Charlie Bone (Tập 6) - Chương 04
Những kẻ lạ từ biển khơi
Có hai kẻ lạ mặt đã vào thành
phố trong buổi chiều Chủ Nhật buốt giá hôm ấy. Họ đến bằng đường sông. Bỏ lại
con thuyền neo dưới một cây cầu, họ leo bờ sông dốc lên đường cái. Họ di chuyển
bằng những cử động chao đảo kỳ lạ như thể đang giữ thăng bằng trên boong tàu.
Đi tới đâu họ kéo một màn sương mù theo đến đó: thứ sương mù giả tạo, đượm mùi
muối, làm cho chim chóc im tiếng và khiến khách qua đường bật ho vào tận trong
lồng ngực mà không cưỡng lại được.
Người nhỏ hơn trong hai người
lạ là một thằng bé chừng 11 tuổi, mắt xanh biển trông như tảng băng trôi ngầm
dưới nước. Mái tóc dài chấm vai của nó màu nâu lục, bết xỉn, hơi quăn một nếp.
Dù cao đúng độ tuổi của mình, nhưng da nó tái nhợt, môi nó hầu như không có
máu. Nó chòng chành đi qua những con đường rải sỏi, với vẻ quyết tâm, không gì
lay chuyển trên bộ mặt mỏng quẹt.
Cha thằng bé có đôi mắt lạnh
trơ giống như mắt nó, nhưng mái tóc dài của hắn ta điểm những vệt trắng. Tên
hắn là Lord Grimwald.
Khi họ đến những bậc thang
dẫn lên học viện Bloor, thằng bé dừng lại. Mắt nó dán vào những bức tường xám
đồ sộ và đảo lên hai tòa tháp ở hai bên lối vào. “Đi từ biển tới đây xa quá,”
nó nói bằng giọng du dương đến không ngờ.
“Con phải học cách sống không
biển một thời gian.” Giọng người đàn ông có tiếng dội của hang động ẩm ướt.
“Được.” Thằng bé thọc một tay
vào túi quần. Vẻ yên lòng hiện ra trên khuôn mặt nó trước sự tiếp xúc dễ chịu
với những linh vật biển. Trong túi, nó mang theo một con cá vàng, một con nhím
biển và mấy con cua vàng. Đó là quà tặng từ người mẹ quá cố, được làm từ vàng
tìm thấy trong những con tàu đắm dưới biển sâu. “Dagbert, những linh vật biển
này sẽ giúp con sống sót,” mẹ nó đã thì thầm với nó. “Nhưng con không bao giờ
được cho cha con biết về chúng.”
Khi thằng bé bắt đầu lên cầu
thang, cha nó nói, “Dagbert, nhớ lời ta dặn đấy. Phải cố tự kiềm chế.”
Dagbert dừng bước và quay lại
nhìn cha. “Ngộ nhỡ con không thể thì sao?”
“Con buộc phải. Chúng ta ở
đây giúp con.”
“Cha thì giúp. Còn con thì
học.” Dagbert quay đầu và bước lên hết cầu thang. Cặp giò dài đưa nó băng qua
mảnh sân gạch chỉ với vài sải chân liêu xiêu, tiếp theo, nó giật sợi dây xích
treo cạnh cánh cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi. Một tiếng chuông lanh lảnh cất lên
đâu đó sâu thẳm bên trong tòa nhà. Dagbert săm soi những hình người bằng đồng
khảm trên các cánh cửa.
“Họ xưa hơn cả tòa nhà.” Lord
Grimwald rà ngón tay khắp hình một người đàn ông cầm cái gì trông như một tia
chớp. “Tổ tiên của chúng ta đó, Dagbert. Nhớ đấy. Chúng ta đang nói về
Petrello, người con thứ năm của Vua Đỏ.”
Một trong hai cánh cửa loảng
xoảng mở ra và một người đàn ông xuất hiện. Đó là một gã lực lưỡng, đầu trọc
lóc, mặt vuông bạnh và mắt nhỏ rí, vô hồn. “Gì hả?” Hắn hỏi.
“Chúng tôi có hẹn,” Lord
Grimwald tuyên bố một cách ngạo mạn.
“Tên là Grimwald?” Mắt gã đàn
ông híp lại.
“Chứ mi trông chờ ai khác à?”
Gã đàn ông lẩm bẩm “Chậc!” và mở cánh cửa rộng ra hơn. “Thế thì vô đi.”
