Tín đồ shopping lấy chồng - Chương 16
Chương 16
Khi về đến nhà, tôi bình tĩnh
đến ngạc nhiên. Thực ra, tôi gần như cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi đã thử mọi thứ - và
giờ tôi cùng đường rồi. Tôi chẳng thể làm gì nữa ngoài việc tự thú mọi chuyện
với Luke. Anh sẽ bị sốc. Cả tức giận nữa. Nhưng ít nhất thì anh sẽ biết.
Tôi ghé qua một quán cà phê
trên đường về, uống cà phê và suy nghĩ thật thận trọng xem sẽ nói cho anh biết
như thế nào. Bởi vì, mọi người biết đấy, tất cả đều nằm ở phần trình bày. Khi
tổng thổng sắp tăng thuế, ông ta không nói, “Tôi sẽ tăng thuế.” Ông ta nói “Mọi
công dân Mỹ đều biết giá trị của giáo dục.” Thế là tôi đã viết ra cả một bài
diễn văn cho bản thân, hơi giống bài nói ở Quốc hội, và tôi học thuộc lòng từng
câu từng chữ, với những khoảng ngắt giọng dành chỗ cho những thán từ của Luke.
(Hoặc vỗ tay. Dù điều đó chắc là không thể xảy ra.) Chỉ cần tôi bám sát bài
viết, và không ai hỏi về chính sách đối với Uganda thì chúng ra sẽ ổn cả thôi.
Chân tôi hơi run khi trèo lên
cầu thang về căn hộ chúng tôi, dù Luke vẫn chưa đi làm về; tôi vẫn có thời gian
để chuẩn bị. Nhưng khi tôi mở cửa, choáng váng, anh đã ở đó, đang ngồi ở bàn
với một tập giấy tờ.
Được rồi Becky, lên nào. Thưa
các quý ông quý bà thành viên Quốc Hội. Bốn điểm và những thứ mà tôi quên mất
tiêu rồi. Tôi để cánh cửa tự đóng sau lưng mình, lấy tờ giấy ra và hít một hơi
thật sâu.
“Luke,” tôi bắt đầu với giọng
thật trưởng thành và trang nghiêm. “Em có vài điều muốn nói với anh về đám
cưới. Đó là một vấn đề khá nghiêm trọng, mà không có giải pháp nào dễ dàng cả.
Nếu có một giải pháp, thì đó là giải pháp chỉ có thể thực hiện được với sự giúp
đỡ của anh. Đó là lí do bây giờ em sẽ nói cho anh biết điều này - và mong anh
lắng nghe bằng một suy nghĩ rộng lượng.”
Cho tới giờ mọi chuyện đều
ổn. Tôi thực sự khá tự hào về điều đó. Phần “lắng nghe với suy nghĩ rộng lượng”
thì đặc biệt sáng tạo, vì nó có nghĩa anh sẽ không thể quát mắng tôi.
“Để giải thích rõ tình thế
khó khăn hiện nay của mình,” tôi tiếp tục, “em sẽ phải đưa anh trở về quá khứ,
về lúc khởi điểm mọi chuyện. Nói vậy em không có ý là thuở hồng hoang hình
thành trái đất đâu nhé. Thậm chí không phải là vụ nổ Big Bang. Mà là bữa tiệc
trà ở Claridges.”
Tôi ngập ngừng - nhưng Luke
vẫn yên lặng lắng nghe. Có lẽ chuyện này sẽ ổn thôi.
“Chính nơi đó, ở Claridges,
rắc rối của em bắt đầu. Em đã được đề nghị một nhiệm vụ bất khả thi. Em là vị
thần Hy Lạp buộc phải lựa chọn giữa 3 quả táo. Ngoại trừ việc chỉ có hai - và
chúng không phải là táo.” Tôi dừng lại đầy ẩn ý. “Chúng là hai đám cưới.”
Cuối cùng thì Luke cũng quay
lại trên chiếc ghế. Mắt anh đỏ ngầu, và trên khuôn mặt anh có vẻ lạ lùng. Khi
anh nhìn tôi chằm chằm, tôi thấy sợ.
“Becky,” anh nói như thể với
một nỗ lực lớn.
“Vâng?” tôi hít không khí
vào.
“Em có nghĩ rằng mẹ anh yêu
anh không?”
“Gì cơ?” tôi bối rối nói.
“Nói thật cho anh biết. Em có
nghĩ là mẹ yêu anh không?”
Khoan đã. Anh ấy có nghe được
từ nào mà tôi nói nãy giờ không đấy? “Đương nhiên là có!” tôi nói. “Và nói về
các bà mẹ, thì xét theo một chiều hướng nào đó, nguồn gốc vấn đề của em nằm
ở...”
“Anh là một thằng ngốc.” Luke
cầm kính lên và tợp một ngụm cái thứ trông có vẻ giống whisky. “Bà chỉ lợi dụng
anh thôi, đúng không?”
