Tam quốc diễn nghĩa - Chương 041

HỒI 41

Lưu Huyền Đức đưa dân qua sông;

Triệu Tử Long một ngựa cứu chúa.

Lại nói Trương Phi thấy nước ở thượng lưu đổ về, vội vàng đem
quân lên chặn đường Tào Nhân, thì gặp ngay Hứa Chử đến. Hai tướng giao phong, Hứa
Chử không dám ham đánh, cướp đường chạy thoát. Trương Phi quay lại đuổi, gặp
ngay Huyền Đức cùng Khổng Minh men bờ sông đi ngược lên. Lưu Phong, My Phương
đi sắp thuyền sẵn. Mọi người xuống cả đò sang sông, kéo về Phàn Thành. Khổng
Minh sai đem thuyền bè đốt sạch.

Tào Nhân thu nhặt tàn quân, đóng ở tân Dã, sai Tào Hồng về
ra mắt Tào Tháo, trình việc thua trận, Tháo nổi giận nói:

- Gia Cát thôn phu, to gan thực!

Lập tức khởi ba quân đông như kiến cỏ, kéo đến Tân Dã đóng
trại; rồi sai quân sĩ, một mặt kiểm soát trên núi, một mặt lấp sông Bạch Hà, đoạn
chia đại quân làm tám đường, nhất tề đến lấy Phàn Thành.

Lưu Hoa can rằng:

- Thừa tướng mới đến Tương Dương, trước hết hãy mua lấy lòng
dân đã. Nay Huyền Đức dời hết cả dân Tân Dã vào Phàn Thành, nếu ta đến ngay thì
dân hai huyện ra cám cả. Chi bằng, sai người chiêu hàng Lưu Bị dù Bị không hàng,
mình cũng được cái tiếng là thương dân. Nếu Bị hàng, thì có phải đất Kinh Châu
không đánh cũng được không?

Tháo nghe lời ấy, liền hỏi:

- Ai đi sứ được?

Lưu Hoa nói:

- Từ Thứ rất thân với Lưu Bị, nay hắn cũng có mặt ở đây, sao
không sai hắn đi một chuyến?

Tháo nói:

- E hắn đi không trở về?

Hoa nói:

- Nếu hắn đi không trở về, thiên hạ sẽ chê cười hắn, thừa
tướng không phải lo điều ấy.

Tháo lập tức gọi Từ Thứ đến bảo rằng:

- Ta muốn san phẳng Phàn Thành, nhưng nghĩ lại thương dân. Ông
hãy đến dụ Lưu Bị, nếu y lại hàng, sẽ được tha tội và phong tước; ví bằng y
ngoan cố thì quân dân đều chết, đá ngọc nát tan. Tôi biết ông là người trung
nghĩa, nên mới nhờ ông việc này, xin chớ phụ nhau.

Từ Thứ lĩnh mệnh đến Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra
đón, hai bên cùng kể lể tình xưa nghĩa cũ. Thứ nói:

- Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh
mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch hà
mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi chỗ khác.

Lưu Bị muốn lưu Từ Thứ ở lại. Thứ tạ nói rằng:

- Nếu tôi không trở về, tất thiên hạ chê cười. Nay mẹ già đã
mất, thôi đành ôm hận suốt đời. Vả thân tôi tuy ở bên đó song thề chết không
bày một kế gì. Sứ quân đã có Ngọa Long giúp đỡ, lo gì nghiệp lớn chẳng thành.

Thứ xin từ biệt. Huyền Đức không dám ép nài.

Từ Thứ về ra mắt Tào Tháo, nói Lưu Bị không chịu hàng.

Tháo giận lắm, ngay hôm ấy hạ lệnh tiến quân.

Huyền Đức hỏi kế Khổng Minh, Khổng Minh nói:

- Phải cấp tốc bỏ Phàn Thành, lấy Tương Dương tạm trú. Huyền
Đức lại hỏi:

- Thế còn trăm họ đi theo đã lâu, sao nỡ bỏ?

Khổng Minh lại bảo:

- Nên sai người thông báo cho nhân dân biết là ai muốn đi
theo thì đi, ai không muốn đi thì ở lại.

Trước hết sai Quan Vũ ra bờ sông sắp sẵn thuyền bè; Tôn Càn,
Giản Ung thì đi loan báo khắp thành rằng:

- Nay quân Tào sắp đến, thành trì trơ trọi này không thể cầm
cự lâu được, trăm họ ai muốn đi theo thì cùng sang sông.