Cha và con đi theo tấm phản thịt qua một tiền sảnh dài lát đá phiến tới một
cánh cửa ăn vào một trong những bức tường ốp ván gỗ sồi. “Tháp nhạc,” kẻ dẫn
đường thông báo, xoay một cái vòng sắt. Cánh cửa bật mở và hắn dẫn hai người
khách vào một hành lang thắp sáng lù mù. Ở cuối hành lang họ đi vô một căn
phòng hình tròn rồi leo một cầu thang xoáy trôn ốc. Lên hết quãng cầu thang thứ
nhất, họ rẽ phải và bước vào một hành lang trải thảm dày.
“Văn phòng của tiến sĩ ở cửa thứ hai bên trái,” gã gác cổng đầu trọc nói.
“Đúng như ông nói, ông có hẹn. Gia đình Bloor đang ở trong đó. Cả ba người.”
“Tên gì?” Lord Grimwald hạch sách. “Ta muốn biết những chi tiết này.”
“Weedon: gác cổng, lái xe, tạp vụ, làm vườn. Vậy đủ cho ông chưa?” Hắn nện
gót trở lại cầu thang.
“Đồ láo xược.” Nước da xanh rêu của Lord Grimwald chuyển thành màu xìn xịt
của đất nung. Khi tiến sát đến cửa văn phòng, hắn ta nện thẳng lên đó vài nắm
đấm, thay vì gõ cửa lịch sự như ở trường hợp khác chắc hẳn hắn đã làm.
“Vô đi!” hai giọng vang lên cùng lúc, một trầm đục và ngạo mạn, còn giọng
kia rít lên hăm hở.
Lord Grimwald và con trai bước vào phòng. Họ thấy mình ở trong một căn
phòng u ám, xếp đầy sách, có một người đàn ông to cao đứng đằng sau bàn viết.
Cạnh bên bàn là một sinh vật già khọm ngồi trong xe lăn. Toàn thân lão quấn tọt
trong một tấm chăn ca-rô, đầu đội mũ đen hình tròn, ôm sát cái hộp sọ gồ xương.
Từ đó lòi ra mấy dải tóc trắng thòng xuống tới vai, trông tưởng sợi sáp. Đằng
sau lão, một lò sưởi đun củi cung cấp hơi ấm và chút màu sắc sinh động cho căn
phòng.
“Lord Grimwald.” Tiến sĩ Bloor bước vòng qua bàn và bắt tay khách. “Hân
hạnh gặp ông. Tôi là tiến sĩ Bloor, hiệu trưởng. Tôi tin là cuộc hành trình của
ông không được thoải mái cho lắm.”
“Chúng tôi đến bằng đường biển.”
“Không thể nào. Chúng tôi cách biển nhiều dặm mà,” sinh vật trong xe lăn
lên tiếng.
“Chúng tôi đã đi xa hết sức cho phép rồi sau đó chèo thuyền qua sông.” Lord
Grimwald bắt bàn tay như móng vuốt thò ra khỏi tấm chăn ca-rô.
“Ta là ngài Ezekiel,” lão già cốc đế nói. “Ta một trăm lẻ một tuổi. Thế
nào? Trông không tới tuổi đó, nhỉ?” Không chờ lời đáp lại, lão tiếp, “Ra đây là
thằng bé.” Lão thộp lấy tay Dagbert.
“Tên nó là Dagbert,” Lord Grimwald bảo với lão khọm. “Nó có nhiều tên khác
nữa, nhưng chúng tôi quyết định họ của nó là Endless1.”
“Bởi vì tên tôi vĩnh cửu như đại dương.” Dagbert không hề nao núng khi
những ngón tay mình bị vò trong một bàn tay xương xẩu. Thật ra nó không nhìn
lão Ezekiel. Ánh mắt nó bị hút vào một hình thù trong góc phòng, tùm hụp và sậm
tối, ngoảnh mặt khỏi những vị khách, mặc dù nó tạo ấn tượng là đang chăm chú
lắng nghe không sót lời nào. Dagbert mải chú mục tới hình thù sát khí đó đến
nỗi quên kiểm soát bản thân.
Những lưỡi lửa trong vỉ lò hiu hắt rồi tắt ngỏm. Một màn sương nhớp nháp
tràn vào phòng, và những quyển sách màu mốc giăng kín các bức tường bị tắm đẫm
trong ánh sáng biển kỳ quái.
“Ma quỷ gì thế này?” Lão Ezekiel vọt miệng, kéo tấm chăn vô sát người hơn.
