Khoảng trời mênh mông - Chương 08
CHƯƠNG 8
Ngày 15 tháng Ba
Cách Vida ba dặm về hướng Tây
Bắc, Montana
Charlie thân mến!
“Ngài” Whiskers gửi lời hỏi
thăm anh. Chắc anh chẳng còn nhận ra nó đâu. Giờ nó béo múp nhờ đám chuột nhắt.
Có trời biết ngoài bắt chuột, nó còn làm những gì. Dù chưa thân lắm với Chase,
nhưng nó với Mattie cùng trò chuyện, chơi đùa không biết chán. Hôm nọ, con bé
còn lấy mũ của Mueller đội cho mèo. Đúng là chẳng ai từ chối được cô bé biết ăn
nói dễ thương ấy.
Vậy là anh đã thành thợ máy?
Ngày ngày làm việc quanh máy bay thì còn gì thú vị bằng. Nhưng anh nhớ coi
chừng cánh quạt đấy.
Anh có nghe chiến dịch tiết
kiệm nhờ tận dụng ánh sáng ban ngày chưa? Thật kì cục vì nó bắt đầu đúng vào lễ
Phục Sinh. Tổng thống Wilson
bảo nhờ sáng kiến này, ta có thể tiết kiệm hàng triệu tấn than phục vụ tiền
tuyến. Khi hình dung anh ngủ trong doanh trại dột nát, cộng với bao sự hy sinh
khác của anh và đồng đội cũng là lính bộ binh, em thấy chút thay đổi lối sống
nhằm hưởng ứng chiến dịch của mình thật chẳng thấm tháp gì.
Phải vắt óc em nghĩ mãi mới
hiểu ý nghĩa của những ngôi sao anh vẽ bên lề giấy viết thư. Mỗi ngôi sao là
một mất mát lớn lao. Em khóc khi hình dung cảnh mẹ chiến sĩ thêu ngôi sao vàng
trên quốc kỳ nhà mình, ghi nhớ sự hy sinh tột cùng của con trai bà.
Đêm nào em cũng cầu khẩn
Thượng Đế kết thúc cuộc chiến này. Em còn cầu cho mọi người lính, trong đó có
cả cầu thủ ném bóng chày xuất sắc nhất hạt Fayette, bình an và vinh quang trở
về quê hương.
Cô bạn hay cáu kỉnh của anh
Hattie
Tường nhà mợ luôn treo một
tấm vải thêu: “Thứ Hai: giặt quần áo; Thứ Ba: ủi quần áo; Thứ Tư: vá quần áo;
Thứ Năm: đi chợ; Thứ Sáu: lau dọn nhà cửa; Thứ Bảy: nướng bánh; Chủ Nhật: nghỉ
ngơi”. Hôm nay là thứ Ba nên hai cái bàn ủi chễm chệ ngồi trên bếp củi, còn tôi
đã phủ tấm chăn sạch lên bàn ăn. Ga trải giường khó ủi nhất nên tôi bắt đầu từ
đó. Khi một bàn ủi nguội, tôi lại đặt lên bếp, lấy chiếc nóng, đi mấy lần lên
tấm khăn cắt từ bao bột mì cũ để lau lớp tro đen. Vừa xếp váy lót ngoài cạnh
đống đồ lót chờ ủi tiếp, tôi nghe tiếng ngựa ngoài sân. Một giọng đàn ông gọi
vào vào:
- Cô Brooks có nhà không?
Tôi thò đầu ngó ra cửa trước.
Traft! Trong một thoáng, tôi ước sáng nay mình mặc váy áo chỉnh tề thay vì
khoác chiếc áo bảo hộ cũ nhưng tiện lợi của cậu Chester.
Mình con ngựa ươn ướt mồ hôi.
- Chào cô. Xin cô cảm phiền
cho con Rắc Rối uống chút nước, được không ạ? Tôi gật đầu:
- Anh vừa đi xa về à? thể coi
là vậy.
Động tác xuống ngựa của Traft
có kèm tiếng kêu từ đinh thúc ngựa, rất vui tai. Tôi khoát tay mời anh vào nhà:
- Anh vào nhà uống chút cà
phê nóng nhé? Hay dùng chút bánh mì? Thi tài với chị Perilee thì tôi không dám,
nhưng ăn bánh mì tôi làm, đảm bảo anh không chết.
Traft bật cười:
- Hệt như người ta hay nói về
tài nấu nướng của tôi.
Anh ta cho ngựa uống nước,
cột dây cẩn thận rồi bước vào trong nhà.
