Yêu nữ - Chương 68 - 69 - 70
CHƯƠNG SÁU MƯƠI TÁM
Scathach và Virginia Dare hai người quỳ hai bên, còn Aten
thu mình dưới chân John Dee. Một nhóm người bảo vệ bao quanh họ, mọi thứ vũ khí
đang có trong tay đều đoạt được từ bọn lính vừa chết.
Gần như toàn bộ đám đông còn lại đều đang giận dữ đập phá
nhà tù, xé tan tành ra từng mảnh, giải phóng tù nhân. Khói bắt đầu cuộn lên từ
những ô cửa sổ trên cao, và người ta đang đòi giật sập cả kim tự tháp. Những
người khác đã chạy đi loan báo khắp thành phố. Bất kì tên anpu hoặc tên lai tạp
nào còn sống sót đã lẩn hết vào bóng đêm.
Dee đang hấp hối. Ông ta đã
sử dụng chút luồng điện cuối cùng của mình bổ sung vào luồng điện của Virginia khi cô tạo ra
tấm khiên khổng lồ bằng không khí để bảo vệ người dân và bắn tên trở ngược vào
bọn lính canh. Lúc nãy ông đã già, giờ thì thật sự thành cổ xưa, nét mặt mất
hút trong vô số những nếp nhăn teo quắp.
Virginia
nắm tay ông trong tay mình. Bàn tay nép rúc vào lòng bàn tay cô, nhỏ nhắn, mảnh
dẻ, gần như của em bé mới sinh.
Đôi mắt Dee khẽ lắc rắc mở ra, ông săm soi nhìn vào Virginia và Scathach như
người cận thị. “Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ trút hơi thở cuối cùng khi hai
người đang nhìn xuống trên tôi như thế này.” Ông quay đầu sang Scathach. “Mặc
dù tôi luôn ngờ rằng cô sẽ là người giết chết tôi. Cô là người có nhiều cơ hội
nhất.”
“Tôi mừng là không phải mình,” Scathach nói. “Đêm nay chúng
tôi sẽ không bao giờ có thể làm gì được nếu không có ông.”
“Thật dễ chịu khi nghe cô nói thế. Nhưng không đúng đâu. Virginia đã làm hết mọi
việc đấy.”
Virginia Dare lắc đầu. “Scathach nói đúng. Tôi không đủ sức
lực để làm việc đó một mình. Và nhớ lại đi, đầu tiên đó là ý tưởng của ông mà.”
“Tôi có thể chữa lành cho ông,” Aten nói khẽ. “Tôi có thể
hồi phục sức khỏe cho ông trong một chừng mực nào đó, cả thị lực và thính lực.
Tuy nhiên, cơ thể ông sẽ luôn duy trì tình trạng giống bây giờ.”
Dee nhè nhẹ lắc đầu. “Cám
ơn ông, nhưng đừng. Tôi đã già và hôm nay được chữa lành mấy lần như vậy là đủ
rồi. Mà cũng như ông Shakespeare đã nói, giờ của tôi đã gần đến. Hãy để tôi ra
đi thanh thản. Đó là chuyến phiêu lưu vĩ đại đáng cho tôi trải nghiệm, bàn tay
thần chết giờ không còn là nỗi sợ hãi đối với tôi nữa.”
“John,” Virginia Dare dịu dàng nói, “khoan đi đã. Hãy ở lại
thêm chút nữa.”
“Không đâu, Virginia.
Cô còn phải làm rất nhiều trong những tuần những tháng sắp tới. Cô là biểu
tượng cho giống người... cho những con người ở đây,” ông tự chữa lại. “Người ta
sẽ còn nhiều yêu cầu với cô. Cô không cần bị xao nhãng vì phải chăm sóc một ông
lão già cả mỏi mệt đâu.” Ông quay sang nhìn Scathach. “Tại sao cô lại đến đây,
hả Bóng Tối?”
“Hiển nhiên là để giải cứu Aten,” cô nói nhẹ nhàng.
“Nói thật đi, cô đến đây để làm gì?” ông hỏi.
“Để nhìn thấy Ard Greimne,” cô nói rất khẽ.
