Nhật ký - Chương 02 phần 2
Cô mở ví và nhìn lướt qua cho đến khi thấy một mảnh báo gập lại. Sau khi nhấc lên từ từ, gần như sùng kính, cẩn thận để khỏi làm rách nó, cô mở ra và nhìn chằm chằm vào nó một lúc. “Đây là lý do,” cuối cùng cô cũng tự nhủ, “đây là lý do.”
Noah tỉnh dậy lúc năm giờ và như thường lệ chèo thuyền đôc mộc khoảng một tiếng ngược lạch Brices. Khi chèo xong, anh thay một bộ đồ làm việc, nướng lại mấy chiếc bánh quy từ hôm trước, vớ lấy ít táo và xử lý sạch bữa sáng với hai tách cà phê. Anh lại tiếp tục sửa hàng rào, chỉnh lại hầu hết những cột cần sửa. Lúc ấy đang là thu muộn, nhưng nhiệt độ lên đến hơn 26 độ C, và đến giờ ăn trưa anh đã nóng, mệt và rất mừng được nghỉ giải lao.
Anh ăn trưa ở con lạch vì muốn ngắm lũ cá đối nhảy lên. Anh thích nhìn chúng nhảy lên ba hay bốn lần xuyên qua không khí trước khi lại biến mất vào dòng nước lợ. Vì lý do nào đó, lúc nào anh cũng vui với thực tế là bản năng của chúng đã không thay đổi suốt hàng nghìn, có khi hàng chục nghìn năm.
Đôi khi anh cũng tự hỏi không biết trong một thời gian dài đến thế thì bản năng của loài người có thay đổi không, và luôn kết luận rằng không. Ít ra là những gì cơ bản, chủ yếu nhất thì không. Theo như anh thấy, con người lúc nào cũng hung hăng, luôn cố gắng để thống trị, cố gắng kiểm soát thế giới cùng tất cả mọi thứ trong đó. Chiến tranh ở châu Âu và Nhật Bản đã chứng tỏ điều đó.
Sau ba giờ anh ngừng làm việc và đi bộ đến một căn nhà kho nhỏ gần vụng thuyền của mình. Anh đi vào, tìm chiến cần câu, cầm theo một ít mồi và một ít con dế còn sống trong tay rồi đi ra vụng thuyền, mắc mồi vào rồi quăng cần.
Việc câu cá luôn khiến anh suy ngẫm về đời mình, lần này cũng vậy. Sau khi mẹ qua đời, anh còn nhớ mình đã sống trong nhiều gia đình khác nhau suốt một thời gian dài, và chẳng hiểu sao, khi còn nhỏ anh rất hay nói lắp nên thường bị trêu chọc. Anh ngày càng ít nói, lên năm tuổi thì anh chẳng nói gì nữa. Khi bắt đầu đi học, các thầy cô giáo lại nghĩ anh hơi chậm hiểu và gợi ý rằng nên cho anh nghỉ học ở trường.
Tuy nhiên cha anh đã xử lý vấn đề theo cách riêng của ông. Ông vẫn để anh đi học và sau đó dẫn anh đến kho chứa gỗ nơi ông làm việc, để kéo và xếp gỗ. “Thật hay vì chúng ta có thời gian bên nhau,” ông nói khi họ cùng làm việc, “giống như ông nội và bố hồi trước.”
Trong khoảng thời gian bên anh, cha anh thường kể chuyện về chim muông hoặc kể những câu chuyện và truyền thuyết phổ biến ở vùng Bắc Carolina. Chỉ trong vài tháng Noah bắt đầu nói trở lại, mặc dù không lưu loát lắm, và cha anh đã quyết định dạy anh đọc qua mấy cuốn thơ của ông. “Con cứ học cách đọc to cái này lên, rồi con sẽ có thể nói được bất kỳ cái gì con muốn.” Cha anh đã lại đúng: đến năm sau đó, Noah hết nói lắp. Nhưng ngày nào anh cũng đi đến kho gỗ đơn giản vì cha anh ở đó, và vào các buổi chiều anh sẽ đọc to các tác phẩm của Whitman và Tennyson trong khi cha anh đu đưa ghế ở bên. Kể từ đó anh thường xuyên đọc thơ.