Tôi bối rối nhìn anh - rồi để
ý thấy chai rượu vơi một nửa trên bàn. Anh đã ngồi đây bao lâu rồi thế này? Tôi
nhìn khuôn mặt anh lần nữa, căng ra và tổn thương, như đang gặm nhấm một số
điều mà tôi có thể đã nói về Elinor.
“Đương nhiên là bà yêu anh!”
tôi bỏ bài diễn thuyết của mình xuống và đến bên anh. “Em chắc là có. Ý em là,
anh có thể thấy được mà, từ cái cách bà... ừm...” tôi ấp úng yếu ớt.
Tôi nên nói gì đây? Cái cách
mà bà ta dùng nhân viên của anh mà không hề báo đáp hay cảm ơn. Cái cách bà ta
đâm sau lưng anh rồi biến đi Thụy Sĩ?
“Chuyện gì... sao anh lại...”
Tôi ngập ngừng hỏi. “Đã có chuyện gì xảy ra sao?”
“Anh thật ngu ngốc.” Anh lắc
đầu. “Từ trước đó anh đã nảy ra vài điều.” Anh hít thở thật sâu. “Anh đã tới
căn hộ của bà để lấy vài giấy tờ cho Quỹ. Và anh chẳng biết vì sao - có thể là
sau khi xem những bức ảnh Suze và Ernie lúc sáng.” Anh ngước lên. “Nhưng anh
thấy mình lục khắp phòng làm việc của bà để tìm kiếm những bức ảnh cũ. Ảnh anh
hồi bé. Ảnh hai mẹ con. Anh thực sự không biết mình đang tìm kiếm cái gì nữa.
Bất cứ thứ gì, anh đoán vậy.”
“Anh có tìm thấy gì không?”
Luke ra hiệu về phía những
giấy tờ bày bừa trên bàn và tôi lúng túng liếc nhìn ngay lập tức. “Chúng là gì
vậy?”
“Là thư. Do bố anh gửi. Những
lá thư ông ấy viết cho mẹ sau khi họ chia tay, 15, 20 năm trước, cầu xin bà hãy
gặp anh.” Giọng anh vô cảm còn tôi thì thận trọng nhìn anh.
“Nghĩa là sao?”
“Ý anh muốn nói là ông đã van
xin bà tới thăm anh,” giọng Luke đều đều. “Ông đề nghị sẽ thanh toán hóa đơn
khách sạn. Ông đề nghị là sẽ đi cùng anh. Ông yêu cầu hết lần này tới lần
khác... và anh đã không biết điều đó.” Anh với tay lấy vài tờ rồi đưa cho tôi. “Đấy,
em tự đọc đi.”
Cố giấu sự choáng váng, tôi
bắt đầu đọc lướt chung, nhập vào đầu vài cụm từ chỗ này chỗ kia.
Luke muốn gặp mẹ nó đến tuyệt vọng... không thể hiểu
nổi thái độ của cô...
“Những lá thư này giải thích
rất nhiều điều. Hóa ra người chồng mới của bà không hề ngăn bà đưa anh đi cùng
họ. Ông ấy có vẻ là một người rất tử tế. Ồng ấy đồng tình với bố anh rằng anh
nên đến chơi. Nhưng bà ấy không thích.” Anh nhún vai. “Mà anh nghĩ sao bà ấy
lại phải muốn nhỉ?”
...một cậu bé thông minh đáng yêu... đang bỏ lỡ một cơ
hội tuyệt vời...
“Luke, chuyện này... thật
kinh khủng,” tôi nói không thỏa đáng lắm.
“Điều tồi tệ nhất là, anh đã
luôn trút hết lên bố mẹ anh. Khi anh còn nhỏ. Anh đã luôn đổ lỗi cho họ.”
Tôi đột nhiên thấy cảnh
Annabel và khuôn mặt nồng hậu, ân cần của bà; gương mặt của bố Luke khi ông
đang bí mật viết những lá thư này - rồi cảm thấy tức điên lên với Elinor. Bà ta
không xứng đáng với Luke. Bà ta không xứng đáng với bất cứ gia đình nào.
Im lặng bao trùm, chỉ còn
tiếng mưa rơi đều đều bên ngoài. Tôi giơ tay ra và siết chặt bàn tay Luke, cố
gắng truyền nhiều tình yêu và sự ấm áp nhất mà tôi có thể.
“Luke, em chắc là bố mẹ anh
hiểu. Và...” tôi nuốt tất cả những gì mà mình thực sự muốn nói về Elinor. “Và
em chắc là Elinor thực sự muốn anh ở đó. Ý em là, có thể hồi đó việc này rất
khó khăn với bà, hoặc... hoặc là có thể do bà phải đi xa nhiều...”
“Có điều này anh chưa bao giờ
kể cho em,” Luke ngắt lời. “Hay bất cứ ai.” Anh ngẩng đầu lên. “Anh đã tới gặp
mẹ anh hồi 14 tuổi.”
“Cái gì?” tôi sửng sốt nhìn
anh. “Nhưng em nghĩ anh đã nói là anh chưa bao giờ...”
