Điểm dối lừa - Chương 098 - 099 - 100 - 101
Chương 98
- Khỉ thật. - Người lái xe tắc xi quay lại nói với
Gabrielle. - Hình như đằng trước có tai nạn. Lại không đi được rồi. Chắc cũng
lâu đấy.
Gabrielle nhìn ra ngoài và thấy những chớp sáng từ đèn
xe cấp cứu loé lên trong đêm tối. Mấy nhân viên cảnh sát đang đứng phía trước,
chặn tất cả mọi xe cộ qua lại xung quanh khu đài tưởng niệm.
- Chắc tai nạn phải khủng khiếp lắm. - Người lái xe
nói, tay chỉ những lưỡi lửa vẫn đang bốc cao trong đài tưởng niệm FDR.
Gabrielle nhìn những ngọn lửa đang cháy lem lém, nhíu
mày.
- Lại đúng vào lúc này cơ chứ. - Cô muốn báo ngay cho
Thượng nghị sĩ thông tin vừa có được về PODS và nhà địa chất học Canada. Cô
thầm băn khoăn không hiểu vụ ầm ỹ này có đủ để mang lại sinh khí cho chiến dịch
bầu cử của Thượng nghị sĩ hay không. Có thể đối với những chính trị gia khác
thì vẫn là chưa đi - cô thầm nghĩ, nhưng Sedgewick Sexton là người dựa trên
khiếm khuyết và thất bại của kẻ khác để xây dựng cương lĩnh chính trị của mình.
Dù Gabrielle chưa bao giờ thán phục cách Thượng nghị
sĩ biến những khiếm khuyết về nhân cách của đối thủ thành những lợi thế chính
trị của bản thân, nhưng phải thừa nhận rằng đó là cách thức lợi hại. Với miệng
lưỡi sắc sảo, Sexton có thể làm cho hành vi thiếu trung thực này của NASA biến
thành cả một vấn đề trầm trọng liên quan đến tư cách của người đứng đầu NASA và
một cách gián tiếp, đến cả Tổng thống.
Ngoài kia, lửa tiếp tục bốc cao thêm trong khu vực
tưởng niệm FDR. Một số cây to đã bắt lửa, và lính cứu hoả đang ra sức phun
nước. Người lái taxi ấn nút bật đài, và đang dò sóng.
Thở dài, Gabrielle ngả người trên ghế, cảm nhận sự mệt
mỏi đang lan đến từng chân tơ kẽ tóc. Hồi mới đặt chân đến Washington, cô đã dự
định sẽ làm chính trị cả đời, thậm chí cả trong Nhà Trắng. Ấy thế mà giây phút
này, cô cảm tưởng như đã chán ngán tất cả - cuộc đấu trí với Marjorie Tench,
những bức ảnh chụp cô và Thượng nghị sĩ ăn nằm với nhau, những lời dối trá của
NASA…
Phát thanh viên trên đài đang đưa tin về một vụ đánh
bom và những suy đoán về khủng bố.
Mình phải đi khỏi thành phố này thôi, cô nghĩ, lần đầu
tiên kể từ giây phút đặt chân đến thủ đô của nước Mỹ.
Chương 99
Chỉ huy rất hiếm khi thấy mệt mỏi, nhưng ngày hôm nay
quả là nhiều thương vong. Không một chi tiết nào diễn ra đúng như dự định - quá
trình khoan phiến băng để đưa tảng thiên thạch vào lòng băng hà, những khó khăn
nảy sinh trong khâu bảo vệ bí mật, và bây giờ là số lượng nạn nhân tăng không
ngừng.
Đáng ra không một ai phải chết… trừ người Canada đó.