“Cha cô.”
Scathach gật đầu. “Cha tôi.”
Aten lắc đầu vẻ như bối rối. “Nhưng ông ta đâu có con gái.”
“Chưa thôi. Nhưng sẽ có,” Scathach nói rất đơn giản. “Thật
ra là hai. Lớn lên, tôi và chị gái biết rất ít về cha mẹ mình. Thiên hạ cứ tô
vẽ rằng ông ấy là một quái thú tàn ác ghê gớm.”
“Ồ, ông ta là thế mà,” Aten nói. “Không sai đâu.”
“Khi nào tôi và chị gái không ngoan, mẹ tôi người ưu ái anh
trai tôi hơn và không bao giờ dành nhiều thời gian cho chúng tôi, đều bảo rằng
chúng tôi y hệt như cha. Tôi lớn lên mà cứ thắc mắc không biết tôi có phải là
một con quỷ giống ông ấy không.” Cô nhoẻn cười, nhe hàm răng ma cà rồng. “Và
khi xảy ra những sự việc này tôi mới nhận thấy bản chất tự nhiên của mình, tôi
dần tin rằng biết đâu đó là thật và tôi là một con quỷ. Ngay khi tôi đến được
đây, tại nơi này, vào lúc này, tôi biết mình cần phải gặp ông ấy, nhìn thấy ông
ấy một lần để tôi có thể biết ông ấy trông thế nào.”
“Và cô đã phát hiện ra mình đang tìm kiếm gì rồi chứ?” Aten
hỏi.
Scathach gật đầu. “Tôi đã khám phá ra rằng bây giờ và mãi
mãi về sau tôi không hề giống ông ấy chút nào. Cả chị gái tôi, Aoife, cũng
không. Và với khám phá ấy, tôi thật sự thấy khoan khoái dễ chịu.”
“Giúp tôi đứng dậy nào,” Dee chợt nói, Scathach và Virginia
nhẹ nhàng đỡ ông đứng lên. Có vết nước trên mặt Pháp sư, và khi Virginia dịu
dàng lau đi, cô hỏi, “Tại sao ông khóc? Ông tiếc cho những gì mình đã làm ư?”
“Không hẳn thế,” ông nói. “Tôi tiếc cho những gì mình không
làm hơn.” Ông nhìn Scathach. “Có tin gì về nhà Flamel không?”
Cô lắc đầu. “Tôi không biết họ đang ở đâu hoặc đã xảy ra
chuyện gì.”
“Nếu cô có gặp lại được họ, xin nói với họ... nói với họ
rằng hôm nay, ở đây, tôi đã làm gì.”
“Tôi sẽ nói.”
“Tôi muốn họ biết rằng, cuối cùng, tôi đã làm điều đúng đắn.
Có thể, chỉ có thể thôi, nó sẽ bù đắp được phần nào cho những việc tôi đã làm.”
Ông giơ bàn tay ra và nhìn vào đó. Da ông bắt đầu phân rã thành bột, bay đi
từng vệt sắc mịn.
“Ông đã giúp giải phóng một dân tộc và cứu nguy một thế giới,”
Virginia nói. “Việc đó cũng đáng kể rồi.”
“Cám ơn cô.” Dee ngẩng đầu lần cuối, nhìn Aten. “Hôm nay thế
giới của ông kết thúc.”
“Danu Talis chấm dứt... Thế giới hiện đại khởi đầu.” Aten
nhìn ra xa, mọi người dõi theo ánh mắt ông ta hướng tới Kim tự tháp Thái Dương.
“Bây giờ thì phụ thuộc vào cặp song sinh.”
“Josh sẽ làm điều đúng đắn,” John Dee nói. “Cậu ấy có trái
tim tuyệt vời.”
Và những gì còn lại của Pháp sư cuộn đi, hòa vào cơn gió.
CHƯƠNG SÁU MƯƠI CHÍN
Lích kích, loẹt quẹt, rột rẹt trên mặt đá, con Karkinos màu
da cam sáng chói tiến đến gần.
Con cua thật khổng lồ.