“Đó là chuyến tham quan New
York của trường. Anh đã phải chiến đấu ác liệt để được đi. Mẹ và bố không đồng
ý cho đi, hiển nhiên rồi, nhưng cuối cùng họ đành chịu thua. Họ bảo là mẹ anh
đang đi vắng, nếu không thì đương nhiên là bà rất muốn gặp anh.”
Luke với tay lấy chai whisky
và rót thêm một li nữa. “Anh không kìm được, anh phải cố gặp bà. Nhỡ họ nhầm.”
Anh nhìn về phía trước, di ngón tay quanh miệng li. “Thế là... trước khi chuyến
đi kết thúc, bọn anh được tự do một ngày. Những người khác đi đến Empire State
Building. Nhưng anh lén trốn đi. Anh có địa chỉ của bà, rồi anh chỉ đến và ngồi
ngoài tòa nhà của bà. Đó không phải là tòa nhà bà đang ở bây giờ, là tòa nhà
khác, xa trên Đại lộ Công viên. Anh ngồi trên bậc thềm, còn dân tình cứ nhìn
anh khi họ đi ngang qua, nhưng anh không thèm quan tâm.”
Anh nhấp thêm một ngụm rượu
và tôi nhìn anh, cứng đờ. Tôi không dám gây ra tiếng động nào. Tôi gần như là không
dám thở.
“Sau đó, khoảng 12 giờ, một
người phụ nữ đi ra. Bà ấy có mái tóc đen, khoác chiếc áo khoác tuyệt đẹp. Anh
biết mặt bà qua ảnh. Đó là mẹ anh.” Anh im lặng trong giây lát. “Anh... anh
đứng dậy. Bà nhìn lên và thấy anh. Bà nhìn anh chưa tới năm giây. Rồi bà quay
đi. Như thể bà không nhìn thấy anh vậy. Bà lên taxi và đi khỏi, tất cả là vậy.”
Anh nhắm nghiền mắt. “Anh thậm chí còn không có cơ hội bước tới một bước.”
“Anh... anh đã làm gì?” tôi
ngập ngừng hỏi.
“Anh rời khỏi đó. Rồi anh
lang thang khắp thành phố. Và anh tự thuyết phục bản thân là bà đã không nhận
ra anh. Đó là những gì anh tự nhủ. Rằng bà không biết là trông anh thế nào;
rằng có thể là bà không biết đó là anh.”
“Đúng rồi, có thể đúng là
thế!” tôi hăng hái nói. “Làm sao mà bà có thể...”
Tôi im bặt khi anh với tay
lấy một lá thư gửi bằng máy bay màu xanh đã bạc màu có ghim thứ gì đó trên đầu.
“Đây là lá thư bố anh viết
cho bà báo rằng anh sắp tới,” anh nói. Anh cầm tờ giấy lên và tôi choáng váng. “Và
đây là anh.”
Tôi nhìn vào mắt của một cậu
thiếu niên. Một Luke mười bốn tuổi. Cậu bé mặc đồng phục học sinh, anh có kiểu
tóc thật kinh khủng; thực ra thì khó mà nhận ra anh được. Nhưng đó là đôi mắt
đen huyền của anh, nhìn ra thế giới với ánh mắt vừa cương quyết vừa hi vọng.
Tôi chẳng thể nói gì. Khi tôi
thấy khuôn mặt ngượng nghịu, rụt rè của anh, tôi muốn khóc.
“Em đã hoàn toàn đúng, Becky.
Anh đến New York để gây ấn tượng với mẹ anh. Anh muốn mẹ đứng sững trên phố,
quay lại và... và nhìn chằm chằm... và tự hào...”
“Bà tự hào về anh mà!”
“Không hề!” Anh khẽ cười nửa
miệng. “Anh nên bỏ cuộc thì hơn.”
“Không!” tôi nói, hơi trễ một
chút. Tôi giơ tay ra cầm lấy tay của Luke, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Hoàn
toàn được nuông chiều và che chở nếu so sánh. Tôi lớn lên, ý thức được rằng bố
mẹ coi tôi là thứ tuyệt vời nhất thế giới; biết rằng họ yêu tôi, và luôn luôn
yêu tôi dù tôi có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa.
“Anh xin lỗi,” cuối cùng Luke
nói. “Anh đã nói quá nhiều về chuyện này rồi. Hãy quên nó đi. Em muốn nói gì
vậy?”
“Không có gì,” tôi nói ngay. “Chuyện
dó... không có vấn đề gì. Để sau cũng được.”
Bỗng nhiên đám cưới dường như
cách xa hàng triệu dặm. Tôi vo viên tờ giấy ghi chép của mình rồi ném vào thùng
rác. Rồi tôi ngó quanh căn phòng bừa bộn. Những lá thư tung tóe khắp bàn, quà
cưới chất đống trong góc phòng, đồ đạc khắp phòng. Thật không thể nào thoát
được cuộc sống của chính mình khi sống trong một căn hộ ở Manhattan.