“Đó là phép của nó,” Lord Grimwald thản nhiên nói. “Chẳng bao lâu nữa
Dagbert sẽ phát huy hết quyền năng, và tài phép của nó sẽ mạnh hơn ta.”
“Thật thế ư?” Tiến sĩ Bloor ước lượng thằng bé. “Một ý nghĩ chẳng thoải mái
cho ông, ông Lord Grimwald à.”
“Không đâu. Dagbert sẽ không bất tuân. Nếu thế nó sẽ chết. Nó biết rõ điều
này.” Lord Grimwald nói như thể con trai không hề có mặt trong phòng. “Ta không
muốn có con,” hắn tiếp, “Nhưng rồi thì phép lạ này xảy đến,” hắn chỉ Dagbert,
“và ta thấy mình không thể tách khỏi điều đó. Dòng họ của ta bị nguyền rủa, ông
biết đấy. Hễ khi nào một đứa con trai đạt tới tối đa công lực, nó sẽ quay qua
chống lại cha nó, rồi thì một trong hai cha con sẽ có người chết. Nhưng chúng tôi,
ta và Dagbert, đã có một hiệp ước, sẽ luôn luôn hợp tác cùng nhau. Phải không,
Dagbert?”
Dagbert gật đầu với cha một cái cụt lủn.
“Nào, Dagbert, hãy tự chủ!”
Dagbert mỉm cười. Ánh sáng biển nhạt đi, những khúc củi trong lò kêu lèo
xèo và bùng cháy trở lại.
“Thú vị.” Tiến sĩ Bloor nhíu mày với thằng bé. “Miễn là nó sử dụng tài phép
của nó đúng chỗ.”
“Hãy để mắt tới nó giùm ta,” Lord Grimwald nói, “Và ta sẽ làm những gì ông
muốn.”
“Chúng tôi sẽ xếp nó vào phòng ngủ chung của Charlie Bone,” lão Ezekiel hả hê.
“Xin mời cả hai người ngồi xuống,” tiến sĩ Bloor nói. “Dagbert, lấy mấy
chiếc ghế cạnh kệ sách lại đây.”
Thằng bé kéo hai chiếc ghế lại gần bàn trong khi tiến sĩ Bloor tiếp,
“Charlie Bone đang trở nên mạnh ngoài tầm kiểm soát. Cần phải gò cương nó lại.”
“Cháu có thể làm điều đó, thưa ngài.” Dagbert ngồi xuống ghế cạnh cha nó.
Lần đầu tiên kể từ khi những vị khách tới, cái hình thù trong bóng tối day
mặt ra ánh sáng. Lord Grimwald vô ý thở hốc lên, nhưng con trai hắn ta trố mắt
nhìn gương mặt bị tàn phá của Manfred Bloor bằng vẻ hãi hùng pha lẫn khoái chí.
Bốn vết sẹo lớn chạy từ đường ngôi tới cằm của người thanh niên. Mí mắt hắn
nhúm nhíu những mũi khâu và môi trên bị xách ngược lên thành hai phần, khiến
cho bộ mặt hắn mang vẻ quàu quạu vĩnh viễn.
“Khủng khiếp hả?” Lão Ezekiel ngó quành lại thằng chắt của mình. “Nhưng
chúng ta sẽ trả thù chúng, Manfred.”
“Sao lại ra thế?” Lord Grimwald hỏi.
“Lũ mèo,” tiến sĩ Bloor đáp.
“Mèo?” Lord Grimwald lặp lại, không tin nổi.
“Những con báo,” một giọng đùng đục từ phòng vang vọng ra.
“Chúng xé toạc cổ họng nó,” tiến sĩ Bloor hạ thấp giọng. “Mỗi tiếng nói ra
đều khiến nó đau đớn.”
“Những con báo.” Mắt Dagbert vẫn chưa rời khỏi bộ mặt bị hủy hoại.
“Những con báo của Vua Đỏ,” lại cái giọng ghê sợ đó.
Dagbert quay qua cha. “Chúng ta là con cháu của Vua Đỏ.”
Cha nó gật đầu. “Chính vì vậy chúng ta ở đây.”
“Vậy là mi biết câu chuyện về Vua Đỏ?” Lão Ezekiel lăn xe lại gần Dagbert.
“Mi biết là khi vợ ngài mất, nhà vua vào rừng than khóc chỉ có lũ báo đi cùng.