Dân hai huyện đồng thanh reo lên rằng:

- Dù chết, chúng tôi cũng vui lòng theo sứ quân.

Liền đó, trăm họ khóc lóc ra đi. Già trẻ dắt díu, trai gái
bế bồng, lũ lượt sang đò. Hai bờ sông, tiếng khóc như ri. Huyền Đức ở trên
thuyền trông thấy, rất cảm động nói:

- Chỉ vì một mình ta, mà để trăm họ mắc nạn lớn, ta sống làm
chi?

Nói rồi, định đâm đầu xuống sông. Tả hữu vội vàng ngăn lại. Nghe
thấy thế ai cũng đau lòng xót ruột. Khi thuyền đi đến bờ phía nam, ngoảnh lại
thấy những người ở lại, đều hướng cả về nam mà khóc. Huyền Đức lại sai Vân
Trường giục thuyền sang chở nốt rồi mới lên ngựa. Đi đến cửa đông thành Tương
Dương, chỉ thấy trên mặt thành tinh kì phấp phới, trên bờ hào gài chông chà kín
mít. Huyền Đức dừng ngựa gọi to rằng:

- Hiền điệt Lưu Tôn! Ta chỉ vì trăm họ mà đến đây, không có
bụng gì đâu, mở cửa ra mau.

Tôn nghe Huyền Đức đến, sợ không dám ra. Sái Mạo và Trương
Doãn lên thẳng chòi canh, thét quân sĩ bắn như mưa. Trăm họ ở ngoài thành đều
trông lên chòi canh mà khóc. Bỗng trong thành, có một tướng dẫn vài trăm quân
lên thẳng lầu thành quát to:

- Sái Mạo, Trương Doãn, những thằng giặc bán nước kia! Lưu
sứ quân vốn người nhân đức, nay vì cứu dân đến đây, sao dám chống cự?

Mọi người nhìn xem ai thì là Ngụy Diên, tự là Văn Tràng mình
cao tám thước, mặt đỏ như gấc, quê ở Nghĩa Dương. Diên múa đao công đến chém
chết tướng sĩ canh cửa, mở toang cửa thành, bỏ cầu treo xuống, gọi to lên:

- Xin Lưu hoàng thúc mau mang quân vào thành cùng giết những
thằng giặc bán nước.

Trương Phi tế ngựa định vào, Huyền Đức vội ngăn lại nói:

- Không được làm trăm họ sợ hãi!

Ngụy Diên cứ mải gọi quân mã vào thành, bỗng có một tướng tế
ngựa ra, quát lên rằng:

- Ngụy Diên, mày là một thằng vô danh tiểu tốt, sao dám làm
loạn? Có biết ta là đại tướng Văn Sính đây không?

Ngụy Diên giận lắm, vác thương tế ngựa đến đánh. Quân sĩ hai
bên đánh lộn nhau dưới thành, tiếng reo ầm ĩ, Huyền Đức nói:

- Ai ngờ muốn cứu dân lại hóa ra hại dân! Ta không muốn vào
Tương Dương nữa.

Khổng Minh nói:

- Giang Lăng là một nơi hiểm yếu ở Kinh Châu, chi bằng ta
hãy ra lấy trước làm nơi căn cứ đã!

Huyền Đức nói:

- Chính hợp ý ta.

Lập tức đem trăm họ dời Tương Dương, chạy đến Giang Lăng. Nhiều
dân ở Tương Dương, nhân lúc rối ren, trốn ra theo Huyền Đức.

Ngụy Diên đánh nhau với Văn Sính từ giờ Tị đến giờ Mùi, quân
sĩ chết sạch, Diên tế ngựa chạy trốn, tìm mãi không thấy Huyền Đức, phải sang
Tràng Sa theo thái thú Hàn Huyền.

Lại nói Huyền Đức cùng đi với hơn mười vạn quân dân, vài
nghìn cỗ xe lớn nhỏ và rất nhiều gồng gánh, đồ đạc. Đi qua mộ Lưu Biểu, Huyền
Đức đem các tướng đến lạy trước mộ, khóc mà than rằng:

- Đứa em nhục nhã là Bị, không tài đức gì, phụ lòng anh kí
thác, tội ở một mình em, không can gì đến trăm họ, xin linh hồn anh cứu lấy
trăm họ Kinh Tương!

Huyền Đức khấn thảm thiết lắm, quân dân đều ứa nước mắt. Chợt
lại có tin báo rằng:

- Đại quân Tào Tháo đã đóng ở Phàn Thành, đương sai người
chuẩn bị thuyền bè, sắp sửa sang đò đuổi theo.