“Mình ra ngoài ăn đi,” tôi
đứng bật dậy nói. “Rồi xem phim hay đại loại thế.”
“Anh không đói,” Luke nói.
“Điều đó không quan trọng.
Chỉ là nơi này quá... chật chội.” Tôi túm tay Luke và kéo mạnh. “Nào, ra khỏi
đây đi. Và quên hết mọi chuyện. Tất cả.”
Chúng tôi ra khỏi nhà và đi
bộ, tay trong tay, tới rạp chiếu phim, mê mải xem một bộ phim về mafia. Xem
xong, chúng tôi đi bộ qua vài lô nhà đến một nhà hàng nhỏ ấm cúng mà chúng tôi
biết, gọi rượu vang đỏ và món risotto.
Chúng tôi không một lần nhắc
đến Elinor. Thay vào đó, chúng tôi nói về thời thơ ấu của Luke ở Devon. Anh kể
cho tôi nghe về những chuyến picnic ở bãi biển, một căn nhà trên cây mà bố đã
làm cho anh trong vườn, và về cô em gái cùng cha khác mẹ Zoe cùng lũ bạn luôn
bám đuôi khiến anh phát rồ lên. Rồi anh kể về Annabel. Về việc bà đã đối với
anh tuyệt vời như thế nào, bà đã tử tế với mọi người ra sao; và anh chưa bao
giờ cảm thấy bà yêu anh ít hơn, dù chỉ là một chút, so với Zoe, con đẻ của bà.
Rồi chúng tôi ngập ngừng nói
về những điều mà chúng tôi chưa bao giờ đụng chạm đến. Như có con chẳng hạn.
Luke muốn có ba đứa. Tôi muốn... ừm, sau khi đã chứng kiến cảnh Suze trở dạ,
tôi không nghĩ là tôi muốn có đứa nào, nhưng tôi không nói vậy. Tôi gật đầu khi
anh nói “hoặc có thể là bốn” và tự hỏi liệu tôi có thể vờ như có thai rồi bí
mật nhận con nuôi không nhỉ.
Đến cuối buổi tối, tôi nghĩ
Luke đã dễ chịu hơn rất nhiều. Chúng tôi đi bộ về nhà, lăn ra giường và cùng
chìm vào giấc ngủ luôn. Giữa đêm khi tôi nửa tỉnh nửa mơ và tôi nghĩ đã nhìn
thấy Luke đứng bên cửa sổ nhìn ra màn đêm. Nhưng tôi lại ngủ đi mất trước khi
chắc chắn điều đó.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy,
miệng khô khốc và đầu nhức như búa bổ. Luke đã dậy và tôi nghe thấy tiếng lách
cách trong bếp, vậy có thể là anh đang chuẩn bị cho tôi một bữa sáng thật ngon
lành. Tôi có thể uống chút cà phê, và có lẽ cả một ít bánh mì. Và rồi...
Bụng tôi thót lên vì căng
thẳng. Tôi phải ngậm đắng nuốt cay. Tôi phải nói cho anh biết về hai đám cưới.
Đêm qua là đêm qua. Đương
nhiên là lúc đó tôi không thể làm được gì. Nhưng giờ là buổi sáng và tôi không
thể chờ được nữa. Tôi biết đây là thời điểm kinh khủng, tôi biết hiện nay đó là
điều cuối cùng anh muốn nghe. Nhưng tôi phải cho anh biết.
Tôi nghe thấy tiếng anh đi
trên hành lang, và tôi hít một hơi thật sâu, cố thật bình tĩnh.
“Nghe này Luke,” tôi nói khi
cánh cửa bật mở. “Em biết đây là thời điểm tồi tệ. Nhưng em rất cần nói chuyện với
anh. Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
“Chuyện gì vậy?” Robyn nói
khi bước vào phòng. “Tôi hi vọng là không liên quan đến đám cưới!” Chị ta mặc
một bộ đồ màu xanh lơ, đi đôi giày da trơn và bưng khay đồ ăn sáng. “Đây rồi,
cưng. Chút cà phê sẽ khiến cưng tỉnh ngủ!”
Tôi đang mơ à? Robyn đang làm
gì trong phòng ngủ của tôi vậy?
“Tôi đi lấy bánh nướng,” chị
ta vui vẻ nói rồi biến mất khỏi căn phòng. Tôi yếu ớt ngả người ra gối, đầu óc
tôi căng ra, cố hiểu xem chị ta làm gì ở đây.
Đột nhiên bộ phim về mafia
tối qua lại hiện ra trong đầu tôi và tôi thấy hoảng sợ. Ôi Chúa ơi. Rõ ràng quá
mà.
Chị ta đã phát hiện ra đám
cưới kia - và thế là chị ta đến để giết tôi.
Robyn lại đi qua cửa, với một
giỏ bánh nướng xốp, và mỉm cười khi đặt nó xuống. Tôi nhìn lại, chết khiếp vì
sợ hãi.