Nhưng mi có biết ngài đã biến lũ báo đó thành mèo không? Những con mèo bất tử,
lông chúng sáng như lửa, lũ mèo đó xuất hiện trong mọi thế hệ để đồng hành với
những đứa trẻ khước từ sự kiểm soát.” Giọng lão Ezekiel rú lên giận dữ. “Chính
chúng. Những con mèo đó đã hủy hoại chắt của ta.”
“Tại sao?” Dagbert hỏi, rất can đảm trước nỗi cuồng điên của lão già.
“Charlie Bone,” cái giọng cay cú trong bóng tối trả lời.
“Đúng, Charlie Bone,” tiến sĩ
Bloor thừa nhận. “Cứ cho là nó cố cứu cha nó, nhưng làm ra nông nỗi này...” ông
hiệu trưởng vung tay về phía con trai.
“Ông đã tìm ra cách trừng
phạt Charlie Bone chưa?” Lord Grimwald hỏi.
“Chúng tôi hy vọng ông có thể
giúp chúng tôi.” Tiến sĩ Bloor thở phùù ra. “Charlie có bạn bè, ông biết đấy,
đám bạn có phép hùng mạnh. Chúng nó dính nhau như hồ.”
“Hồ có thể bị loãng,” Dagbert
lẳng lặng nói.
Một bầu thinh lặng kinh ngạc
theo sau lời nhận xét này. Gia đình Bloor đánh giá Dagbert bằng mối quan tâm
mới. Nhưng ánh mắt thằng bé đang bị ghìm giữ trong đôi mắt sứt sẹo đang nhìn ra
nó từ trong bóng tối, và tất cả mọi người trong phòng đều cảm nhận mối dây vô
hình được hình thành tức tốc giữa Dagbert Endless và Manfred Bloor.
Ezekiel mỉm cười thỏa mãn.
Từng có nhiều đứa trẻ được ban phép thuật học ở học viện Bloor; không thiếu đứa
độc địa một cách đáng hài lòng, nhưng lão chắc chắn chưa đứa nào chết người như
thằng bé phương Bắc có đôi mắt băng trôi này.
Lord Grimwald đứng dậy và bắt
đầu di chuyển trong phòng bằng kiểu đi lảo đảo quái đản của mình. “Vậy là ông
sẽ giáo dục con trai ta. Thế còn ta sẽ phải làm gì cho ông?”
“À, bây giờ chúng ta đi vào
mấu chốt vấn đề,” lão Ezekiel hồ hởi. “Ông có thể điều khiển biển cả, Lord
Grimwald. Một tài phép không ai bằng, nếu ta có thể nói thế.”
Lord Grimwald nghiêng đầu
trong khi vẫn tiếp tục liêu xiêu trong phòng.
Tiến sĩ Bloor nói, “Cha của
Charlie, Lyell Bone, hiện giờ đang ở ngoài biển. Hắn đi hưởng tuần trăng mật
lần thứ hai với vợ là Amy. Và bọn chúng đã quyết định sẽ đi xem cá voi.”
“Xem cá voi!” lão Ezekiel
cười lục cục. “Bọn ngớ ngẩn. Chúng đang ở trên một con thuyền bé tẹo, sóng sẽ
đánh thuyền của chúng nghiêng ngả, đến khi một con sóng cao nhất, lớn nhất,
rộng nhất sẽ dìm con thuyền xuống đáy đại dương, cho Lyell và Amy mãi mãi nằm
lại dưới đấy. Ông nghĩ sao về điều đó, Lord Grimwald?”
“Ta có thể làm điều đó cho
ông.” Lord Grimwald dừng bước và ngồi xuống. “Nhưng cho ta hỏi, ngoài trừng
phạt Charlie Bone, còn có lý do nào khác mà ông muốn dìm chết Lyell Bone?”
“BẢN DI CHÚC!” cả tiến sĩ
Bloor và lão Ezekiel cùng đồng thanh.
“Bản di chúc?” Lord Grimwald
hỏi.
“Nó xưa, xưa lắm rồi, nhưng
vẫn còn hiệu lực,” lão Ezekiel nói. “Do ông tằng tổ của ta, Septimus Bloor, lập
năm 1865, ngay trước khi chết. Lão ấy để lại mọi thứ: nhà, vườn, lâu đài trên
bãi đổ nát, những tài sản vô giá, tất tật... tất tật cho con gái lão là
Maybelle và bọn thừa kế của mụ. Nhưng bà dì của ta, Beatrice, là một phù thủy. Beatrice
rất căm ghét Maybelle, nên đã đầu độc Maybelle và làm giả một bản di chúc khác.