Thật mỉa mai, chi tiết kỹ thuật khó thực hiện nhất hoá
ra lại êm xuôi nhất. Việc đưa tảng đá vào giữa lòng phiến băng được hoàn tất từ
trước đó vài tháng mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Sau khi mọi sự đã hoàn
tất, chỉ cần đợi vệ tinh PODS được phóng lên quỹ đạo vệ tinh chụp cắt lớp độ
đậm đặc Cực Bắc này có nhiệm vụ quản sát những khu vực rộng lớn ở vùng Cực Bắc,
và không sớm thì muộn, phần mềm trên vệ tinh sẽ phát hiện ra tảng thiên thạch,
và NASA sẽ được biếu không một phát kiến quan trọng.
Nhưng phần mềm chết tiệt đó không hoạt động được.
Khi chỉ huy được thông báo rằng phần mềm phát hiện
những dị thường về độ đậm đặc của PODS bị lỗi và phải đợi đến sau kỳ bầu cử thì
mới khắc phục xong, toàn bộ kế hoạch có nguy cơ bị phá sản. Không có PODS, tảng
thiên thạch sẽ âm thầm nằm trong lòng băng tuyết. Thế là chỉ huy phải tìm cách
báo cho người của NASA biết về tảng thiên thạch đó. Giải pháp được lựa chọn là
giả danh nhà địa chất học người Canada để thông báo vị trí của tảng thiên
thạch. Dĩ nhiên là phải giết nhà khoa học đó ngay lập tức rồi dàn cảnh một vụ
tai nạn. Quăng nhà địa chất học vô tội từ trên trực thăng xuống mới chỉ là bước
khởi đầu. Lúc này, sự thật có nguy cơ nhanh chóng bị bại lộ.
Wailee Ming. Norah Mangor. Cả hai đều đã chết.
Vụ sát hại dã man tại đài tưởng niệm FDR.
Chẳng mấy chốc nữa sẽ đến lượt Rachel Sexton, Michael
Tolland, và tiến sĩ Marlinson.
Không còn cách nào khác, chỉ huy thầm nghĩ, cố dằn cảm
giác hối hận đang dâng lên trong lòng. Nếu không thì cái giá phải trả sẽ còn
lớn hơn nhiều…
Chương 100
Khi chiếc máy bay Dolphin của đội cứu hộ bờ biển còn
cách chiếc tàu Goya những hai dặm, Tolland đã gọi người phi công.
- Máy bay của anh có trang bị thiết bị nhìn xuyên đêm
NightSight không?
Người phi công gật đầu:
- Chúng tôi được trang bị đầy đủ!
Tolland không mong gì hơn. NightSight là thiết bị chụp
ảnh cảm ứng nhiệt của hãng Raytheon, cho phép xác định được những người còn
sống sót sau khi đắm tàu trong đêm tối. Hơi ấm toả ra từ đầu của nạn nhân sẽ
hiện lên như một chấm đỏ trên nền đại dương đen thẫm.
- Bật lên đi. - Tolland bảo anh ta.
Người phi công thắc mắc:
- Anh muốn tìm người dưới biển sao?
- Không, tôi muốn xem cái này.
- Ở độ cao này thì chẳng nhìn thấy gì đâu, trừ phi
dưới kia có một vệt dầu loang đang bốc cháy.
- Anh cứ bật lên đã nào. - Tolland khăng khăng.
Người phi công ném về phía Tolland ánh mắt khó chịu,
rồi ấn mấy cái nút, điều chỉnh vài cái cần, chỉnh ống kính cảm ứng nhiệt lắp
dưới bụng máy bay để nhìn bao quát vùng biển có đường kính ba dặm trước mặt họ.
Màn hình LCD trên bảng điều khiển trước mặt anh ta sáng lên. Ảnh cảm ứng nhiệt
được chuyển ngay.
- Ái chà chà! - Máy bay hơi tròng trành mất mấy giây
khi anh ta co người lại vì kinh ngạc, rồi bình tĩnh lại và ngồi thẳng dậy, chăm
chú nhìn màn hình.