“Ối trời,” Billy thì thào. “Tôi không bao giờ ăn chân cua
nữa đâu. Mà ông biết đấy, tôi thích chân cua chấm chút chanh trộn bơ lắm.”
“Chúng ta đang gặp đủ thứ rắc rối ở đây,” Diều Hâu Đen nói, “mà
tất cả những gì anh nghĩ đến lại là cái dạ dày của mình.”
“Ừ thì, tôi đang đói mà. Vả lại, chỉ rắc rối nếu nó bắt được
chúng ta thôi,” anh chàng nói thêm.
“Chúng ta thì khó mà bắt được lắm,” Diều Hâu Đen nhất trí.
Hai anh chàng bất tử người Mỹ đứng trong ngưỡng cửa trống
của khu nhà Cai tù, quan sát con cua khổng lồ nỗ lực tiến tới. “Nó cao đến ba mét
ấy nhỉ?” Billy nói.
“Hơn ba mét rưỡi ấy chứ, có thể là bốn mét rưỡi.”
“Không vững vàng lắm trên mấy cái chân kia,” Billy nhận xét.
Diều Hâu Đen gật gù. “Tôi cũng để ý thấy thế.”
Tám cái chân đang bước của con cua kết thúc tại một điểm
nhọn hoắt, có đeo giáp. Chúng khua lóc cóc, cạo kèn kẹt dọc theo mặt đá trơn
trợt, tìm lỗ cắm vào để tạo lực bẩy. Hai con mắt gắn phía trước màu xám ngoét
to cỡ bằng cái đĩa, ghép với hai con ngươi đen thui nằm theo phương thẳng đứng,
vỏ con cua u phồng, lốm đốm những que nhọn phân bố không theo quy luật nào.
“Anh đoán xem hai cái càng đó bao lớn?” Billy thắc mắc.
“Tôi nghĩ hai cái chân càng đâu chừng phải đến sáu mét,”
Diều Hâu Đen nói.
“Chân gì?”
“Chân càng. Hai cái càng đằng trước gọi là chân càng.”
“Bộ ông đi luyện thi đố vui trên truyền hình hay gì gì cỡ đó
hả? Đừng có nói thế nhé?”
“Mọi người ai chả biết thứ đó được gọi là chân càng,” Diều
Hâu Đen nói.
“Tôi không biết. Khi vào tiệm, tôi mua một đồng càng cua,
chứ không mua một bảng chân càng.” Chàng ta im bặt, quan sát con cua khổng lồ
lích ca lích kích tiến tới gần hơn, cẩn thận đặt từng cái chân xuống, thận
trọng giữ thăng bằng. “Nó nhắc tôi nhớ đến một con ngựa non mới sinh,” anh ta
nói khẽ, “cố học cách đặt chân bước đi.”
“Một khi tới được chỗ đất phẳng phiu này, nó sẽ vững vàng
hơn,” người đàn ông da màu đồng nói. “Nó sẽ cắm chắc thân mình xuống, rồi bật
cả cái nhà này đi bằng mấy cái càng khổng lồ kia. Ai biết được, có thể cắm
thẳng vào trong và kéo giật chúng ta luôn thì sao.” Anh ta cười toe. “Hết tất
cả mọi cái càng anh từng ăn, hãy cố sao cho đừng kết thúc bằng cách đến lượt
mình bị một cái ăn lại nhé.”
“Anh đâu cần phải nói nghe hân hoan thế chứ.” Billy nhìn con
quỷ đang tiến dần đến. “Theo tôi có vẻ như tụi mình nên cố ngăn không cho nó
tới được chỗ bằng phẳng này thì đúng hơn.” Anh ta nhìn Diều Hâu Đen, lúc này
đang gật đầu rất nhẹ. “Cho tôi một phút,” Billy nói. Anh ta băng qua tới bên
Mars và khẽ nói với ông gì đó, rồi đi tới chỗ nhà Flamel và Machiavelli vẫn còn
đang đổ luồng điện của họ vào quả banh đất đồ sộ. Nỗ lực ấy khiến hết thảy họ
đều già đi trông thấy, đặc biệt là Nicholas và Perenelle. Mái tóc Nữ Phù Thủy
gần như bạc trắng, gân trên lưng bàn tay nổi rõ.