Bản di chúc này, bản giả đó, để lại tất cả mọi thứ cho ông nội ta, Bertram. Ông
ấy để lại tất cả cho cha ta, sau đó cho ta. Beatrice không muốn gì cho mình cả
– bà ấy thấy Maybelle chết và thấy con cái mụ bơ vơ sống nhờ trại tế bần là mãn
nguyện rồi.”
“Thứ lỗi cho sự chậm hiểu của ta, ngài Bloor, nhưng đâu là vấn đề?” Lord
Grimwald xòe tay ra. “Dường như bản di chúc thật không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng có đấy, nó vẫn tồn tại,” lão Ezekiel thét gào. “Có kẻ đã tìm thấy
nó, đó là Rufus Raven, chắt của Maybelle. Hắn
đã trao cho vợ hắn, Ellen, ngay trong ngày cưới.”
“Trao bản di chúc?” Lord Grimwald
hỏi.
“Không, không chính xác là
bản di chúc. Ellen được trao chiếc hộp đựng bản di chúc,” tiến sĩ Bloor giải
thích. “Chìa khóa đã mất và cô ta không thể mở được chiếc hộp, nhưng Ellen được
ban phép nhận biết... đồ vật. Cô ta đoán trong hộp chứa một thứ cực kỳ quan
trọng.”
“Bọn ta tin rằng Rufus đã
trao chiếc hộp cho Lyell Bone giữ cho an toàn,” lão Ezekiel nói. “Chúng là bạn
nối khố của nhau, hắn và Rufus ấy. Bọn ta đã thương lượng, đã cố dọa nạt: ‘Đưa
cái hộp cho bọn ta thì mi sẽ được một nửa gia tài’. Dĩ nhiên bọn ta dụ thế
thôi.” Một nụ cười quỷ quyệt bệu ra khỏi cặp môi héo hắt của lão Ezekiel.
“Nhưng Rufus không chịu nhả. Vì vậy bọn ta buộc phải khử hắn với con vợ khờ
khạo của hắn. Một tai nạn thương tâm do một thợ máy xe được ta trả công bày bố.
Thằng con của chúng sống sót, nhưng nó chẳng biết tí ti gì.”
“Tên nó là Billy,” tiến sĩ
Bloor nói. “Bọn ta đang giữ nó ở đây. Nó 8 tuổi và có thể nói chuyện với thú
vật.”
“Lợi hại ghê,” Dagbert thích
thú.
Lão Ezekiel cười gằn. “Tài
phép của Billy đến giờ chả có lợi lộc gì cho nó. Như Thương Hại này là ví dụ.”
Lão bật ngón tay. “Thương Hại, lại đây.”
Một con chó già khú đế từ
dưới gầm bàn hiện ra. Mắt nó bị khuất tịt trong mớ da bèo nhèo chảy xệ, bộ vó
ngắn cũn cỡn hầu như không đỡ nổi thân hình ục ịch của nó. Môi Dagbert tớn lên
ghê tởm khi con vật ự hự và dí vòm miệng nước dãi lòng ròng vào tấm chăn của
lão Ezekiel.
“Billy gọi nó là May Phúc,”
lão Ezekiel nói. “Có trời mới biết tại sao. Con chó này hiểu được mấy lời láo
nháo của Billy nhưng lại chả hiểu những gì bọn ta nói. Bướm với lại,” lão
Ezekiel huơ đôi tay còng queo lên khỏi đầu, “với lại... tiệc sinh nhật, là tất
cả những gì nó biết. Vì vậy nó không thể mách lẻo Billy chút gì về cuộc chuyện
trò của bọn ta, hay về sự thừa kế của nó.”
“Lão chắc không đó?” Dagbert
nghi ngờ tia con chó.
“Hoàn toàn,” tiến sĩ Bloor
nói. “Những từ duy nhất con chó đó biết là tên nó: Thương Hại hoặc May Phúc.”
Điều này không hẳn đúng. May
Phúc không đủ khả năng để hiểu hết từng lời được nói ra, nhưng nó hiểu mạch cảm
xúc ở trong phòng. Nó biết bọn họ đang nói về bạn của nó, Billy, và linh cảm
hai kẻ lạ mặt kia mang đến tai họa. Họ phả mùi sương và gỗ mục. Da họ lạnh và
trơn nhẫy, và trong giọng nói của họ có âm vang tiếng sóng đập vào bờ đá. Mắt
thằng bé nhoang nhoáng như nước đóng băng, và mặt của người đàn ông kể về những
con tàu đắm và những người bị chết đuối thương tâm. May Phúc sẽ mô tả tất cả
những điều này cho Billy, sau đó Billy sẽ nói chuyện với bà bếp trưởng. Và bà
bếp trưởng sẽ cho May Phúc một cục xương to, May Phúc hy vọng vậy. Con chó già
hướng ra cửa, ngúc ngoắc cái đuôi trụi lủi và đánh một phát rắm khi nghĩ về cục
xương hằng ao ước.