Khi anh lớn hơn một chút, phần lớn các kỳ nghỉ cuối tuần và nghỉ lễ anh đều ở một mình. Anh khám phá rừng Croatan trong chiếc thuyền đầu tiên của mình, đi theo lạch Brices suốt hai mươi dặm cho đến khi không thể đi xa hơn rồi đi bộ những dặm còn lại để đến bờ biển. Việc cắm trại và thám hiểm đã trở thành niềm ham mê của anh, và anh dành hàng tiếng đồng hồ trong rừng, ngồi dưới những cây sồi già đen bóng, lặng lẽ huýt sáo rồi chơi ghi ta cho bọn hải ly, ngỗng trời và diệc hoang xanh nghe. Các nhà thơ đều biết rằng việc sống cách biệt trong thiên nhiên, xa con người và những gì con người tạo ra là tốt cho tâm hồn, và anh lúc nào cũng rất giống các nhà thơ.
Mặc dù ít nói, những năm tháng khiêng gỗ ở kho gỗ đã khiến anh chơi thể thao rất giỏi, và thành công trong thể thao giúp anh được nhiều người biết tới. Anh thích các trận bóng bầu dục và điền kinh, nhưng mặc dù hầu hết đồng đội của anh dành thời gian rảnh ở bên nhau, hiếm khi anh tham gia cùng họ. Một người ít gặp sẽ thấy anh kiêu ngạo; nhưng hầu hết chỉ đơn giản đoán rằng anh trưởng thành nhanh hơn những người khác một chút. Ở trường anh cũng có vài cô bạn gái, nhưng không ai để lại ấn tượng trong anh. Trừ một người. Và cô ấy đến sau lễ tốt nghiệp. Allie. Allie của anh.
Anh nhớ có nói chuyện với Fin về Allie sau khi họ rời đêm lễ hội đầu tiên đó và Fin đã cười lớn. Sau đó cậu ta đưa ra hai dự đoán: một là họ sẽ yêu nhau, và hai là mối quan hệ ấy sẽ chẳng đi đến đâu.
Đầu dây câu của anh giật nhẹ một cái, Noah hi vọng đó là một con cá vược to, nhưng rồi lại không giật nữa, và sau khi kéo dây lên kiểm tra mồi, anh lại buông cần xuống.
Cuối cùng thì Fin đã đúng với cả hai dự đoán. Gần như cả mùa hè đó cô đã phải viện lý do nói dối bố mẹ mỗi khi họ muốn gặp nhau. Không phải vì bố mẹ cô không thích anh – chỉ là vì anh thuộc một tầng lớp khác, quá nghèo, họ sẽ không bao giờ đồng tình khi con gái họ có mối quan hệ nghiêm túc với ai đó như anh. “Em chẳng quan tâm bố mẹ em nghĩ gì đâu, em yêu anh và luôn yêu anh,” cô sẽ nói thế. “Mình sẽ tìm ra cách để ở bên nhau.”
Nhưng rốt cuộc họ đã không thể. Đến đầu tháng Chín, người ta thu hoạch xong thuốc lá và cô chẳng còn lựa chọn nào khác là quay về với gia đình ở Winston-Salem. “Chỉ có mùa hè này đã kết thúc thôi, Allie, chứ không phải chúng ta,” anh nói hôm buổi sáng cô đi. “Chúng ta không kết thúc.” Nhưng họ đã kết thúc. Vì một lý do anh không hoàn toàn hiểu, những bức thư anh viết đều không có hồi âm.
Cuối cùng anh quyết định rời New Bern để thoát khỏi hình bóng cô trong tâm trí, và cũng vì cuộc Đại Suy thoái đã khiến việc kiếm sống ở New Bern trở nên gần như bất khả. Đầu tiên anh đến Norforlk làm việc ở một xưởng tàu được sáu tháng thì bị giảm biên chế, sau đó chuyển đến New Jersey vì anh đã nghe nói kinh tế ở đó không đến nỗi quá tệ. Sau cùng anh tìm được công việc ở một bãi phế liệu: tách rác kim loại ra khỏi các loại rác khác. Chủ bãi phế liệu, một người Do Thái tên là Morris Goldman rất quan tâm đến việc thu nhặt càng nhiều rác kim loại càng tốt, tin chắc rằng chiến tranh sắp nổ ra ở châu Âu và rằng nước Mỹ sẽ lại bị lôi kéo vào. Noah chẳng quan tâm đến lý do đó. Anh chỉ mừng vì đã có việc làm.