Ba người bất tử đứng quanh Areop Enap còn đang ngủ quay ra
nhìn Billy, anh chàng chĩa ngón tay cái về phía cửa. “Con cua to tướng gần như
đã ở ngay đây rồi. Tôi và Diều Hâu Đen định ra ngoài xem mình có thể trì hoãn
được chút nào không, để các người có thêm thời gian làm những việc phải làm.”
Anh ta nhấc hai đầu giáo ra khỏi dây thắt lưng, đặt chúng lên đầu khối đất bùn
khô cứng. “Tôi nghĩ các người có thể giữ thứ này cho tôi chỉ để phòng khi...
ừm, chỉ để phòng khi,” anh ta nói tới đó rồi thôi.
“Đừng đi, Billy,” Machiavelli khẽ nói.
Anh chàng người Mỹ lắc đầu. “Chúng tôi phải đi thôi. Tôi và
Diều Hâu Đen có thể đứng trong cửa, chờ con quỷ sứ đó đi thẳng đến giật phắt
chúng ta ra, mà cũng có thể ra ngoài xem chúng tôi liệu có tạo được trò tinh
quái nào không chứ.”
“Anh không biết còn gì khác ngoài đó đâu,” Perenelle cảnh
báo.
“Thật ra cũng chẳng còn nhiều mấy. Odin và Hel đã xử gần như
hết bọn anpu còn gì, mấy con kì lân chưa chết thì chạy mất hút ngoài màn đêm
kia rồi. Bất kể thứ gì ngoài đó mà có chút lí trí thì phải biết lo mà tránh xa
chúng ta ra thôi. Ngoại trừ con cua to tướng kia và ông anh bộ xương khô của
Quetzalcoatl. Lão ta có vẻ cáu tiết lắm rồi đó.” Anh chàng lấy khớp đốt ngón
tay gõ gõ vào lớp bùn cứng. “Mọi người đánh thức Lão Nhện thế nào rồi?”
“Chúng tôi đang tiến hành đây,” Machiavelli nói.
“Người ta thường nói với tôi như thế khi không có tiến triển
gì hết.” Billy nói.
Perenelle mỉm cười. “May mắn nhé, Billy.”
“Đừng làm gì ngốc nghếch đấy,” Machiavelli khuyên.
Billy phất tay chào và hối hả quay ra cửa. “Tôi đang nghĩ...”
anh ta nói với Diều Hâu Đen, “cái chúng ta thật sự cần là một ít dây thừng để
làm thòng lọng.”
Diều Hâu Đen giơ cao cái rìu tomahawk. Khúc cán dài bọc
trong dải da đã bị đổi màu vì mồ hôi. Một nửa miếng da bị tróc để lòi phần gỗ
trắng bên dưới. “Bắt đầu bện mấy cái này vào nhau đi,” anh vừa nói, vừa gỡ
những gì còn lại và trao cho Billy mấy sợi dây da màu nâu nâu.
“Anh luôn luôn có chuẩn bị. Lẽ ra anh phải là một nam Hướng
đạo sinh mới phải,” Billy lẩm bẩm.
“Hồi đó có lúc tôi là Trưởng Hướng đạo sinh chứ bộ. Một đội
ngon lành nhất ở miền Tây à nghen.”
“Anh chưa bao giờ kể cho tôi nghe,” Billy vừa nói, vừa nhanh
tay thắt mấy mẩu dây vào với nhau.
“Anh có bao giờ hỏi đâu.”
“Tôi nghĩ mình chắc hẳn sẽ làm một Hướng đạo sinh giỏi.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Diều Hâu Đen lột dải da cuối cùng, trao
cho Billy. Người sống ngoài vòng pháp luật thêm cọng dây đó vào cuối đoạn dây
vừa thắt, rồi xoắn sợi dây làm thành một vòng thòng lọng rất chuyên nghiệp.
“Y như những ngày xưa,” Billy cười toe.
“Việc này chẳng có gì giống ngày xưa hết,” Diều Hâu Đen nói.