Rachel và Corky nhoài hẳn người về phía màn hình,
không kém phần ngạc nhiên. Trên nền đại dương đen thẫm là một vòng xoáy lớn màu
đỏ sáng loè.
Rachel bối rối quay sang Tolland:
- Trông như một xoáy nước vậy.
- Nó đấy. - Tolland đáp - một dòng hải lưu ấm chảy
xoáy.
- Đường kính của nó phải đến nửa dặm.
Anh chàng phi công cứu hộ ồ lên kinh ngạc:
- Dòng xoáy này lớn thật. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng
gặp xoáy nước ấm, nhưng chưa thấy cái xoáy nào rộng đến mức này.
- Nó mới xuất hiện tuần trước, - Tolland giải thích -
chắc chỉ vài hôm nữa là biến mất.
- Cái gì tạo nên xoáy nước này? - Rachel hỏi, bối rối
thấy một xoáy nước lớn đến thế giữa lòng đại dương.
- Magma đấy. - Viên phi công nói.
Rachel quay sang Tolland, giọng lo lắng:
- Có núi lửa sao?
- Không. - Tolland đáp. – Bờ biển phía đông không có
núi lửa nào cả, mà thỉnh thoảng chỉ có những túi đá nhão xuất hiện dưới đáy
biển, tạo ra những vùng nước nóng mà thôi. Vì những túi nước nóng đó, một
gradien nhiệt độ đảo ngược xuất hiện - nước nóng ở dưới đáy trong khi nước mát
lại ở bên trên. Do đó mà có những xoáy nước nóng lớn thế này. Chúng được gọi là
các megaplume. Những xoáy nước này chỉ hoạt động trong khoảng một hai tuần rồi
sẽ biến mất.
Người phi công quan sát xoáy nước nóng đang chảy trên
màn hình.
- Trông xoáy nước này có vẻ còn mạnh lắm. - Anh ta
ngừng lại một lát, kiểm tra lại toạ độ mà tàu ngầm của Tolland đang neo đậu,
rồi quay lại, vẻ ngạc nhiên:
- Anh Tolland này, hình như con tàu của anh đang thả
neo rất gần trung tâm dòng xoáy này thì phải.
Tolland gật đầu.
- Gần trung tâm thì tốc độ dòng chảy có chậm hơn đôi
chút. - Mười tám hải lí. Gần giống như thả neo trên một dòng sông chảy xiết.
Những dây néo của chúng tôi đã bị kéo căng suốt cả tuần vừa rồi.
- Lạy Chúa tôi. - Viên phi công nói. - Hải lưu có tốc
độ mười tám hải lý! Ngã một cái là xong! - Anh ta phá lên cười.
Rachel không cười nổi.
- Mike này, không hề thấy anh nhắc gì đến túi đá nhão,
megaplum hay dòng hải lưu nóng nào hết.
Ông đặt tay lên đầu gối, cô động viên:
- An toàn tuyệt đối, cứ tin ở tôi.
Rachel nhíu mày:
- Tức là các anh đang quay phim về megaplume này à?
- Megaplume và sphyrna mokarranan.
- Đúng đấy, tôi đã nghe thấy anh nói đến thứ đó!
Tolland mỉm cười bẽn lẽn:
- Sphyrna mokarranan rất thích nước ấm, và ngay lúc
này, trải dài khắp một trăm dặm quanh đây, chúng đang tập trung vô cùng đông
đúc.
- Hay thật. - Rachel gật đầu, không chút thoải mái. -
Và chúng thế nào? Lũ sphyrna mokarranan ấy?
- Loài cá xấu xí nhất đại dương.
- Giống cá bơn à?
Tolland cười lớn:
- Cá mập đầu búa.
Rachel sợ cứng người:
- Quanh tàu của anh có cá mập đầu búa à?
Tolland nháy mắt:
- Bình tĩnh nào, chúng không nguy hiểm đâu mà.
- Nếu chúng không nguy hiểm thì anh đã chẳng phải nói
vậy.