Những năm tháng làm việc ở kho gỗ đã khiến anh dày dạn với kiểu lao động này, và rất chăm chỉ. Không chỉ vì như thế giúp tâm trí anh khỏi nhớ đến Allie suốt cả ngày mà còn vì đó là điều anh cảm thấy phải làm. Bố anh vẫn luôn dặn: “Hãy đổi một ngày làm việc lấy công sá của một ngày. Bất kỳ thứ gì ít hơn đều là ăn cắp.” Thái độ đó làm ông chủ của anh rất hài lòng. “Thật buồn là cậu không phải người Do Thái,” Goldman bảo, “cậu đúng là một anh cậu chàng rất được theo nhiều khía cạnh khác.” Đó là lời khen ngợi tuyệt vời nhất mà Goldman có thể nói.
Anh tiếp tục nghĩ về Allie, nhất là về đêm. Anh viết thư cho cô mỗi tháng một lần, nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Cuối cùng anh viết một lá thư sau cùng và tự buộc mình chấp nhận sự thật rằng mùa hè bên ấy là điều duy nhất họ cùng chia sẻ.
Ấy vậy mà cô vẫn ở lại trong anh. Ba năm sau lá thư cuối cùng, anh đến Winston-Salem với hi vọng tìm thấy cô. Anh đến nhà cô thì biết rằng cô đã chuyển đi. Sau khi nói chuyện với vài người hàng xóm, cuối cùng anh gọi cho công ty thuốc lá RJR. Cô gái trả lời điện thoại là người mới và không nhận ra cái tên anh hỏi, nhưng cô lục các tệp tài liệu nhân sự để tìm cho anh. Cô tìm được rằng cha của Allie đã rời khỏi công ty và không có địa chỉ chuyển tiếp thư nào được ghi lại. Chuyến đi đó là lần đầu tiên và cuối cùng anh đi tìm cô.
Anh làm việc cho Goldman suốt tám năm sau đó. Lúc đầu anh chỉ là một trong mười hai người làm, nhưng nhiều năm trôi qua, công ty lớn mạnh lên, và anh được thăng chức. Đến năm 1940 anh đã nắm bắt thành thạo việc kinh doanh và đã điều hành toàn bộ quy trình, đàm phán hợp đồng và quản lý một nhóm ba mươi người. Bãi phế thải đó đã trở thành nhà kinh doanh rác kim loại lớn nhất Bờ Đông.
Trong khoảng thời gian đó, anh hẹn hò với vài phụ nữ khác. Anh rất nghiêm túc với một cô, một cô hầu bàn ở nhà hàng địa phương với đôi mắt xanh sâu thẳm và mái tóc đen óng như lụa. Dù họ đã hẹn hò hai năm và có nhiều khoảng thời gian tuyệt vời bên nhau, anh không bao giờ cảm thấy tương tự như những gì anh cảm thấy về Allie.
Nhưng anh cũng không quên cô gái. Cô lớn hơn anh vài tuổi, chính cô là người đã dạy anh cách làm vui lòng một người đàn bà, những nơi nên chạm đến và hôn lên, nán lại ở nơi nào, cần thì thầm những gì. Đôi khi họ nằm cả ngày trên giường, ôm nhau và làm tình theo cách khiến cả hai đều hoàn toàn thỏa mãn.
Cô gái biết họ sẽ không ở bên nhau mãi mãi. Đến cuối mối quan hệ, một lần cô đã bảo anh, “Em ước gì mình có thể trao cho anh thứ anh đang đi tìm, nhưng em không biết đó là cái gì. Có một phần trong anh được anh giữ cho riêng mình, không chia sẻ với ai, kể cả em. Cứ như thể em không phải là người đang thật sự ở bên anh. Tâm trí anh đang ở bên ai đó khác.”