Anh ta xoay tít chiếc rìu tomahawk trong tay mình. “Lần cuối cùng tụi mình đi
bắt cua là khi nào nhỉ?”
Perenelle, Nicholas, và Machiavelli dõi mắt nhìn theo hai
anh chàng người Mỹ lỉnh vào màn đêm. Tất cả họ đều biết cơ hội gặp lại một
trong hai người này mà còn sống là điều rất mong manh. Perenelle quay lại với
trái banh bùn, nhấc lên hai đầu ngọn giáo Billy để lại.
Hai đầu ngọn giáo hình chiếc lá nhọn lún sâu vào lớp bùn.
Perenelle lấy một cái lên, ấn đầu ngón tay vào lưỡi giáo. Bà
tưởng sẽ thấy nó xì xì nóng lên, nhưng chạm vào lại nghe mát lạnh. “Nicholas,”
bà thều thào.
Nhà Giả Kim vồ mũi giáo kia lên, phóng phập vào lớp bùn khô
cứng. Mũi giáo đâm thủng dễ dàng. Sau đó, cầm chặt nó bằng cả hai tay, ông rạch
thành một hình chữ nhật hẹp. Perenelle moi mấy ngón tay vào cạnh rìa của lớp
bùn khô cứng, kéo một mảng lớn ra khỏi trái banh. Nó rơi xuống sàn vỡ làm hai.
Machiavelli chụp lấy đầu mũi giáo thứ hai, bắt đầu cắt một
lỗ khác trong vỏ bùn cứng. “Kêu Billy và Diều Hâu Đen vào đây với,” ông gọi với
tới Mars. “Chúng tôi cần mấy cái đầu giáo của họ.”
“Quá trễ,” Elder nói. “Họ đã đi bắt Karkinos mất rồi.”
CHƯƠNG BẢY MƯƠI
Sophie và Josh bò toài theo sau Tsagaglalal lên mấy bậc
thang của Kim tự tháp Thái Dương.
Bầy quỷ sứ đuổi theo.
Lũ anpu chân chó dễ dàng chạy vụt lên sườn bên của kim tự
tháp, nhưng bọn đầu bò, gấu, và lợn đực di chuyển chậm chạp hơn, thấy khó khăn
khi phải trèo lên những bậc thang cao và hẹp, quá cao đến nỗi gần như trèo
thang cây. Lũ lai tạp đầu mèo kêu rít ré, phun phì phì lon ton nhảy bằng cả bốn
chân, nảy hết bậc này tới bậc khác. Chúng là thứ đầu tiên đuổi kịp cặp song
sinh.
Nhiều mũi tên bắt đầu rơi trên mặt đá, và một quả banh
tonbogiri bay vút từ nấc thang tới bên bàn tay Sophie, bắn những vết lốm đốm
màu vàng kim văng tung tóe lên bộ giáp của cô bé.
“Còn bao nhiêu bậc nữa mới tới đỉnh?” Josh hỏi.
“Nhiều,” Tsagaglalal nói gọn lỏn. “Nhiều lắm. Chúng ta chưa
bao giờ đi hết.”
“Mà tại sao mình lại phải lên tới đỉnh?” Sophie hỏi gặng. Cô
bé liều lĩnh liếc nhanh xuống và ngay lập tức ước gì mình đừng làm thế. Hàng
trăm sinh vật có thể đến cả ngàn đang chạy như bay lên bậc thang sau lưng họ.
Cô bé nhìn thấy chuyển động nơi khóe mắt và đoán chắc có thêm nhiều nữa đang
phóng lên phía sườn bên kia. Lũ quái thú sẽ đuổi kịp họ từ khắp mọi hướng và họ
sẽ bị áp đảo mất thôi.