- Mời anh ngồi…
Tôi chết sững trước đống đồ
lót đang bày la liệt trước mặt Traft Martin. Nhưng với tôi, hình như cả thiên
hạ đều thấy. Tôi vội vơ vén rồi ném chúng vào chiếc xô rỗng gần đó.
- Nhà có bàn tay phụ nữ có
khác, ấm cúng hẳn.
Cái nhăn mặt phản bội nỗ lực
cố tỏ ra lịch thiệp của Traft Martin. Vậy là anh ta đã nhìn thấy. Lạy trời, nếu
biết chuyện, mợ Ivy sẽ nghĩ sao đây?
Tôi chỉ thùng táo bằng gỗ:
- Ngồi ghế này dễ chịu lắm.
Tôi nhanh tay úp ngược xô kia
xuống đất, che không cho khách thấy những thứ trong xô, sau đó mới đi tìm vài
món ăn nhẹ.
Traft ăn ngấu nghiến mấy lát
bánh mì phết mứt anh đào và uống liền hai ly cà phê. Ăn xong, anh xếp ly đĩa
gọn gàng sang một bên:
- Cảm ơn cô. Tôi đỡ hơn rồi.
Bánh của cô đang xuống tận dưới này.
Anh ta vừa chỉ tay vào bụng
vừa nói hóm hỉnh. Traft vung vẩy bàn chân trái đi giầy cao cổ.
- Tôi đang tập làm bánh mềm
xốp hơn.
Khách cười thật tươi:
- Thời tiết ẩm ướt thế này
khó giữ được bánh xốp mềm. Hay lần sau cô thử treo bánh ngay trên bếp xem. Mẹ
tôi thường làm thế đấy.
- Phải nói thông tin của anh
còn hữu dụng hơn cả t chí phụ nữ Ladies’ Home Journal!
- Nhắc tới mẹ tôi mới nhớ: Bà
bảo tôi sang mời cô đến nhà thờ cùng mừng lễ Phục sinh. Sau buổi lễ còn tổ chức
khâu vá tập thể có phục vụ ăn uống nữa. Ủng hộ Hội chữ thập đỏ ấy mà. (Traft
đứng lên. Tôi không thể đoán má anh ta đỏ do trời lạnh hay do ngượng ngùng).
Tôi sẽ rất hân hạnh nếu được đến đón cô.
- Cảm ơn anh! Nhưng không
biết… ý tôi là nếu không bận ngoài đồng, tôi cũng đi. Nhưng tôi đi một mình
được rồi.
Không hiểu ở đây, người ta
nghĩ gì khi thấy một cô gái ngồi chung ngựa với một thanh niên đến nhà thờ. Còn
ở Arlington, chỉ có hai người phải lòng nhau mới làm thế.
- Nếu cô thấy tiện, thưa cô.
Traft cầm mũ đội lên đầu,
nhìn thẳng vào mắt tôi như thể mắt anh ta chỉ làm được có thế. Bây giờ thì tôi
đã cảm thấy được sự ngượng ngùng, bối rối từ anh ta. Ánh mắt ấy suýt chút nữa
hủy hoại sự quyết tâm từ chối lời đề nghị của anh ta ban nãy:
- Chết thật, tôi quên khuấy
đi mất. Sáng nay, tôi có ghé tiệm Bub Nefzger’s. Cô có thư. Tôi có hứa sẽ mang
thư về cho cô.
Traft rút từ ngực áo một bó
giấy nhỏ.
- Anh tốt quá.
Anh ta xốc lại cổ áo:
- Không có chi. Tôi thích
quang cảnh nhà cô.
Giờ đến lượt tôi đỏ mặt.
Gật đầu chào lịch thiệp,
Traft bước ra ngoài. Sau khi anh ta lên ngựa và phóng đi, tôi cầm bố giấy Traft
vừa đưa quạt cho đỡ nóng. Thật lạ, không khí trong lều chợt nóng nực ghê gớm.
Tôi tự trấn tĩnh, mở gói giấy ra xem. Bên trong có hai bức thư và tờ báo Woft
Point Herald. Đọc tái bút sau thư đầu của cậu Holt, tôi vui khôn tả: “Cậu rất
thích lá thư vừa rồi của cháu”.
Thư thứ hai của Charlie. Ngày
đề trong thư cách nay cả mấy tháng. Hơn thế, nó được gửi về Arlington, rồi từ
Arlington gửi đến đây. Bì thư lấm lem. Dấu “Đã kiểm duyệt” in đậm mặt sau phong
bì.