Các tướng nói:

- Giang Lâm hiểm yếu, đủ cự được với giặc. Nay đem mấy vạn
dân, ngày đi được hơn mười dặm, thì bao giờ mới đến nơi? Nếu quân Tào kéo đến
thì làm thế nào? Chi bằng hãy tạm bỏ dân lại mà đi trước.

Huyền Đức khóc rằng:

- Ta mưu việc lớn, chẳng qua cũng lấy dân làm gốc. Nay người
ta theo mình sao nỡ bỏ!

Trăm họ nghe nói, ai cũng cảm động.

Đời sau có thơ than rằng:

Gặp loạn tỏ lòng thương bách tính.

Lên thuyền gạt lệ cảm ba quân.

Đến nay thăm hỏi Tương Giang Khẩu.

Phụ lão còn truyền nhớ sứ quân.

Lại nói Huyền Đức dẫn trăm họ từ từ tiến đi. Khổng Minh nói:

- Quân Tào sắp đuổi đến nơi, nên sai Vân Trường sang Giang
Hạ cầu cứu công tử Lưu Kỳ, bảo Kỳ cấp tốc đi thuyền về hội ở Giang Lăng.

Huyền Đức theo lời, liền viết thư sai Vân Trường cùng với
Tôn Càn đem năm trăm quân đến Giang Hạ cầu cứu. Trương Phi đi chặn hậu. Triệu
Vân bảo vệ gia thuộc, còn các tướng đi trông nom trăm họ. Mỗi ngày chỉ đi được
hơn mười dăm lại nghỉ.

Tào Tháo ở Phàn Thành, sai người sang sông đến Tương Dương
triệu Lưu Tôn đến. Tôn sợ hãi không dám đi. Sái Mạo, Trương Doãn xin đi, Vương
Uy Mật nói với Tôn rằng:

- Tướng quân đã theo hàng, Huyền Đức lại chạy. Tào Tháo tất
lơ là không phòng bị gì. Xin tướng quân phục kị binh ở nơi hiểm mà đánh, chắc
bắt được Tháo. Bắt được Tháo rồi thì uy danh sẽ lừng lẫy thiên hạ; Trung Nguyên
dẫu rộng, nhưng chỉ phát một tờ hịch là định xong. Cơ hội này không mấy khi gặp,
xin tướng quân chớ để nhỡ.

Tôn đem lời ấy, nói với Sái Mạo. Mạo mắng Vương Uy rằng:

- Ngươi không biết mệnh trời, sao dám nói càn?

Uy giận lắm, mắng lại:

- Thằng giặc bán nước kia! Ta chỉ giận không nuốt sống được
mày thôi!

Mạo muốn đem giết, Khoái Việt ngăn lại, Mạo cùng Trương Doãn
đến Phàn Thành vào bái kiến Tào Tháo, thái độ hết sức xu nịnh. Tháo hỏi:

- Quân mã, tiền lương Kinh Châu, ước được bao nhiêu?

Mạo thưa:

- Kị binh được ba vạn, quân độ mười lăm vạn, quân thủy tám
vạn, cả thảy hai mươi sáu vạn. Lương thảo quá nửa ở Giang Lăng; còn các nơi
cũng đủ dùng một năm.

Tháo lại hỏi:

- Chiến thuyền có bao nhiêu, do ai quản lĩnh?

Mạo thưa:

- Chiến thuyền lớn nhỏ cả thảy bảy nghìn chiếc, do hai chúng
tôi quản lĩnh.

Tháo liền phong cho Sái Mạo làm Trấn Nam hầu thủy
quân đại đô đốc; Trương Doãn làm Trợ Thuận hầu thủy quân phó đô đốc.

Hai người mừng lắm, lạy tạ.

Tháo lại hỏi:

- Lưu Cảnh Thăng mất rồi, mà còn lại biết hàng thuận, ta sẽ
tâu với thiên tử cho làm chủ Kinh Châu mãi mãi.

Hai người lạy tạ lui ra.

Tuân Úc nói:

- Sái Mạo, Trương Doãn là đồ xiểm nịnh, sao chúa công phong
cho tước cao như thế, lại cho làm đô đốc thủy quân?

Tháo cười, nói:

- Ta sao lại chẳng biết người, chỉ vì quân đất bắc không
quen đánh thủy, nên phải tạm dùng bọn chúng. Khi nào việc xong, ta sẽ định liệu.