Tolland cười ha hả:
- Chắc cũng đại loại như thế. - Ông tinh nghịch gọi
người phi công - Này, kể từ lần gần đây nhất mà các anh cứu được người nào bị
cá mập đầu búa tấn công đến nay là bao lâu rồi?
Anh ta nhún vai:
- Phải đến mấy chục năm nay chưa có lấy một lần.
Tolland quay sang Rachel:
- Thấy chưa, mấy chục năm rồi. Lo gì!
- Nhưng mà mới tháng trước, có mấy tay lặn tự do bị…
- Này! - Rachel lên tiếng - Anh nói là mấy chục năm
chưa cứu người nào cơ mà!
- Đúng thế! - Anh ta đáp. - Cứu sống. Thường là chúng
tôi đến quá muộn. Giống cá này tấn công nhanh lắm.
Chương 101
Từ trên cao, họ thấy bóng dáng tàu Goya lung linh phía
chân trời.
Cách nửa dặm, Tolland nhận ra ngay những bóng đèn mà
Xavia đã bật trên boong. Nhìn những ngọn đèn, ông chợt thấy mình giống lữ khách
mệt mỏi vừa nhìn thấy mái nhà thân yêu hiện lên phía cuối đường.
- Tôi tưởng chỉ có một người trực trên tàu cơ mà? -
Rachel ngạc nhiên thấy nhiều đèn sáng đến vậy.
- Chẳng lẽ những lúc ở nhà một mình thì cô không bật
đèn sao?
- Một bóng thôi, không phải toàn bộ căn nhà như thế
kia.
Tolland mỉm cười. Dù cố tỏ ra vui vẻ, Rachel không
giấu nổi cảm giác bồn chồn lo lắng. Ông muốn đặt bàn tay vai cô gái để nói đôi
lời an ủi, nhưng chẳng biết nói gì vào lúc này.
- Đèn bật lên thế kia là để cho an toàn. Để làm ra vẻ
vẫn có rất nhiều người trên tàu.
Corky cười khùng khục:
- Các anh sợ cướp biển à?
- Không. Nguy cơ lớn nhất lại chính là những kể khờ
không biết đường mà dùng radar. Cách tốt nhất để không bị đâm là để cho ai cũng
phải thấy mình.
Corky liếc nhìn con tàu chan hoà ánh sáng:
- Nhìn thấy à? Trông như thể các anh sắp mở vũ hội hoá
trang nhân dịp năm mới thì có.
- Dĩ nhiên là tiền điện thì đã có đài NBC chi trả.
Chiếc trực thăng của đội cứu hộ bờ biển nghiêng cánh
và lượn vòng quanh con tàu. Người phi công bắt đầu cho máy bay tiếp cận sân bay
trực thăng trên nóc tàu. Từ trên cao, Tolland thấy rõ những thanh giằng của con
tàu đang phải chịu áp lực rất lớn của dòng hải lưu.
Được thả neo từ phía mũi - con tàu Goya như đang đâm
thẳng vào dòng nước xoáy, những dây xích để neo tàu bị kéo căng, như thể một
quái vật biển đang kéo căng xiềng xích muốn vùng thoát ra ngoài…
- Con tàu này đẹp gớm. - Người phi công vừa nói vừa
cười.
Tolland biết ngay anh ta đang nói mỉa. Tàu Goya trông
rất xấu. Xấu không chịu nổi - theo cách nói của một biên tập viên truyền hình.
Nó là một trong mười bảy chiếc tàu duy nhất hiệu SWATH, con tàu hai thân vùng
ngấn nước hẹp này trông không đẹp mắt chút nào.