Ngày 10 tháng Hai năm 1918
Hattie mến!
Em biết tính anh không hay
phàn nàn. Nhưng anh ở Pháp ba tháng rồi mà không nhận được một lá thư nào của
em cả. Hay em không còn nhớ đến anh bạn cũ tên Charlie này nữa? Anh hy vọng
không phải thế.
Đúng là anh chưa thể đặt dấu
chấm hết cho cuộc chiến này. Gia hạn thêm cho anh vài ngày được không? Cho đến
giờ, anh vẫn chỉ tập luyện, tập luyện và cố giữ mình không ốm. Bạn cùng phòng
anh hiện đang nằm bệnh viện vì chứng kiết lỵ. Tụi anh mong sao không bỏ xác
trong bệnh xá trước khi kịp thấy chiến trường.
Em sẽ té xỉu nếu thấy gã điển
trai này mặc quân phục. Hôm qua, một y tá của Hội chữ thập đỏ chụp hình cho
anh. Khi nào rửa hình xong, anh sẽ gửi cho em.
Anh không thể kể nhiều về nơi
ở hiện tại (đội kiểm duyệt sẽ biến thư anh thành pho mai của tổ ong Thụy Sỹ
mất), nhưng anh mong có ngày về nhà. Ở đây có vô số tòa nhà đã tồn tại nhiều
thế kỷ. Còn thức ăn ngon hơn cả đồ mẹ anh nấu. Anh kể chuyện này cho em, nhưng
nhớ đừng mách mẹ anh. Anh đã uống thử rượu vang Pháp đấy. Dễ nuốt ra phết.
Hôm nay là ngày tập ném lựu
đạn. Với cầu thủ ném bóng giỏi nhất hạt Fayette, trò ấy chẳng bõ bèn gì. Anh
không sao quên được ngày dạy em ném bóng. Em còn nhớ có lần bóng của em bay lạc
vào người gã Jack huênh hoang không? Sau đó, đường bóng của em tiến bộ đáng kể,
nhưng anh chắc gã Jack tội nghiệp chẳng bao giờ bình phục hẳn sau lần ấy.
Có chuyện này nghe hay lắm.
Mấy hôm trước họ kêu gọi lính tình nguyện học nghề sửa chữa và bảo trì máy bay.
Chắc em cũng biết anh xung phong nhận ngay vị trí ấy. Công việc vừa sức anh.
Viên trung sĩ trực tiếp phụ trách bọn anh bảo anh học rất nhanh.
Đừng quên bạn cũ nhé. Thỉnh
thoảng viết cho anh, một dòng thôi cũng được.
Charlie
Bực mình ngành bưu điện quá đi
thôi.Từ khi đến Montana, tôi đã gửi cho Charlie năm lá thư rồi. Sau khi thư
được gửi đi, phải thật lâu sau nó mới đến tay người nhận. Rõ ràng các lá thư
cũng không đến theo thứ tự gửi đi. Tuy nhiên, anh nhận thư tôi lúc nào không
quan trọng. Tôi chắc chắn anh sẽ hú vía khi đọc thư tôi kể chuyện con sói của
tôi. Tôi đọc lại thư anh, rồi rót cho mình một ly cà phê trước khi đọc lại lần
nữa. Lần này, tôi sẽ tận hưởng từng từ hiện lên tờ giấy mỏng. Tôi đọc thư anh
như thuộc lòng từng chữ một. Việc ủi quần áo để lát nữa làm cũng được. Tôi
quyết định như vậy và lấy tờ báo Woft Point Herald ra xem. Theo trang nhất tờ
Herald, giữa ban ngày quân Anh đã tấn công vào Stuttgard, một tàu chiến vốn
được dùng làm bệnh viện bị trúng ngư lôi, nhưng lần này không bị chìm. Không có
tình hình chiến sự tại Pháp. Nếu có đọc báo này, mợ Ivy sẽ bảo thời sự chẳng
bao giờ đưa tin tốt lành. Tuy nhiên, tôi vẫn bực bội khi lướt qua trang nhất.
Tin gây chấn động nhất cũng không thể hơn chuyện con ngựa xám nhà Henry Hahn
lại xổng chuồng lần nữa. Bên cạnh có thông báo rạp Glacier đang chiếu phim
Trong thế cân bằng, có sự góp mặt của minh tinh màn bạc Earle Williams. Ngay
trướckhi Charlie nhập ngũ, tôi có xem Kitty Gordon trong phim Hoa ly ly tím.