Sái Mạo, Trương Doãn về gặp Lưu Tôn nói:

- Tào thừa tướng hứa phong cho chúa công làm chủ Kinh Châu
mãi.

Tôn mừng lắm, hôm sau cùng với mẹ là Sái phu nhân đem ấn tín
sang sông đón rước Tào Tháo.

Tháo phủ dụ xong, lập tức đem quân tướng sang đóng ngoài
thành Tương Dương.

Sái Mạo, Trương Doãn, sai trăm họ trong thành đốt hương đón
rước. Tháo lấy lời ngọt ngào ủy lạo, rồi vào thành. Đến phủ ngồi với Khoái Việt,
Tháo lại phủ dụ rằng:

- Ta không mừng được Kinh Châu, chỉ mừng được đi bộ đó thôi.

Nói xong, phong cho Việt chức thái thú Giang Lăng, tước Phàn
Thành hầu. Bọn Phó Tôn, Vương Sán đều được làm quan nội hầu, và cử Lưu Tôn làm
thứ sử Thanh Châu, bắt phải đi ngay lập tức.

Tôn nghe lệnh thất kinh, từ chối nói rằng:

- Tôn nay không muốn làm quan, xin cho ở nhà giữ quê hương
cha mẹ.

Tháo nói:

- Thanh Châu gần Kinh Đô, cho ngươi vào triều đình làm quan,
kẻo ở Kinh Tương có kẻ mưu hại.

Tôn hai ba lần từ chối, Tháo không cho, bất đắc dĩ phải cùng
Sái phu nhân đi Thanh Châu; chỉ có tướng cũ là Vương Uy đi theo, còn bao nhiêu
quan viên đều tiễn đến cửa sông rồi quay về. Tháo gọi Vu Cấm đến dặn rằng:

- Ngươi dẫn khinh kị đuổi theo, giết cả hai mẹ con đi để
khỏi lo hậu loạn.

Vu Cấm được lệnh, mang quân đuổi theo, thét lớn:

- Ta phụng mệnh thừa tướng theo giết mẹ con mày! Mau sớm nộp
thủ cất đi!

Sái phu nhân ôm Lưu Tôn khóc ầm ĩ. Vu Cấm thét quân sĩ hạ
thủ, Vương Uy tức giận cố sức chống cự, cũng bị giết nốt.

Vu Cấm về báo, Tháo trọng thưởng cho, lại sai đem quân vào
Long Trung tìm bắt cho được gia quyến Khổng Minh, nhưng chẳng biết đã dời đi
đâu rồi.

Số là Khổng Minh biết trước đã sai người mang gia quyến đến
lánh ẩn ở Tam Giang.

Tháo tức lắm.

Tương Dương đã yên, Tuân Du nói:

Giang Lăng là đất hiểm ở Kinh Tương, tiền lương rất nhiều, nếu
Lưu Bị chiếm cứ chỗ ấy, thì khó lòng lấy nổi.

Tháo nói:

- Ta có quên đâu!

Liền sai chọn một người trong số các tướng ở Tương Dương để
dẫn đường. Thấy vắng mặt Văn Sính. Tháo sai người đi tìm, bấy giờ Sính mới chịu
lại hầu. Tháo hỏi:

- Sao ngươi chậm trễ thế!

Sính đáp:

- Làm bầy tôi mà không giúp được chủ giữ lấy giang sơn, xấu
hổ lắm, không mặt nào đến sớm được.

Nói xong, sụt sùi khóc.

Tháo khen:

- Thật là trung thần!

Và cho ngay làm thái thú Giang Hạ tước quan nội hầu, sai đem
quân đi mở đường.

Thám mã chạy về báo rằng:

- Lưu Bị dẫn bách tính đi chậm lắm, mỗi ngày chỉ đi được hơn
mười dặm; tính đến nay mới đi được hơn ba trăm dặm.

Tháo sai kén lấy năm nghìn thiết kị cấp tốc đuổi theo, hẹn
cho một ngày một đêm phải đuổi kịp Lưu Bị. Đại quân lục tục kéo sau.

Bấy giờ, Huyền Đức dẫn hơn mười vạn dân và hơn ba nghìn quân
mã, từ từ kéo sang Giang Lăng. Triệu Vân thì bảo vệ gia quyến Huyền Đức; Trương
Phi đi chặn hậu.

Khổng Minh nói:

- Vân Trường sang Giang Hạ không thấy tin tức gì cả, không
biết ra sao?