Về cơ bản, con tàu là một khối kết cấu nằm ngang nổi
bồng bềnh trên những thanh giằng rất lớn gắn với bốn xà lan. Nhìn từ xa, nó
giống như giàn khoan loại thấp. Nhìn gần thì nó giống như cái xà lan lớn gắn
trên những cây cột khổng lồ. Khu ở của thuỷ thủ đoàn, các phòng nghiên cứu cũng
như khoang điều khiển được xếp thành dãy tít trên cao, khiến người ta liên
tưởng đến đống hổ lốn những, nhà cửa, phòng cao ốc bị chất chồng trên cái bàn
cà phê bé nhỏ.
Dù trông không vừa mắt chút nào, con tàu Goya có ưu
điểm là vùng ngấn nước rất hẹp, do đó ít tròng trành hơn. Mặt nền được treo rất
thăng bằng cho phép họ dễ dàng quay phim và thao tác trong phòng thí nghiệm, và
ít người bị say sóng hơn.
Dù đài NBC đã đề nghị mua cho ông con tàu mới, Tolland
vẫn từ chối. Dù rằng hiện nạy có những con tàu mới có độ ổn định cao hơn, nhưng
Goya đã là nhà của ông từ hơn chục năm nay - trên chính con tàu này, ông đã
chiến đấu với nỗi cô đơn trống trải sau khi Celia ra đi mãi mãi. Thỉnh thoảng
vẫn có đêm ông như nghe thấy tiếng nàng trên boong tàu lộng gió. Chừng nào
những tiếng gọi ấy không còn vang lên nữa thì ông sẽ chuyển sang tàu mới.
Còn hiện tại thì chưa.
Cuối cùng thì chiếc trực thăng cũng hạ cánh xuống
boong tàu Goya.
Rachel Sexton thở phào. Tin tốt là cô không còn bay
qua đại dương nữa. Tin xấu là giờ đây, cô đang đứng trên mặt biển. Rachel cố
giữ cho hai chân không run lên khi cô bước lên boong và nhìn quang cảnh xung
quanh. Boong tàu chật chội kỳ lạ, đã thế chiếc máy bay lại choán hẳn phần đuôi
tàu.
Dõi mắt về phía mũi tàu, Rachel chăm chú quan sát cấu
trúc xấu xí mất cân đối của con tàu. Tolland đứng sát bên cô.
- Tôi biết, - ông nói to để át tiếng dòng nước ào ào
bên dưới - Khi lên tivi, cái boong này có vẻ rộng hơn.
Rachel gật đầu.
- Và cũng có vẻ ít tròng trành hơn.
- Đây là một trong những con tàu an toàn nhất. Thật
đấy.
Tolland đặt tay lên vai Rachel và dẫn cô đi dọc boong
tàu.
Ông không ngờ hơi ấm từ bàn tay mình lại có thể khiến
Rachel an lòng đến vậy. Tuy nhiên, khi Rachel nhìn về phía đuôi tàu, cô thấy
dòng hải lưu chảy xiết cuộn lên như thể con tàu đang chạy hết tốc lực. Chúng ta
đang ở ngay trên một xoáy nước lớn, cô thầm nghĩ.
Ở tận cùng phía đuôi tàu, Rachel nhận ra chiếc tàu lặn
nhỏ Triton - được đặt tên theo thần biển của người Hy Lạp - trông chẳng giống
vị thần biển bị nhốt trong lồng sắt chút nào. Ngay trên mũi con tàu nhỏ này là
vòm chứa acide acrylic, khiến nó trông giống chiếc bể cá hơn là chiếc tàu ngầm.
Rachel thầm nghĩ trên đời này không còn gì đáng sợ hơn ở một mình trong lòng
biển sâu, sát cái vòm chứa đầy acide kiểu này. Nhưng theo lởi Tolland, khó chịu
nhất lại là giai đoạn đầu, khi con tàu được thả xuống biển bằng cái tời gắn bên
hông tàu Goya, treo lủng lẳng như quả lắc đồng hồ trên không trung, cách mặt
biển ba mươi mét.
- Xavia chắc đang ở trong phòng thí nghiệm. - Tolland
nói, đi dọc boong tàu. - Lối này.