“Năng lượng,” Tsagaglalal nói đơn giản. Bà chờ cho hai đứa
nhỏ theo kịp mình. “Kim tự tháp này không chỉ là một tòa nhà. Hãy tưởng tượng
đây là một khối pin khổng lồ, được xây dựng bằng cách dùng những vật liệu rất
đặc biệt với những chi tiết kĩ thuật và những góc toán học rất chính xác. Một
thời, vài Elder Vĩ đại đã kiểm soát toàn bộ thế giới từ trên đỉnh kim tự tháp
này. Họ đã tạo ra các Vương quốc Bóng Tối đầu tiên. Khi một hành tinh đểu cáng
nào đe dọa đâm sầm vào một trong số các vương quốc này, họ đã sử dụng năng
lượng nơi đây bắt lấy nó và đặt nó vào quỹ đạo như mặt trăng vậy. Nhưng dần dà
qua thời gian, các kĩ năng này đã bị lãng quên, và các Elder Vĩ đại không còn
nữa, chết, biến đổi, hoặc đi đến các Vương quốc Bóng Tối họ đã tạo dựng. Song
năng lượng thì vẫn còn. Từ trên đỉnh kim tự tháp này các con có thể kiểm soát
toàn thế giới.”
“Chậm thôi,” Josh hổn hển. Cậu đang thở rất khó, trái tim
nện thùm thụp liên tục trong lồng ngực, giộng cả vào bộ giáp.
“Josh,” Sophie nói. “Chúng ta không có thời gian đâu. Bọn
chúng tới sát rồi kìa.”
“Cứ đi đi,” cậu nói hổn hển. “Em sẽ ngăn chúng lại.” Cậu đưa
một bàn tay lên, luồng điện của cậu bắt đầu dâng lên thành làn khói màu vàng
kim.
“Đừng!” Tsagaglalal la lên. “Con không nên phí phạm như thế.
Con sẽ cần từng gam sức mạnh một cho... cho sau này.”
“Nhưng nếu không dùng luồng điện của mình, chúng ta sẽ chẳng
bao giờ đến được cái sau này ấy,” Josh nói vội.
Mặt đất lại rung chuyển, các chấn động khua lách cách xuyên
suốt từng bậc thang. Hai trong số bọn sinh vật kêu thét, gầm rống khi trượt
chân ngã, rơi tòm xuống bậc thang, giộng ầm ầm vào hàng chục tên khác, kéo cả
chùm lăn xuống theo.
“Nếu một người trong chúng ta sử dụng luồng điện thì sao?”
cậu hỏi.
Tsagaglalal chăm chú nhìn bọn anpu đang nhanh chóng tiến gần
đến. Lúc này đã có đến hàng ngàn con quái thú chạy lên kim tự tháp. “Con, Josh.
Chỉ mình con thôi. Sophie, con kềm giữ năng lượng của con lại nhé.”
Sophie há miệng định cãi, nhưng Tsagaglalal đã lắc đầu, lắc
lắc ngón trỏ với cô bé, và cô bé chợt phì cười. “Trong mười ngàn năm nữa, dì
vẫn lắc ngón tay như thế sao.”
Josh quay người, ngồi trên bậc thang, hai bàn tay mang găng
đặt lên chỏm xương đầu gối.
“Josh, thật sự chị không nghĩ đây là lúc…,” Sophie mới nói
tới đó.
Josh huýt sáo. Năm nốt nhạc réo rắt thuần khiết và rõ ràng
ngân nga trong bầu không khí. Hết thảy bọn anpu đều vểnh tai lên.
“Josh?” Sophie hỏi.
“Chị biết dấu xăm mồi lửa của chị chứ?” cậu nói lớn đáp lại.
Cô bé gật đầu. Một dải băng đen dày quấn quanh cổ tay phải
của cô bé như chiếc vòng. Mặt dưới là một vòng tròn vo màu vàng kim với chấm đỏ
ở giữa. Bất cứ khi nào cần gọi pháp thuật Lửa, đơn giản cô bé chỉ cần ấn vào
cái chấm đó.
“Em đã có một mồi lửa huýt sáo.” Cậu huýt sáo năm nốt đó lại
lần nữa.
“Đó là giai điệu trong...” Giai điệu rất quen, song cô bé
không tài nào nhớ ra tên bộ phim đó.
“Close encounters of the third kind,” cậu nói, rồi huýt sáo
lần nữa. “Virginia Dare đã dạy em Pháp thuật Không khí hồi tụi em ở trên
Alcatraz.” Cậu im bặt và cau mày. “Đó là hôm nay hay hôm qua?”