Huyền Đức nói:

- Xin phiền quân sư đi cho một chuyến. Lưu Kỳ nhờ ơn quân sư
dạy cho khi trước, công việc tất có kết quả.

Khổng Minh vâng lời, liền cùng Lưu Phong đem ngay năm trăm
quân sang Giang Hạ cầu cứu.

Hôm ấy, Huyền Đức cùng đi với Giản Ung, My Chúc, My Phương, bỗng
một cơn gió lốc kéo đến trước mặt, đất cát bay mù mịt lấp cả mặt trời. Huyền
Đức thất kinh hỏi rằng:

- Thế là điềm gì đó?

Giản Ung giỏi tính âm dương, bấm một quẻ, rồi hoảng sợ nói
rằng:

- Điềm này hung dữ lắm! Chỉ nội đêm nay sẽ xảy ra. Chúa công
đành phải bỏ bách tính mà chạy mới thoát.

Huyền Đức nói:

- Trăm họ theo ta từ Tân Dã đến đây, bỏ rơi sao đành?

Ung nói:

- Chúa công cứ lưu luyến mãi thì tai vạ tới nơi mất.

Huyền Đức hỏi rằng:

- Trước mặt kia là đâu?

Tả hữu đáp:

- Trước mặt là huyện Đương Dương, có một trái núi, gọi là
Cảnh Sơn.

Huyền Đức truyền quân tạm đến đóng ở đó.

Bấy giờ, trời cuối thu sang đông, gió lạnh thấu xương, mặt
trời sụp lặn, tiếng khóc dậy đất.

Độ canh tư, thấy góc tây bắc có tiếng reo hò ầm ĩ vang lại. Huyền
Đức giật mình, dẫn hơn hai nghìn tinh binh ra nghênh địch. Quân Tào ùa đến. Không
sao địch nổi, Huyền Đức liều chết cầm cự. Đương khi nguy cấp, may được Trương
Phi dẫn quân đến, đánh mở một đường máu, cứu được Huyền Đức rồi nhằm phía đông
chạy miết. Văn Sính ra chặn đường. Huyền Đức ra mắng rằng:

- Thằng phản chủ kia! Mày còn mặt mũi nào trông thấy người
ta nữa?

Văn Sính hổ thẹn quá chừng, dẫn quân chuồn thẳng về phía
đông bắc.

Trương Phi bảo vệ Huyền Đức, vừa đánh vừa chạy, mãi đến sáng
thấy tiếng hò reo đã xa. Huyền Đức mới nghỉ ngựa, nhìn lại thủ hạ thì chỉ còn
vẻn vẹn hơn trăm kị binh đi theo. Trăm họ, gia quyến và bọn My Chúc, My Phương,
Giản Ung, Triệu Vân tất cả hơn nghìn người không biết lạc lõng đâu cả. Huyền
Đức khóc ầm lên, nói:

- Hơn mười vạn nhân dân, chỉ vì mến ta, nên gặp nạn lớn này;
các tướng cùng gia quyến không biết sống chết ra sao, dẫu gỗ đá cũng phải đau
xót!

Đương lúc buồn rầu, bỗng thầy My Phương mặt vẫn còn cắm mấy
cái tên, lò dò đi đến, nói:

- Tử Long đi theo Tào Tháo rồi!

Huyền Đức mắng rằng:

- Tử Long là bạn cũ của ta, lẽ đâu phản bội!

Trương Phi nói:

- Nay hắn thấy chúng ta thế cùng sức hết.

Huyền Đức nói:

- Không nên hồ đồ như thế. Em há không nhớ chuyện Vân Trường
giết Nhan Lương, Văn Sú đó sao? Tử Long bỏ đi ắt có rủi ra gì đấy. Ta chắc Tử
Long không khi nào bỏ ta.

Trương Phi không chịu nghe, dẫn hai mươi quân kị mã đến cầu
Trường Bản; thấy mé đông cầu có một dãy cây cối, Phi nghĩ ngay ra một kế, liền
sai quân chặt cành cây buộc vào đuôi ngựa, rồi thúc ngựa chạy tứ tung trong
rừng, cho bụi mù lên để làm nghi binh. Trương Phi vác mâu, cưỡi ngựa đứng trên
cầu, nhìn trừng trừng về phía tây.