“Robyn!” tôi khàn khàn giọng
nói. “Tôi không nghĩ lại gặp cô. Chẳng phải là hơi... sớm sao?”
“Mỗi khi liên quan đến khách
hàng, thì không có gì gọi là sớm quá cả,” Robyn nháy mắt nói. “Tôi luôn sẵn
sàng phục vụ, suốt ngày đêm.” Chị ta ngồi xuống chiếc ghế bành cạnh giường và
rót cho tôi một tách cà phê.
“Nhưng làm thế nào mà cô vào
đây được?”
“Tôi cạy khóa. Đùa thôi! Luke
cho tôi vào khi anh đi ra!”
Tôi ở một mình trong căn hộ
với chị ta. Chị ta đã bẫy được tôi rồi.
“Luke đã đi làm rồi sao?”
“Tôi không chắc có phải anh
ấy đi làm hay không.” Robyn ngập ngừng tư lự. “Trông giống như anh ấy đi tập
chạy bộ hơn.”
“Chạy bộ?”
Luke không chạy bộ.
“Nào, uống cà phê đi - rồi
tôi sẽ cho cô xem thứ mà cô mong đợi. Thứ mà tất cả chúng ta mong đợi.” Chị ta
nhìn đồng hồ. “Nên nhớ là tôi sẽ phải đi trong 20 phút nữa!”
Tôi đờ đẫn nhìn chị ta.
“Becky, cô ổn chứ? Cô nhớ là
chúng ta có cuộc hẹn đấy chứ?”
Một kí ức mập mờ bắt đầu lọt
vào tâm trí tôi, như cái bóng qua màn vải mỏng. Robyn. Bữa sáng gặp mặt. Ồ đúng
rồi.
Sao tôi lại đồng ý gặp trong
lúc ăn sáng nhỉ?
“Đương nhiên là tôi nhớ chứ!”
cuối cùng tôi thốt lên. “Tôi chỉ hơi... cô biết đấy, choáng váng thôi.”
“Cô không cần phải giải thích
đâu!” Robyn vui vẻ nói. “Cô cần nước cam tươi. Và một bữa sáng ngon lành. Tôi
nói điều này với tất cả các cô dâu: cô phải chăm sóc bản thân! Chẳng ích gì khi
bỏ đói bản thân rồi lăn ra ngất xỉu ngay trên bệ thờ cả. Ăn miếng bánh nướng
đi.” Chị ta lục lọi trong túi. “Nhìn này! Cuối cùng chúng ta cũng đã có nó!”
Tôi ngây ra nhìn cái mảnh màu
bạc lung linh mà chị ta đang cầm.
“Cái gì vậy?”
“Nó là vải cho đệm gối!”
Robyn nói. “Được đặc biệt nhập về từ Trung Quốc đấy. Thứ mà vì nó, chúng tôi
luôn gặp rắc rối với hải quan! Cô không thể không nhớ, đúng không nào?”
“Ồ! Không, đương nhiên là không
rồi!” tôi vội vàng nói. “Vâng, trông nó... đáng yêu ghê. Rất đẹp.”
“Nào Becky, còn có chuyện này
nữa,” Robyn nói. Chị ta bỏ mảnh vải sang một bên và ngước lên với vẻ mặt nghiêm
nghị. “Sự thật là... tôi đang rất lo lắng.”
Tôi cảm thấy một cơn căng
thẳng mới và nhấp một ngụm cà phê để che giấu. “Thật sao Chuyện gì... chuyện gì
khiến cô lo lắng vậy?
“Chúng tôi không hề nhận được
bất cứ hồi âm nào từ phía các vị khách mời bên Anh của cô cả. Không thấy lạ
sao?”
Trong một thoáng, tôi không
cất nổi lời.
“Ờ... phải,” cuối cùng tôi
nói. “Lạ thật.”
“Ngoài bố mẹ Luke đã nhận lời
trước đó. Đương nhiên họ nằm trong danh sách khách mời của Elinor nên họ đã
nhận được giấy mời sớm hơn một chút, nhưng dù vậy thì...” Chị ta lấy tách cà
phê của tôi và uống một ngụm. “Ừm. Ngon quá. Dù là tôi tự nói vậy thôi! Nào,
giờ thì tôi không muốn buộc tội bất cứ ai là cư xử tệ cả. Nhưng chúng ta cần
phải bắt đầu thu về một vài con số rồi. Vậy nếu tôi gọi vài cuộc điện thoại
lịch thiệp sang Anh thì sẽ không sao chứ? Tôi đã có tất cả các số điện thoại
trong cơ sở dữ liệu rồi...”
“Không!” tôi nói, đột nhiên
bật dậy. “Đừng gọi ai cả! Ý tôi là... cô sẽ nhận được hồi âm, tôi hứa đấy.”
“Chỉ là rất lạ thôi!” Robyn
trầm ngâm. “Chẳng nhận được tin tức gì... Tất cả bọn họ đều đã nhận được giấy
mời, đúng không?”