Anh cố tìm cách chối, nhưng cô không tin. “Em là đàn bà – em biết. Đôi khi anh nhìn em, em biết anh đang nhìn thấy ai đó khác. Như thể anh đang chờ cô ấy đột ngột hiện ra để đưa anh đi khỏi tất cả những thứ này…” Một tháng sau cô đến thăm anh ở chỗ làm bảo anh rằng cô sẽ gặp người khác. Anh hiểu. Họ chia tay nhau như những người bạn, và năm sau anh nhận được một tấm thiệp nói rằng cô đã lấy chồng. Kể từ đó anh không nghe nói gì về cô ấy nữa.
Trong lúc ở New Jersey, mỗi năm một lần vào dịp Giáng sinh anh lại đi thăm cha. Họ dành một khoảng thời gian đi câu và trò chuyện, và thảng hoặc họ làm một chuyến ra bờ biển để cắm trại trên Bãi Ngoài gần Ocracoke.
Vào tháng Mười hai năm 1941, khi anh hai mươi sáu tuổi, chiến tranh nổ ra, đúng như Goldman đã đoán trước. Tháng sau Noah bước vào văn phòng mà thông báo với Goldman là mình có ý định ghi danh vào quân đội, rồi quay lại New Bern để nói lời tạm biệt với cha. Năm tuần sau anh nhận được một bức thư từ Goldman gửi lời cảm ơn vì những gì anh đã làm, cùng một bản sao chứng nhận cho phép anh hưởng mấy phần trăm của bãi phế thải nếu nó được bán đi. “Tôi không thể làm được việc này nếu không có cậu,” bức thư viết, “cậu là thanh niên giỏi giang nhất từng làm việc cho tôi, mặc dù cậu không phải là người Do Thái.”
Ba năm sau đó anh dành trọn cho Quân đoàn III của tướng Patton, hành quân qua sa mạc ở Bắc Phi và các khu rừng ở châu Âu với mười mấy ki lô gam trên lưng, đơn vị bộ binh của anh chẳng mấy khi không phải chiến đấu. Anh nhìn bạn bè mình chết xung quanh; nhìn khi một số người được chôn cất xa nhà hàng nghìn dặm. Một lần, trong khi đang ẩn mình trong một hầm cá nhân gần sông Rhine, anh tưởng như nhìn thấy Allie đang quan sát mình.
Anh nhớ rồi chiến tranh đã kết thúc ở châu Âu, rồi vài tháng sau là ở Nhật Bản. Ngay trước khi giải ngũ, anh nhận được một lá thư từ luật sư ở New Jersey đại diện cho Morris Goldman. Khi gặp luật sư này, anh mới biết rằng Goldman đã qua đời một năm trước và tài sản của ông ta được thanh lý. Công ty cũng đã được bán, và Noah nhận được một tờ séc gần bảy mươi nghìn đô la. Chẳng hiểu sao anh thờ ơ đến kỳ lạ trước tin này.
Tuần sau đó anh quay lại New Bern và mua ngôi nhà. Anh còn nhớ sau đó đã đưa cha về, chỉ cho ông thấy những gì anh sắp sửa làm, chỉ ra những thay đổi mà anh dự định thực hiện. Cha anh có vẻ yếu, khò khè thở và ho suốt mỗi lần dạo bước. Noah thấy lo, nhưng cha anh bảo đừng có lo, ông trấn an anh rằng ông chỉ bị cúm.
Gần một tháng sau cha anh qua đời vì bệnh viêm phổi và được chôn cất cạnh vợ tại nghĩa trang địa phương. Noah cố gắng thường xuyên ghé qua để lại ít hoa; thỉnh thoảng anh để lại một tờ giấy nhắn nhủ. Và đêm nào anh cũng dành một khoảnh khắc để nhớ về ông, rồi nói lời cầu nguyện cho người đàn ông đã dạy anh tất cả những điều quan trọng trong đời.
