ra trên nền đá cuội, rồi ngồi
cùng nhau khi bóng chiều tà vươn ra, những ngôi sao nối đuôi nhau nhấp nháy
trên bầu trời màu tím phía trên phiến đá nhô ra.

“Em rất mừng được ở đây,”
cô thủ thỉ, tựa đầu vào vai anh.

“Thật không em?”

“Bầu trời thực đẹp, và em
có anh ở đây với em.” Cô xiết chặt cánh tay anh.

Anh kéo cô lại gần, nhưng
bóng đen trong lòng anh vẫn còn đó. Anh không thể nào quên hiểm nguy đang cận kề
cô và đứa con của họ. Ý nghĩ kẻ thù lớn nhất của họ chỉ cách vài dặm cứ khiến
lòng anh như lửa đốt; anh không ước gì hơn là có thể bật dậy, phi thẳng đến
Urû’baen giết Galbatorix.

Nhưng chuyện đó là vô
phương, nên anh mỉm cười, hoặc cười phá lên, cố giấu nỗi sợ hại, thậm chỉ khi
anh biết cô cũng đang cố giấu nỗi sợ hại như vậy.

Khỉ thật,
Eragon, anh
nghĩ, cậu phải
nhanh nhanh lên, hoặc tôi thề sẽ ám cậu sau khi chết đấy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3