Một sinh vật đầu mèo gầm gừ phóng một lần mười bậc tới Josh.
Thanh kopesh của Tsagaglalal phạt ngang không khí, đủ gần để cắt gọn bộ ria của
nó. Nó cố vặn người nhảy lên nhưng đụng phải bậc thang và trượt ngã nhào.
“Josh, nếu em định làm gì...” Sophie giục.
“Ngồi cạnh em đi,” cậu nói. “Dì nữa, dì Agnes...
Tsagaglalal.”
“Giờ đâu phải lúc để ngồi,” Tsagaglalal phản đối.
“Tin con đi,” cậu nói, kèm theo một nụ cười toe rất tinh
quái.
Sophie ngồi bên phải Josh trên nấc thang, trong khi
Tsagaglalal bực bội ngồi bên trái. “Thậm chí cả lũ quái thú còn thấy ngạc nhiên,”
Tsagaglalal làu bàu.
“Móc cánh tay qua cánh tay em và bám chặt lấy nhé.”
Josh lại huýt sáo.
Tsagaglalal càu nhàu khi mặt đất lại chuyển động. Con động
đất càng lúc càng thường xuyên hơn. Rồi bà nhận ra đó không phải là mặt đá bên dưới
người mình đang chuyển động. Thậm chí bà không còn ngồi trên thềm đá nữa, mà
đang từ từ dâng lên trên không trung.
Josh cười toe toét. “Đây không phải là điều tuyệt vời nhất
sao?” cậu hỏi. “Virginia đã chỉ em làm đấy.” Cậu duỗi thẳng cẳng chân, để chúng
lủng lẳng, Sophie làm theo. “Chắc chắn là nhịp nhàng hơn đi bộ.” Ba người chầm
chậm vừa xoay tròn vừa trồi lên trên.
“Chị muốn đứng trên không khí,” Sophie vừa nói, vừa dợm đứng
lên.
“Không khí đã rắn lại rồi, cũng một nguyên tắc như tàu đệm
không khí vậy đó.” Cậu quay sang Tsagaglalal. “Dì nghĩ sao?”
Bà mỉm cười. “Lẽ ra con nên nhìn thấy vẻ mặt của bọn anpu.”
Họ dâng lên càng lúc càng nhanh, lúc này không khí chảy
quanh họ rất lạnh, các bậc thang mờ mờ bên dưới. Thành phố nhỏ lại, nhiều chiến
trường thu nhỏ chỉ còn là những đốm lửa.
Khi họ lên gần tới đỉnh, Sophie cúi xuống nhìn vào khoảng
trống giữa hai bàn chân mình, chợt thấy có gì trồi lên mấy bậc thang và nhận ra
đó là lũ anpu và các giống lai tạp khác. “Bọn chúng vẫn đang lên theo. Có đến
cả ngàn tên.”
“Không ai bảo thì bọn chúng chẳng bao giờ chịu ngừng,”
Tsagaglalal nói. “Mà cả Bastet lẫn Anubis sẽ không bảo đâu. Bọn họ cần hai đứa
con phải chết kia mà.”
Sophie ngước nhìn lên. “Chúng ta sắp đến chưa ta... Ồ, có
người trên mấy bậc thang phía trên kìa,” cô bé hoảng hốt nói. “Trông như...” Cô
bé im bặt, bất chợt chữ nghĩa đi đâu hết trơn.
Trong bộ giáp đỏ bóng loáng, Prometheus ngồi trên bậc thang
gần đỉnh kim tự tháp, hai cánh tay tựa lên đùi, mấy ngón tay chắp vào nhau. “A,
mọi người đây rồi,” ông nói vui vẻ. “Chúng tôi đang chờ mọi người.”
“Chúng tôi?” Josh hỏi, giọng yếu ót. Cậu bắt đầu mệt lả.
“Tại sao mọi người không đánh một vòng quanh kim tự tháp
luôn đi,” Prometheus nhẹ nhàng gợi ý.