“Đương nhiên là vậy! Tôi dám
chắc đó chỉ là do sơ suất thôi.” Tôi bắt đầu vần vò khăn trải giường. “Cô sẽ
nhận được hồi âm trong vòng một tuần thôi. Tôi có thể... bảo đảm như vậy.”
“Chà, tất nhiên tôi hi vọng
vậy! Vì sắp hết thời gian! Chúng ta chỉ còn bốn tuần nữa thôi!”
“Tôi biết!” tôi thốt lên the
thé và uống thêm một ngụm cà phê, thực lòng ao ước nó là vodka.
Bốn tuần.
Ôi Chúa ơi.
“Tôi rót thêm cho cưng nhé?”
Robyn đứng dậy - rồi lại cúi xuống. “Cái gì đây?” chị ta nói với vẻ thích thú
và nhặt một tờ giấy nằm trên sàn nhà. “Cái này có phải là thực đơn không?”
Tôi ngước lên nhìn - và tim
tôi như ngừng đập. Chị ta cầm một trong số những tờ fax của mẹ.
Thực đơn của đám cưới kia.
Mọi thứ đều đang ở đó, ngay
dưới gầm giường. Nếu chị ta bắt đầu nhìn...
“Không có gì!” tôi nói, giật
lấy tờ giấy từ tay chị ta. “Chỉ là... ừm... thực đơn cho một... một bữa tiệc...”
“Cô sẽ tổ chức một bữa tiệc?”
“Chúng tôi... đang dự tính
như vậy.”
“Phải rồi, nếu cô cần giúp đỡ
lên kế hoạch tổ chức nó thì cứ nói nhé!” Robyn hạ giọng đầy tin tưởng. “Và lời
khuyên nho nhỏ nhé?” Chị ta chỉ vào thực đơn của mẹ. “Tôi nghĩ cô sẽ thấy những
món bánh và nem cuộn là hơi lỗi thời rồi.”
“Đúng vậy. Ơ... Cảm ơn.”
Tôi phải tống cổ người phụ nữ
này ra khỏi đây. Ngay lập tức. Trước khi chị ta tìm ra cái gì khác nữa.
Bất thình lình, tôi quăng đám
chăn ra đằng sau và nhảy ra khỏi giường.
“Robyn, thực ra thì tôi vẫn
cảm thấy không được khỏe lắm. Chúng ta có thể... có thể bàn những việc còn lại
vào một lúc khác không?”
“Tôi hiểu. Chị ta vỗ vai tôi.
“Tôi sẽ để cô yên tĩnh nghỉ ngơi.”
“Nhân tiện,” tôi bỗng nói khi
chúng tôi ra đến cửa. “Tôi chỉ thắc mắc... Cô biết điều khoản về tiền bồi
thường trong bản hợp đồng của cô chứ?”
“Có!” Robyn tươi cười với
tôi.
“Hỏi vì tò mò thôi.” Tôi cười
nhỏ. “Cô đã bao giờ thực sự lấy khoản đó chưa?”
“Ồ, chỉ có vài lần thôi!”
Robyn nói. Chị ta ngừng lại để hồi tưởng. “Một cô nàng ngu xuẩn đã cố chạy trốn
đến Phần Lan... nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn tìm thấy cô ta... Gặp lại cô sau
nhé, Becky!”
“Hẹn gặp lại!” Tôi nói với
cái giọng hớn hở phù hợp với giọng chị ta, đóng cửa lại, tim đập thình thịch.
Chị ta sẽ tóm được mình. Chỉ
còn là vấn đề thời gian thôi.
***
Ngay khi tới nơi làm việc,
tôi gọi điện đến văn phòng của Luke và gặp trợ lí của anh, Julia.
“Chào,” tôi nói, “tôi nói
chuyện với Luke được không?”
“Luke đã gọi điện báo ốm,”
Julia nói với giọng ngạc nhiên. “Cô không biết sao?”
Tôi kinh ngạc sững nhìn cái
ống nghe. Luke bị ốm? Ồ! Có lẽ dư âm cơn say rượu của anh thậm chí còn kinh
hoàng hơn của tôi.
Chết tiệt, suýt nữa là tôi
làm lộ tẩy cả.
“Ồ phải!” tôi vội nói. “Đúng
vậy! Giờ cô nhắc đến việc đó... Đương nhiên là tôi biết! Anh ấy bị sốt quá
chừng. Và... bụng... bụng anh ấy. Tôi chợt quên mất, vậy thôi.”
“Vâng, cho chúng tôi gửi lời
hỏi thăm anh ấy nhé.”
“Vâng!”
Khi đặt điện thoại xuống, tôi
nhận ra là mình đã phản ứng hơi quá khích. Ý tôi là, đâu có ai định sa thải
Luke đâu? Dù sao thì đó cũng là công ti của anh ấy mà.
Thực ra tôi hài lòng vì anh
đã nghỉ một hôm.
Nhưng dù vậy. Luke đang bị
ốm. Anh chẳng bao giờ ốm.
Và anh cũng không bao giờ tập
chạy bộ. Chuyện gì thế nhỉ?