Lại nói, từ lúc canh tư Triệu Vân cự nhau với quân Tào, đi
lại xông xáo, đánh vừa đến sáng, tìm không thấy Huyền Đức, lại bỏ lạc cả gia
quyến Huyền Đức. Vân nghĩ bụng rằng:

- Chủ ta đã đem Cam, My hai
phu nhân cùng A Đẩu ủy thác cho ta, nay lạc mất cả, ta còn mặt nào trông thấy
chủ nữa. Chi bằng ta liều chết đánh giặc, cứu cho được hai phu nhân và A Đẩu.

Vân nhìn lại tả hữu thì chỉ còn có ba bốn mươi quân kị mã đi
theo, Vân tế ngựa vào trong đám loạn quân tìm kiếm, dân hai huyện kêu khóc như
ri, người trúng tên, kẻ bị đâm, bỏ cả con cái, anh em, chạy tán loạn.

Vân đương đi, thấy có một người nằm trên bãi cỏ, trông xem
thì là Giản Ung. Vân vội hỏi:

- Có thấy hai chúa mẫu đâu không?

Ung nói:

- Hai phu nhân bỏ cả xe, ôm A Đẩu mà chạy; ta tế ngựa chạy
theo, đi qua sườn núi, chẳng may bị một tướng đâm nhát kích ngã nhào, ngựa bị
cướp mất, ta không lấy lại được, nên chịu nằm đây.

Vân bảo lính nhường ngựa cho Giản Ung cưỡi, và đỡ Ung đi
trước, nhờ báo với chủ nhân rằng: “Tôi dù lên trời, xuống đất, thế nào cũng
quyết tìm cho được hai phu nhân và A Đẩu; bằng không tìm thấy, xin chết trên
bãi chiến trường!”

Nói xong tế ngựa chạy thẳng về phía gò Trường Bản chợt thấy
một người gọi ta rằng:

- Triệu tướng quân đi đâu thế?

Vân dừng ngựa lại hỏi:

- Ngươi là ai?

Người ấy đáp:

- Tôi là lính hầu của Lưu sứ quân, sai đi hộ tống xa trượng,
bị tên lăn xuống đây.

Vân hỏi luôn tin tức hai phu nhân, tên lính nói:

- Mới rồi thấy Cam phu nhân
xõa tóc đi chân không theo một lũ đàn bà con gái thường dân chạy ở phía nam.

Vân nghe xong không hỏi gì nữa, tế ngựa theo phía nam đi tìm,
thấy một đám đông dân chúng chừng vài trăm người, vừa đàn ông, vừa đàn bà đang
chạy tất tả.

Vân gọi to lên rằng:

- Trong đám có Cam phu nhân
không?

Phu nhân đi cuối cùng, trông thấy Triệu Vân, òa lên khóc. Vân
xuống ngựa, bỏ giáo, khóc mà rằng:

- Để cho chủ mẫu thất lạc, chính là tội Vân... My phu nhân
cùng ấu chúa đâu rồi?

Cam phu nhân nói:

- Ta cùng với My phu nhân bị giặc đuổi, bỏ cả xe cộ, lẩn vào
đám thường dân, lại gặp một toán quân mã xô vào. My phu nhân cùng A Đẩu không
biết lạc vào đâu, duy chỉ có một mình ta trốn chạy đến đây.

Đương nói chuyện lại thấy dân chúng kêu khóc ầm lên, nhìn ra
thấy một người bị trói trên lưng ngựa, chính là My Chúc, theo sau, một tướng
tay cầm mã tấu, dẫn thêm một nghìn quân tên là Thuần Vu Đạo, là bộ tướng của
Tào Nhân. Đạo bắt được My Chúc đem nộp để lấy công. Triệu Vân quát to một tiếng,
tế ngựa xông tới. Đạo không địch nổi, bị Vân đâm một giáo chết. Vân cứu được My
Chúc, lấy được đôi ngựa, mời Cam phu nhân cưỡi, đánh giết mở một con đường đi
thẳng đến gò Trường Bản. Đến nơi, chỉ thấy Trương Phi cưỡi ngựa đứng trên cầu, cầm
ngang ngọn mâu gọi to rằng:

- Tử Long Sa dám phản anh ta?

Vân nói:

- Ta còn tìm chưa thấy chủ mẫu và A Đẩu, nên rớt lại sau, sao
lại bảo là phản?

Phi nói:

- Nếu không có Giản Ung cho biết trước thì ta không làm ngơ
đâu!

Vân hỏi:

- Chúa công đâu?

Phi đáp:

- Ở ngay phía trước kia, cách đây không xa.