Bằng nỗ lực ý chí ghê gớm, Josh đưa đệm không khí quay ngược
chiều kim đồng hồ quanh các mặt kim tự tháp, thấy Saint-Germain đang nằm dài
trên một bậc thang, mải tập trung vào cuốn sổ tay. Ông vẫy tay với họ. “Một
buổi chiều tuyệt vời, phải không nào?” ông gọi lớn. “Nhìn hoàng hôn đi, cực kì
du dương đấy.”
Palamedes và William Shakespeare đang ở mặt phía bắc của kim
tự tháp vĩ đại. Đại Thi Hào nhìn Hiệp sĩ Saracen và chỉ tay vào ba người lơ
lửng chậm chậm đi qua. “Nào, đó là cảnh không phải ngày nào anh cũng nhìn thấy
đâu.”
Và cuối cùng họ trôi qua mặt phía đông, lúc này đã chìm
trong bóng tối. Joan Arc đang ngồi xếp bằng trên một nấc thang, nhắm mắt, ngửa
hai lòng bàn tay đặt trên đùi. Cô mở mắt, mỉm cười tươi rói và nghiêng nghiêng
đầu. “Bộ giáp đẹp quá há, Sophie.” Cô vừa nói, vừa với thẳng cánh tay, bầu
không khí chợt đầy mùi hoa oải hương khi bộ giáp bạc trượt ngang qua người cô.
“Họ đang làm gì ở đây thế?” Sophie hỏi.
“Họ ở đây để canh giữ và bảo vệ hai con đó,” Tsagaglalal
giải thích khi họ trồi lên cao hơn, gần hơn tới đỉnh kim tự tháp. “Họ sẽ ngăn
bọn anpu không cho lại gần càng lâu càng tốt. Nhưng không ngăn cản quá lâu được
đâu.”
“Dì đang nói về chuyện gì vậy?” Josh gặng hỏi. Cậu bắt đầu
run vì ráng sức giữ cho tấm đệm khí kết nối với nhau. “Chúng ta gần tới chưa?
Con không thể giữ cái này lâu hơn nữa đâu.”
“Đưa chúng ta tấp vào bậc thang đi,” Tsagaglalal ra lệnh. “Ngay
đi!”
Họ vừa tới được bậc thang bằng đá thì Josh gục xuống. Sophie
và Tsagaglalal đỡ cậu loạng choạng bước lên năm sáu bậc cuối cùng dẫn tới đỉnh
kim tự tháp...
... Vừa đúng lúc chiếc vimana pha lê của Isis và Osiris tách
khỏi bầu trời, đáp xuống trên phần mái bằng.
“Vậy là đã đến hồi kết,” Tsagaglalal lầm bầm. “Bây giờ số
phận của thế giới, thế giới này và tất cả mọi thế giới khác cùng các Vương quốc
Bóng Tối là do hai con quyết định.” Thò tay vào bộ giáp, bà rút ra một mảnh
ngọc lục bảo hình chữ nhật, ấn vào tay Josh. “Nhưng trước khi ra quyết định
cuối cùng, có lẽ con nên đọc cái này đã.”
“Cái gì vậy ạ?”
“Đó là món quà riêng của Pháp sư Abraham. Đây là thông điệp
cuối cùng ông ấy đã viết,” bà nói. Bà dừng lại nơi mép bậc thang, ngoái lại cầm
tay hai đứa nhỏ trong tay mình. Bà mỉm cười buồn bã, đôi mắt xám mở to sáng
long lanh trong ánh nắng đang nhạt dần. “Ta hi vọng gặp lại các con trong thời kì
mười ngàn năm tới. Rất vui khi được là dì Agnes già cả của hai con, và hãy biết
cho rằng bà ấy yêu thương các con rất nhiều.” Rồi bà hôn lên má từng đứa và
quay đi, xuống đứng cạnh Prometheus, bỏ lại cặp song sinh một mình trên mái nhà
với Isis và Osiris.
Josh nhìn Sophie. “Chỉ còn em với chị,” cậu nói.
“Lúc nào mà chả thế.”
Sau đó, cùng nhau, hai chị em bước tới chiếc vimana.