***
Lẽ ra tôi sẽ đi uống cùng
Erin sau giờ làm, nhưng thay vào đó, tôi viện cớ để không đi và vội về nhà. Khi
bước vào, căn hộ lờ mờ tối, và trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ Luke chưa về.
Nhưng rồi tôi nhìn thấy anh đang ngồi buồn bã ở bàn, anh mặc quần thể thao và
áo gió.
Rốt cuộc thì chúng tôi cũng
có một buổi tối cho riêng mình. Được rồi, chính là lúc này đây. Cuối cùng tôi
cũng sẽ nói cho anh biết mọi chuyện.
“Chào anh,” tôi nói và thả
mình xuống chiếc ghế bên cạnh anh. “Anh thấy khá hơn rồi chứ? Em gọi tới chỗ
làm của anh và họ nói anh bị ốm.”
Im lặng.
“Anh chẳng có tâm trí nào để
đi làm,” cuối cùng Luke cũng nói.
“Anh đã làm gì suốt cả ngày
nay? Có thực là anh đi chạy bộ không?”
“Anh đi dạo khá xa,” Luke
nói. “Và anh đã suy nghĩ rất nhiều.”
“Về... mẹ anh?” Tôi ngập
ngừng nói.
“Phải, về mẹ anh. Về rất
nhiều thứ khác nữa.” Anh quay lại và tôi ngạc nhiên vì anh chưa cạo râu. Ừm.
Thực ra tôi khá thích anh không cạo râu.
“Nhưng anh ổn chứ?”
“Đó là vấn đề,” anh nói sau
một thoáng ngập ngừng. “Anh có ổn không?”
“Hẳn là tối qua anh đã uống
hơi nhiều quá ấy mà.” Tôi vừa cởi áo khoác, vừa sắp xếp những lời sẽ nói. “Luke,
nghe này. Có chuyện này rất quan trọng mà em cần phải nói với anh. Em đã trì
hoãn vấn đề này mấy tuần nay rồi...”
“Becky, em đã bao giờ nghĩ
đến những đường phố đan chéo nhau ở Manhattan chưa?” Luke ngắt lời tôi. “Thực
sự nghĩ về nó?”
“Ờ... chưa,” tôi nói, do dự
một lúc. “Em không thể nói là đã từng nghĩ về nó.”
“Nó giống như... một ẩn dụ
cho cuộc đời. Em nghĩ mình tự do đi bất cứ đâu cũng được. Nhưng thực ra...” Anh
dùng ngón tay vẽ một đường thẳng trên mặt bàn. “Em hoàn toàn bị điều khiển: lên
hoặc xuống. Trái hoặc phải... Không có lựa chọn nào khác.”
“Đúng vậy,” tôi nói sau một
thoáng ngập ngừng. “Tất nhiên rồi. Chuyện là thế này, Luke...”
“Cuộc đời nên là một không
gian mở, Becky ạ. Em nên được bước đi trên bất cứ ngả đường nào em chọn.”
“Em nghĩ...”
“Hôm nay anh đã đi bộ từ đầu
này đến đầu kia hòn đảo này.”
“Thật sao?” Tôi nhìn anh chăm
chú. “Ơ... tại sao?”
“Anh ngước lên nhìn ở một
điểm, và anh bị vây quanh bởi những cao ốc văn phòng. Ánh mặt trời phản chiếu
từ những cánh cửa sổ kính dày. Phản chiếu ngược xuôi.”
“Nghe có vẻ đẹp nhỉ,” tôi nói
không thỏa đáng lắm.
“Em có hiểu những gì anh đang
nói không đấy?” anh nhìn tôi chằm chằm, và đột nhiên tôi nhận thấy quầng thâm
dưới mắt anh. Chúa ơi, trông anh mệt mỏi quá. “Ánh sáng vào Manhattan... và bị
giam hãm. Bị giam hãm trong chính thế giới của nó, phản chiếu ngược xuôi mà
không có lối thoát.”
“Chà... đúng thế, em nghĩ
vậy. Trừ việc... đôi khi trời mưa, đúng không?”
“Và con người cũng thế.”
“Vậy sao?”
“Đây là thế giới mà hiện nay
chúng ta đang sống. Tự suy tư. Tự ám ảnh. Cơ bản là vô nghĩa. Nhìn anh chàng
trong bệnh viện xem. 33 tuổi - và anh ta bị đau tim. Nếu anh ta chết thì sao.
Liệu anh ta đã có một cuộc đời mãn nguyện?”
“Ơ...
“Anh đã có một cuộc sống mãn
nguyện chưa? Hãy nói thật cho anh biết, Becky. Nhìn anh và nói đi.”
“Chà... ừm... đương nhiên là
có rồi!”
“Nhảm nhí” Anh lấy một tờ báo
của Công ti Truyền thông Brandon mới phát hành và nhìn chằm chằm vào đó. “Cuộc
đời anh chính là như thế này đây. Những mẩu tin tức vô nghĩa.” Trước sự choáng
váng của tôi, anh bắt đầu xé tan nó ra. “Đám giấy lộn vô nghĩa chết tiệt.”