Vân bảo My Chúc rằng:

- My Tử Trọng hãy bảo vệ Cam
phu nhân đi trước để ta đi tìm nốt My phu nhân và ấu chúa đã.

Nói xong, dẫn vài quân kị mã theo lối cũ trở lại. Đương chạy,
gặp một tướng tay cầm giáp sắt, lưng đeo gươm, dẫn vài chục quân kị tế ngựa đến.
Triệu Vân chẳng nói chẳng rằng, xốc tới đánh luôn. Mới được một hiệp, Vân đâm
chết mấy tướng ấy, quân đi theo chạy tan cả.

- Nguyên tướng đó là Hạ Hầu Ân, cận vệ đeo gươm của Tào Tháo.
Nguyên Tháo có hai thanh gươm báu, một thanh gọi là “Ỷ Thiên”, một thanh gọi là
“Thanh Công”. Thanh “Ỷ Thiên” Tháo đeo luôn bên mình, còn thanh “Thanh Công”
thì giao cho Hạ Hầu Ân. Thanh gươm này chém sắt như chém bùn, sắc bén vô cùng. Hôm
ấy Hạ Hầu Ân cậy mình có sức khỏe, đi cách xa Tào Tháo, chỉ chực xông vào đám bách
tính cướp giật, không ngờ gặp phải Triệu Vân. Vân đâm chết Ân rồi đoạt lấy
thanh gươm xem, thấy có hai chữ “Thanh Công”, mạ vàng, biết ngay là gươm báu, liền
giắt vào mình, rồi xông vào vòng vây, ngoảnh lại xem thủ hạ thì không còn ai
nữa, chỉ trơ trọi có một mình. Nhưng vẫn không chồn dạ chút nào, cứ xông xáo đi
tìm, gặp ai cũng hỏi tin tức My phu nhân và A Đẩu. Có một ngưới trỏ bảo rằng:

- Vừa thấy phu nhân ôm một đứa bé, đùi bên trái thì bị
thương, chạy không được, đến ngồi ở trong bức tường đổ trước mặt kia.

Vân vội vàng theo đến, chỉ thấy một cái nhà cháy có bức
tường đất đổ. My phu nhân ôm A Đẩu ngồi ở bờ giếng cạn khóc lóc. Vân xuống ngựa,
lạy thụp xuống đất.

Phu nhân nói:

- Thiếp được gặp tướng quân đây, thực là số mệnh A Đẩu còn
sống. Tướng quân nên thương lấy cha nó, long đong nửa đời rồi mà mới có một mụn
con. Xin tướng quân giữ gìn thế nào, cho nó còn được trông thấy mặt cha thì
thiếp chết cũng cam tâm.

Vân nói:

- Phu nhân đến nỗi này, cũng là tội Vân, xin phu nhân không
nên nói nhiều, hãy mau lên ngựa. Vân đi bộ theo, cố sức đánh để bảo vệ phu nhân
cùng A Đẩu ra khỏi vòng vây.

My phu nhân nói:

- Không xong rồi! Tướng quân không thể không có ngựa. Đứa
trẻ này hoàn toàn trông cậy vào tướng quân. Vả thiếp bị nặng, dù chết cũng
chẳng đáng tiếc; xin tướng quân hãy bế A Đẩu đi cho mau, đừng vì thiếp mà mang
lụy nữa.

Vân nói:

- Tiếng reo đã gần, quân đuổi theo sắp đến, xin mời phu nhân
mau mau lên ngựa.

My phu nhân nói:

- Quả thật thiếp không sao đi được, xin tướng quân đừng để
lỡ cả hai.

Liền đưa A Đẩu cho Triệu Vân và nói rằng:

- Tính mệnh đứa trẻ này hoàn toàn nằm trong tay tướng quân
đó.

Triệu Vân năm lần bảy lượt mời phu nhân lên ngựa nhưng phu
nhân cứ nằng nặc không nghe. Bốn bề tiếng hò reo lại nổi dậy.

Vân nói lớn lên rằng:

- Phu nhân không nghe lời tôi, quân giặc kéo đến thì làm thế
nào?

My phu nhân liền bỏ con xuống đất, rồi gieo ngay mình xuống
giếng khô mà chết.

Đời sau có thơ than rằng:

Chiến tướng toàn nhờ vào sức ngựa,

Chân không bảo vệ ấu quân ư?

Hi sinh cứu lấy dòng Lưu Bị,

Dũng cảm ai bằng nữ trượng phu!