Sau khi thu dây, anh cất đồ đi câu và quay trở về ngôi nhà. Hàng xóm của anh, Martha Shaw, đã chờ sẵn để cảm ơn anh, đem theo ba ổ bánh mì tự làm và ít bánh bích quy. Chồng bà đã chết trong chiến tranh, để lại bà với ba đứa con cùng một ngôi nhà cũ nát tồi tàn. Mùa đông đang đến, tuần trước anh đã dành ít ngày ở chỗ bà để sửa mái nhà, thay mấy chỗ cửa sổ bị vỡ và gắn lại các cửa sổ khác, sửa cả lò sưởi củi cho bà. Hi vọng như vậy đủ để họ qua được mùa đông.
Khi bà ta đi khỏi, anh lên chiếc xe tải Dodge xập xệ của mình mà qua nhà Gus. Anh luôn tạt qua đó trên đường ra cửa hàng vì họ không có ô tô. Thường thì một trong các cô con gái của Gus sẽ nhảy lên đi cùng anh và họ sẽ đi mua sắm ở Cửa hàng Capers General. Khi về đến nhà, anh không dỡ hết đồ ra ngay. Anh sẽ đi tắm vòi sen cái đã, tìm một chai bia Budweiser và một cuốn sách của Dylan Thomas, cuối cùng đến ngồi dưới mái hiên.
Cô vẫn không thể tin được điều ấy, kể cả khi đã nắm bằng chứng trong tay.
Nó ở trong một tờ báo ở nhà cha mẹ cô vào Chủ nhật cách đây ba tuần. Cô ra bếp để lấy một tách cà phê, và khi trở lại bàn cha cô mỉm cười chỉ tay vào một bức ảnh nhỏ. “Còn nhớ cái này không?”
Ông đưa cô tờ báo, và sau một cái liếc nhìn thờ ơ đầu tiên, có gì đó trong tấm ảnh đã đập vào mắt khiến cô nhìn kỹ hơn. “Không thể nào,” cô thì thầm, và khi cha cô nhìn cô một cách tò mò, cô lờ ông đi, ngồi xuống, đọc bài báo mà không nói thêm lời nào. Cô lờ mờ nhớ khi ấy mẹ đã đi đến bàn và ngồi đối diện cô, và khi cuối cùng cô đặt tờ báo sang một bên, bà nhìn cô chăm chú với vẻ mặt y hệt vẻ mặt của cha cô ngay trước đó.
“Con ổn chứ?” mẹ hỏi cô qua tách cà phê. “Trông con hơi xanh.” Cô không trả lời ngay, cô không thể, và lúc đó cô nhận ra tay mình đang run lên. Đó chính là lúc mọi thứ bắt đầu.
“Vậy là nó sẽ kết thúc ở đây, theo cách này hay cách khác,” cô lại thì thầm. Cô gấp mảnh báo lại để chỗ cũ, nhớ lại rằng hôm đó cô đã mang theo tờ báo rời khỏi nhà cha mẹ để có thể cắt bài báo ấy ra. Đêm đó cô đọc lại trước khi đi ngủ, cố hiểu cho được sự tình cờ kỳ lạ này, và sáng hôm sau lại đọc lại cứ như để chắc chắn toàn bộ chuyện này không phải là một giấc mơ. Và bây giờ, sau ba tuần với bao nhiêu cuộc đi bộ dài một mình, sau ba tuần tâm trí rối bời, nó là lý do cô đến đây.
Khi được hỏi, cô đáp cách cư xử kỳ lạ của cô là do stress. Đó là một lời biện minh hoàn hảo; tất cả mọi người đều hiểu, kể cả Lon, đó cũng là lý do tại sao anh không tranh cãi khi cô muốn đi xa một vài ngày. Mọi kế hoạch đám cưới đều gây stress cho tất cả những người liên quan. Gần 500 người được mời, trong đó có thống đốc, một nghị sĩ, và đại sứ Peru. Theo cô như thế là quá nhiều, nhưng cuộc đính hôn của họ là tin nổi bật đã thống trị các trang báo mục xã hội kể từ khi họ công bố kế hoạch cưới sáu tháng trước. Đôi khi cô cảm thấy muốn chạy trốn với Lon để làm đám cưới mà không có những rầy rà ấy. Nhưng cô biết anh sẽ không nhất trí; một chính trị gia tham vọng như anh thích là trung tâm của sự chú ý.