Đột nhiên tôi nhận thấy anh
đang xé cả tờ kê khai tài khoản ngân hàng chung của chúng tôi nữa.
“Luke! Đó là tờ kê khai ngân
hàng của chúng ta!”
“Thì sao nào? Nó quan trọng
lắm sao? Chỉ là một vài con số vô nghĩa. Ai thèm quan tâm cơ chứ?”
“Nhưng... nhưng...”
Ở đây có gì đó không ổn.
“Có chút gì quan trọng không
cơ chứ?” Anh tung vụn giấy lên sàn nhà, và tôi buộc lòng phải cúi xuống nhặt
lên. “Becky, em thật có lí.”
“Em có lí?” Tôi cảnh giác
nói.
Có cái gì đó rất không ổn ở
đây.
“Tất cả chúng ta đều bị vật
chất chi phối quá mức. Ám ảnh về sự thành công, về tiền, về việc cố gây ấn
tượng với những người mà chẳng bao giờ bị ấn tượng, dù em có làm gì...” Đột
nhiên anh ngừng lại, thở thật mạnh. “Chính tính nhân văn mới là quan trọng.
Chúng ta nên hiểu biết về những người vô gia cư. Chúng ta nên hiểu biết những
người nông dân Bolivia.”
“À... vâng,” tôi nói sau một
thoáng ngập ngừng. “Tuy nhiên...”
“Cả ngày nay trong đầu anh
luôn quay cuồng suy nghĩ về điều em đã nói trước đây. Và giờ thì anh không thể
quên được.”
“Đó là gì?” Tôi lo lắng nói.
“Em đã nói...” anh ngập
ngừng, dường như đang cố tìm từ ngữ thích hợp. “Em đã nói rằng chúng ta chỉ ở
trên hành tinh này trong một khoảng thời gian quá ngắn. Và đến cuối cùng, điều
gì là quan trọng hơn? Biết rằng một vài con số vô nghĩa cân bằng - hay biết
rằng em là con người mà em mong muốn trở thành?”
Tôi há hốc mồm nhìn anh. “Nhưng...
nhưng đó chỉ là những điều em bịa ra thôi! Em đã không nghiêm túc...”
“Anh không phải là con người
mà anh muốn trở thành, Becky ạ. Anh không nghĩ mình đã có lúc nào là con người
anh mong muốn. Anh đã bị che mắt. Anh đã bị ám ảnh bởi tất cả những thứ sai
lầm...”
“Thôi nào!” tôi vừa nói vừa
siết chặt tay anh đầy khích lệ. “Anh là Luke Brandon! Anh thành công, đẹp trai
và giàu có...”
“Anh không phải là con người
mà lẽ ra anh nên làm. Vấn đề là, bây giờ anh không biết con người đó là như thế
nào. Anh không biết mình muốn trở thành ai... muốn làm gì với cuộc đời mình...
nên đi con đường nào...” anh đổ sụp xuống phía trước và lấy tay ôm đầu. “Becky,
anh cần có câu trả lời.”
Tôi không tin nổi điều này. Ở
tuổi 34, Luke đang bị khủng hoảng trung niên.
NGÂN HÀNG SECOND UNION
53 PHỐ WALL
NEWYORK, NY 10005
Ngày 7 tháng Mười Một, năm
2001
Cô Rebecca Bloomwood
Căn hộ B 251 Phố 11 Tây
New York, NY 10014
Cô Bloomwood thân mến,
Cảm ơn cô vì lá thư vào ngày
21 tháng Năm. Tôi rất vui là cô đã bắt đầu coi tôi là một người bạn tốt, và để
trả lời cho câu hỏi của cô, sinh nhật của tôi là 31 tháng Mười.
Tôi cũng nghĩ rằng đám cưới
là sự vụ rất tốn kém. Tuy nhiên, rất tiếc là tôi không thể nâng hạn mức thấu
chi của cô từ 5.000 đô la lên 105.000 đô la vào thời điểm này được.
Thay vào đó, tôi có thể sẵn
sàng giúp cô tăng hạn mức lên 6.000 đô la, và tôi hi vọng điều này sẽ giúp được
cho cô phần nào.
Trân trọng,
Walt Pitman
Giám đốc Dịch vụ Khách hàng.
Số 49 đường Drakeford
Potters Bar
Hertfordshire
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông Malcolm Bloomwood cảm ơn
bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và
Luke tại Plaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng không may là ông ấy phải từ chối vì ông
bị gãy chân.
The Oaks
Số 41 Đường Elton
Oxshott, Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Martin Webster cảm ơn
bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và
Luke tại Plaze ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối, vì
cả hai đều bị viêm tuyến bạch cầu.
Số 9 đường Foxtrot
Reigate
Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Tom Webster cảm ơn bà
Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và Luke
tại Plaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối vì con chó
cưng của họ vừa qua đời.