Triệu Vân thấy phu nhân chết rồi, sợ quân Tào đến cướp mất
xác, liền đạp đổ bức tường xuống, lấp kín giếng. Rồi cởi dây lưng thắt áo giáp
ra, bỏ miếng hộ tâm kính xuống, đem A Đẩu buộc vững vào lòng, vác giáo nhảy lên
ngựa. Giữa lúc ấy, một tướng dẫn đội bộ quân đến, chính là Yến Minh, bộ tướng
của Tào Hồng. Minh vác một thanh dao ba ngạc hai lưỡi, đến đánh Triệu Vân, chưa
đầy ba hiệp, bị Vân đâm một nhát giáo chết. Vân lại đánh tan cả quân tướng, mở
một đường chạy. Đương chạy, trước mặt lại có một toán quân chặn đường, một viên
tướng đi đầu, cờ hiệu đề bốn chữ lớn “Hà Gian Trương Cáp”.

Vân chẳng đợi hỏi, khua giáo đánh liền. Được hơn mười hiệp, Vân
không dám ham đánh nữa, cướp đường mà chạy. Trương Cáp đuổi theo, Vân ra roi
chạy miết, không ngờ đánh huỵch một cái cả người lẫn ngựa sa xuống hố sâu. Trương
Cáp vội vác giáo lại đâm. Bỗng nhiên một đạo hồng quang từ dưới hố bốc lên, con
ngựa nhảy vọt lên khỏi hố.

Đời sau có thơ than rằng:

Hồng quang chói lọi cánh rồng bay,

Vó ngựa xông pha thoát khỏi vây

Bốn chục hai năm thiên tử mệnh

Tướng quân được dịp trổ thần oai.

Trương Cáp thấy thế, sợ hãi rút lui.

Triệu Vân đương tế ngựa chạy, bỗng sau lưng lại thấy có hai
tướng gọi to rằng:

- Triệu Vân đừng chạy nữa!

Trước mặt cũng lại thấy hai tướng, mỗi tướng cầm một thứ
binh khí, chặn ngang đường. Hai tướng đuổi sau lưng là Mã Diên, Trương Dĩ; hai
tướng chặn trước mặt là Tiêu Súc, Trương Nam. Bốn người cùng là hạ thủ cũ
của Viên Thiệu.

Triệu Vân cố sức đánh với bốn tướng quân Tào kéo ùa cả đến. Vân
rút gươm “Thanh Công” chém tứ tung, chém vào đâu, người và áo giáp cứ đứt phăng
phăng, máu chảy như suối. Vân đánh tan được các quân tướng, ra khỏi vòng vây.

Bấy giờ Tào Tháo đứng trên đỉnh núi Cảnh Sơn, trông thấy một
tướng đi đến đâu người giãn ra đến đấy, vội hỏi tả hữu người đó là ai?

Tào Hồng tế ngựa xuống hỏi rằng:

- Chiến tướng kia tên họ là gì?

Vân nói:

- Ta là Triệu Tử Long ở Thường Sơn.

Hồng về báo với Tào Tháo. Tháo nói:

- Thực là hổ tướng ta nên bắt sống lấy.

Liền sai ngươi tế ngựa đi truyền báo cho các nơi rằng:

- Triệu Vân đi đến đâu, không ai được bắn lén, chỉ cốt bắt
sống thôi.

Nhờ lệnh ấy, Triệu Vân thoát được nạn. Đó cũng là phúc của A
Đẩu nữa.

Trong trận này, Triệu Vân đem chúa ở trong bọc ra khỏi vòng
vây, chém gãy được hai lá cờ to, cướp được ba ngọn giáo; giáo đâm gươm chém, trước
sau cả thảy giết được hơn năm trăm danh tướng của quân Tào.

Đời sau có thơ khen rằng:

Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng

Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng?

Xưa nay cứu chúa xông trăm trận

Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long.

Khi ấy Triệu Vân ra thoát vòng vây, cách xa trận địa chính, máu
me đỏ ngòm cả áo chiến bào. Vân đương đi dưới sườn núi, lại thấy hai toán quân
tràn ra: đó là anh em Trung Tấn, Trung Thân, bộ tướng của Hạ Hầu Đôn, một người
dùng lưỡi tầm sét, một người dùng ngọn hỏa kích, quát to lên rằng:

- Triệu Vân mau mau xuống ngựa chịu trói!

Ấy mới là:

Hang hổ vừa yên cơn khốn đốn

Vực rồng lại nổi trận phong ba...

Chua biết Tử Long làm thế nào thoát thân, xem đến hồi sau
mới rõ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3