Cô lại hít một hơi thật sâu và đứng lên. “Hoặc là bây giờ, hoặc là không bao giờ,” cô thì thầm, sau đó cầm đồ đạc lên đi ra cửa. Cô chỉ dừng lại một chút trước khi mở cửa và đi xuống cầu thang. Người quản lý mỉm cười khi cô đi ngang qua, và cô có thể cảm thấy ánh mắt ông ta dõi theo khi cô đi ra chỗ ô tô. Cô trườn vào sau vô lăng, nhìn vào mình trong gương lần cuối, sau đó nổ máy và rẽ phải vào phố Front.
Cô không ngạc nhiên khi mình vẫn nhớ đường đi ở thị trấn này rõ như thế. Mặc dù đã nhiều nhưng năm cô không ở đây, thị trấn này không lớn và cô có thể dò ra các phố dễ dàng. Sau khi đi qua sông Trent trên một chiếc cầu kéo cổ lỗ, cô rẽ vào một con đường rải sỏi và bắt đầu chặng cuối cuộc hành trình của mình.
Vùng đất trũng này thật đẹp, như mọi khi. Không như Piedmont nơi cô lớn lên, đất ở đây bằng phẳng, nhưng chất đất thì cũng màu mỡ phù sa và lý tưởng để trồng bông và thuốc lá như vậy. Hai vụ mùa và ngành gỗ xẻ khiến các thị trấn trong khu vực này của bang luôn nhộn nhịp, khi lái xe dọc con đường bên ngoài thị trấn, cô nhìn thấy vẻ đẹp đã thu hút người ta đến với khu vực này từ những ngày đầu tiên.
Đối với cô, nó chẳng hề thay đổi. Ánh dương vỡ vụn xuyên qua những cây sồi nước và cây mại châu cao mấy chục mét, làm ánh lên những sắc màu mùa thu. Ở bên trái cô, một dòng sông màu xanh ánh thép lượn về phía con đường rồi chợt rẽ sang lối khác trước khi dâng tặng cuộc sống của nó cho một dòng sông khác lớn hơn cách độ một dặm phía trước. Bản thân con đường rải sỏi cũng uốn lượn qua nhiều trang trại có từ thời tiền Nội chiến, cô cũng biết rằng đối với một số nông dân, kể từ trước khi ông bà họ sinh ra cuộc sống vẫn chẳng có gì thay đổi. Sự bất biến của nơi này khiến cả một cơn lũ ký ức đổ về, để rồi cô cảm thấy lòng mình thắt lại mỗi lần nhận ra từng mốc ranh giới mình đã quên lãng từ lâu.
Vầng dương treo ngay phía trên rặng cây bên trái cô, và khi vòng qua một khúc quanh, cô đi ngang qua một ngôi nhà thờ cổ bỏ hoang nhiều năm nhưng vẫn đứng đó. Mùa hè năm ấy cô đã thám hiểm nó, tìm những kỷ vật từ cuộc nội chiến giữa các bang, giờ đây khi xe cô đi qua, những ký ức của ngày nào lại trở nên mạnh mẽ, cứ như chỉ mới vừa xảy ra ngày hôm qua.
Một cây sồi uy nghi bên bờ sông đã xuất hiện trong tầm mắt, và những ký ức trở nên mãnh liệt hơn. Cây sồi trông vẫn thế, cành thấp và vạm vỡ, vươn rộng trên mặt đất với những nhánh rêu Tây Ban Nha rủ xuống từ cành như một tấm mạng. Cô nhớ lại mình từng ngồi dưới tán cây này vào một ngày tháng Bảy nồng nực cùng một người đã nhìn cô với một sự khao khát khiến tất cả mọi thứ khác biến mất hết. Và chính vào khoảnh khắc ấy, cô đã yêu lần đầu tiên.
Anh hơn cô hai tuổi, và khi cô lái xe dọc con đường này, hình ảnh anh trong cô lại từ từ trở nên rõ nét. Lúc nào trông anh cũng già hơn tuổi thật, cô nhớ mình đã nghĩ thế. Vẻ ngoài của anh là của một người hơi dầm mưa dãi nắng, gần giống một nông dân trở về nhà sau hàng giờ trên cánh đồng. Anh có đôi bàn tay chai sạn và đôi vai rộng của những người phải lao động vất vả để kiếm sống, và những nếp nhăn đầu tiên đã bắt đầu hình thành quanh đôi mắt sẫm màu có vẻ như đọc được hết mọi suy nghĩ của cô.