Rachel và Corky bước theo Tolland. Còn viên phi công
thì ngồi lại trên máy bay, được dặn dò kỹ lưỡng là không được dùng sóng vô
tuyến để bên lạc với bất kỳ ai.
- Hai người hãy xem nhé. - Tolland nói, dừng lại bên
lan can ở đuôi tàu.
Rachel miễn cưỡng tiến sát đến mép tàu. Lan can khá
cao. Mặt nước bên dưới cách họ những ba mươi foot, thế mà Rachel vẫn cảm thấy
vô cùng sợ hãi.
Nhiệt độ ở đây tương đương với nước ấm trong bồn tắm.
Tolland nói trong tiếng nước ào ào. Ông với tay bật
công tắc gắn trên tay vịn. - Xem này.
Một chùm sáng toả rộng chiếu xuyên qua vùng nước phía
đuôi tàu. Cả Rachel và Corky đều thấy ngộp thở.
Quanh con tàu là hàng chục hình dáng ma quái. Chỉ cách
mặt nước vài foot, hàng đàn cá lớn đen xì, bóng nhẫy bơi song song ngược dòng
hải lưu, những cái đầu hình búa không lẫn vào đâu được đang lắc qua lắc lại
trong một nhịp điệu ma quái đặc trưng mà tổ tiên chúng từ thời tiền sử truyền
lại.
- Chúa ơi. - Corky lắp bắp. - Rất mừng được anh báo trước
thế này, Mike ạ.
Rachel đờ người. Cô muốn lùi xa mép tàu, nhưng chân
không nhúc nhích nổi. Những gì vừa trông thấy đã khiến cô ngây dại.
- Cảnh tượng hiếm có, đúng không? - Tolland nói. Ông
lại đặt tay lên vai Rachel để trấn an. - Chúng sẽ vui đùa ở vùng nước ấm này
vài tuần. Những con cá này thính mũi nhất đại dương - thuỳ khứu giác
telencephalon của chúng cực kỳ nhạy bén. Chúng có thể ngửi được mùi máu cách xa
một dặm.
Corky tỏ ra hoài nghi:
- Thuỳ khứu giác telencephalon cực nhạy à?
- Anh không tin ư? - Tolland đến bên cái tủ bằng nhôm
đặt gần đó. Loáng một cái, ông đã lôi ra một con cá nhỏ. – Tốt lắm. - Ông lấy
con dao nhỏ và khía vài nhát trên mình con cá mềm oặt. Máu bắt đầu rỉ ra.
- Mike này, lạy Chúa tôi. - Corky nói. - Ghê quá!
Tolland ném con cá xuống biển. Ngay khi con cá rơi
xuống mặt biển, gần chục con cá mập lập tức lao bổ đến, những chiếc răng trắng
nhởn, sắc nhọn bổ phầm phập vào con cá bé nhỏ. Sau một tích tắc, con cá hoàn
toàn biến mất.
Kinh hãi, Rachel quay lại nhìn Tolland ông đã cầm trên
tay một con cá nữa. Cùng loại. Cùng kích cỡ.
- Lần này không có máu. - Tolland nói, rồi ném luôn
con cá xuống biển mà không lấy dao cắt ra như lần trước nữa. Con cá rơi xuống
nước, nhưng không có bất kỳ động tĩnh nào. Lũ cá mập đầu búa dường như không hề
để ý. Con cá mồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi, không gây ra bất kỳ xáo
động nào.
- Chúng chỉ tấn công khi ngửi thấy có mùi máu. -
Tolland đứng dựa người vào lan can boong tàu và nói. Thực ra chúng ta có thể
bơi ở khu vực này mà vẫn an toàn với điều kiện là trên người không có vết
thương hở nào.
Corky chỉ tay vào những mũi khâu trên mặt ông ta.
Tolland nhíu mày:
- Đúng thật, cậu thì không được bơi.