Có tiếng gõ cửa lớn và, khi
cửa mở, May Phúc hấp tấp sượt qua Weedon ra hành lang.
“Bà bếp trưởng đã dọn xong
bữa tối,” Weedon thông báo một cách cục cằn.
“À!” tiến sĩ Bloor đập hai
bàn tay vào nhau. “Phòng ăn ở cuối hành lang. Đi hướng này, xin mời mọi người.”
Trong khi hai vị khách đi
theo tiến sĩ Bloor, một phụ nữ nhỏ nhắn từ phòng ăn hiện ra. Bà bếp trưởng đã
tròn trịa hơn ngày trước, mái tóc đen giờ hơi ngả xám, nhưng gương mặt hồng hào
vẫn lưu lại những nét xinh đẹp thời trẻ. Trông thấy tiến sĩ Bloor và khách, bà
đứng nép qua bên cho họ đi qua.
“Cảm ơn, bà bếp trưởng,” tiến
sĩ Bloor nói.
Bà bếp trưởng gật đầu, bỗng
bất giác rùng mình. Bà bụm chiếc khăn mùi xoa lên mặt và lật đật đi khỏi. Tim
bà đập nhanh đến nỗi May Phúc cũng nghe thấy khi bà chạy theo sau nó xuống cầu
thang.
“Ối, hãi hùng! Ối, kinh
hoàng! Đó là
hắn. Là hắn đấy. Ối, May Phúc, ta phải làm gì đây? Sao hắn lại ở đây? Sao lại
là bây giờ?”
Bà bếp trưởng bươn vào căn tin xanh da trời, với May Phúc kè sát nút. Chiếc
khăn mùi xoa vẫn bịt chặt miệng bà như thể từng luồng không khí bà hít vào đều
bị đầu độc.
“Bà bếp trưởng, chuyện gì vậy ạ?”
Bà bếp trưởng đã không thấy thằng bé tóc trắng đang ngồi bên cái bàn trong
góc.
“Ồ, Billy, cưng. Ta bàng hoàng quá.” Bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống
cạnh nó. “Có một người đàn ông ở đây. Hắn... hắn...” bà lắc đầu. “Billy, ta cần
phải nói với con. Chính hắn đã dìm chết cha mẹ ta, quét sạch nhà cửa của ta và
giết hại vị hôn phu của ta, tất cả chỉ vì ta không cưới hắn.”
Đôi mắt màu rượu vang đỏ của Billy trợn tròn kinh hãi. “Ở đây? Nhưng tại
sao?”
“Ta không lý giải được cho con hiểu. Có gì đó liên quan tới thằng bé mà hắn
mang theo, ta nghĩ vậy.” Bà bếp trưởng hỉ mũi và giắt chiếc khăn mùi xoa vào
tay áo. “Tên hắn là Grimwald. Chuyện đã bốn mươi năm rồi. Ta không biết hắn còn
nhận ra ta không. Nhưng rủi hắn nhận ra...” bà nhắm mắt lại cố gạt đi những nỗi
kinh hoàng không thể tưởng tượng được. “Nếu hắn nhận ra, ta buộc phải rời khỏi
đây.”
“Rời khỏi đây? Không thể được, bà bếp trưởng!” Billy bật dậy và vòng tay ôm
cổ bà bếp trưởng. “Con sẽ ra sao nếu không có bà? Bà không thể đi được. Bà đừng
đi. Làm ơn đừng đi, mà.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Ta không biết, Billy. Đã từng có rất nhiều người
khủng khiếp tới nơi này, nhưng hắn là kẻ kinh khủng nhất. Nếu thằng bé kia có
chút gì giống hắn, chúng ta sẽ nguy khốn, tin ta đi.”
Bất thình lình May Phúc chồm hai chân lên đùi bà bếp trưởng và ngửa đầu ra sau,
tru lên một tiếng thê lương đến nỗi Billy phải bịt tai lại.
“Nó biết,” Billy thì thầm.
“Nó muốn nói với con điều gì đó, nhưng con không chắc mình có muốn nghe không.”