Anh cao và mạnh mẽ, tóc nhâu nhạt, đẹp trai theo kiểu rất riêng, nhưng chính giọng nói của anh mới là điều cô nhớ nhất. Hôm đó anh đã đọc sách cho cô nghe; đọc cho cô nghe khi họ nằm trên cỏ dưới cây sồi với một âm giọng mềm mại và lưu loát, du dương gần như nhạc. Đó là giọng nói như thuộc về đài phát thanh, và dường như nó ngân nga trong không trung khi anh đọc cho cô nghe. Cô nhớ mình đã nhắm mắt, lắng nghe thật gần và để cho những lời anh đọc chạm tới tâm hồn:
Cơn gió cuốn ngày dỗ dành tôi
về phía bóng chiều và hơi nước,
Như không khí tôi đi,
tôi lắc mái đầu bạc
nhìn vầng dương chạy trốn...
Anh giở qua những cuốn sách cũ trang sách đã quăn, những cuốn sách anh đã đọc hàng trăm lần. Anh đọc một lúc, rồi ngừng lại, và cả hai nói chuyện. Cô kể với anh những gì cô muốn trong đời - những hi vọng và ước mơ cho tương lai - còn anh lắng nghe chăm chú và sau đó hứa sẽ biến tất cả thành hiện thực. Và cái lối anh nói điều ấy khiến cô tin anh, và lúc đó cô biết anh có ý nghĩa với cô đến chừng nào. Đôi khi, khi cô hỏi, anh sẽ kể về bản thân hay giải thích tại sao anh lại chọn một đoạn thơ nào đó và anh nghĩ gì về nó, còn đôi khi anh chỉ nhìn cô chăm chú một cách say mê theo kiểu mà chỉ anh mới có được.
Họ ngắm mặt trời lặn và cùng nhau ăn tối dưới các vì sao. Lúc đó trời đã muộn, và cô biết bố mẹ cô sẽ nổi giận nếu biết cô ở đâu. Tuy nhiên vào lúc đó điều ấy chẳng có gì quan trọng. Tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là ngày hôm đó mới đặc biệt làm sao, anh mới đặc biệt làm sao, và vài phút sau đó khi họ bắt đầu đi về hướng nhà cô, anh đã nắm tay cô và cô cảm thấy cái nắm tay ấy đã sưởi ấm cô suốt chặng đường còn lại.
Lại một khúc ngoặt trên đường, và cuối cùng cô thấy nó hiện ra xa xa. Ngôi nhà đã thay đổi đáng kể so với cô còn nhớ. Cô lái chậm lại khi đến gần, rẽ vào con đường đất rợp bóng cây dẫn đến cột mốc đã triệu cô từ Raleigh về đây.
Cô lái chậm, nhìn về phía ngôi nhà, và hít một hơi sâu khi nhìn thấy anh đang ở trên hiên, đang nhìn chiếc xe cô. Anh ăn mặc thoải mái. Từ xa trông anh vẫn giống như xưa. Trong mọi lúc, khi ánh mặt trời đã ở phía sau anh, anh gần như tan biến vào khung cảnh.
Xe cô tiếp tục đến gần, lăn bánh chậm chạp, cuối cùng cũng dừng lại trước một cây sồi phủ bóng phía trước ngôi nhà. Cô xoay chìa khóa, không rời mắt khỏi anh, động cơ kêu khục khục rồi dừng lại.
Anh bước xuống hiên và bắt đầu lại gần cô, bước đi thoải mái, sau đó bỗng dưng dừng lại lặng ngắt khi cô xuất hiện từ chiếc xe. Suốt một lúc lâu họ không thể làm gì khác ngoài nhìn nhau chăm chăm không động đậy.
Allison Nelson, hai mươi chín tuổi và đã đính hôn, một con người quảng giao, đang đi tìm những câu trả lời cô cần biết, và Noah Calhoun, kẻ mơ mộng, ba mươi mốt tuổi, đã được bóng ma thống trị cuộc đời anh đến thăm.