Suốt từ đó đến nay, tôi chưa ghé rạp lần nào.
Hattie của ngày xưa sẽ nấn ná
lâu hơn với mục quảng cáo phim đang chiếu ngoài rạp, nhưng Hattie của ngày nay
thì không. Tôi chuyển ngay sang mục thông tin thị trường và biết hạt lanh sắp
có giá 3.66 đô la một giạ (đơn vị đo dung tích xấp xỉ bằng 36 lít). Giá lúa mì
tại thị trường Chicago là 2.20 đô la một giạ. Tôi viết vội mấy con số ấy ra lề
tờ báo. Lúc trước cậu Chester từng trồng hai mươi mẫu lanh và thu hoạch tám
mươi giạ thành phẩm. Chắc chắn tôi cũng sẽ làm được như vậy và thu về 292.8 đô
la. Cậu Holt bảo sẽ thu nhập ít hơn nhưng chưa có bút toán đỏ (không bị lỗ).
Theo như tính tóan, nếu tôi trồng hai mươi mẫu lanh và hai mươi mẫu lúa mì, tôi
sẽ có bốn mươi mẫu đất canh tác đúng theo yêu cầu. Nhưng nếu thế tôi sẽ thu
được bao nhiêu lúa mì thành phẩm? Lại phải tìm anh Karl để hỏi thôi. Tôi dụi
mắt. Chả trách lúc nào trông người nông dân cũng khắc khổ.
Tôi gập tờ báo lại. Trangcuối
có tờ quảng cáo “Cơ hội nghề nghiệp”. Quán Shamrock Café đang cần “đầu bếp nấu
món Tàu có kinh nghiệm”. Chắc chắn vị trí ấy không dành cho tôi. Nhà trọ Smith
Rooming House sắp mở cửa: “cần phục vụ phòng quen việc”. Tôi thở dài. Tôi rời
Iowa vì không muốn làm cho nhà trọ của bà Inatha Wells. Nhưng bây giờ, muốn giữ
đất, chắc có lẽ tôi phải đến làm cho nhà trọ Smith Rooming House mất. Xung
quanh đây người ta toàn làm thế: vừa đi làm vừa trông nom trang trại. Tôi hoàn
toàn mù tịt, không biết người ta lấy đâu thời gian cho cả hai. Clarice, em ông
Gorley, dạy học ở trường Power Creek; Wayne Robbins vừa phụ việc ở nhà thờ, vừa
phụ bán ở tiệm Nefzger’s. Cô Leafie kểcó một thanh niên gốc Anh hành nghề chụp
ảnh dạo bằng cách cưỡi ngựa đến các thị trấn phụcvụ bà con. Còn trang trại của
anh ở mãi tận BrockawTôi không dạy học được, ông Bub Nefzger cũng không thiếu
tay phụ bán hang. Còn nữa, chắc chắn tôi khôngcó máy chụp ảnh. Viễn cảnh tương
lai của tôi thật thiểu não. Tôi nói lớn:
- Thượng Đế ơi, giờ là lúc để
Người hành xử bí ẩn đây!
“Ngài” Whiskers giật mình
tỉnh giấc. Giả sử có trúng mùa lớn, một mình tôi cũng không thể tự thu hoạch
bốn mươi mẫu đất. Jim Gà Trống bảo dân trong vùng thường thuê Wayne Robbins hay
ông Gorley: Hai người họ có máy gặt kèm bộ phận buộc lúa thành bó và máy tuốt
lúa. Lúc ấy tôi quên không hỏi giá thuê là bao nhiêu. Lần sau có gặp anh ta,
tôi phải hỏi kĩ mới được. Hình ảnh đồng đô la cứ bay lởn vởn trong óc tôi, làm
tôi có thêm niềm tin và hi vọng.
Tôi uống nốt ly cà phê cuối
cùng trong ngày, đọan đứng lên ủi áo quần cho xong. Đủ tiền hay không đủ tiền,
tôi vẫn phải cố giành quyền sở hữu trang trại của cậu Chester. Một việc không
làm không được.
Nhiều thói quen nhỏ dần hình
thành trong cuộc sống của tôi lúc nào không hay. Chase và Mattie “thiết lập”
một con đường mòn nhỏ sát nhà tôi. Mỗi ngày đi học về, hai anh em lại ghé qua
nhà tôi trước khi về nhà. Có khi, chúng chỉ cần nhìn thấy tôi vẫy tay chào cho
đỡ nhớ. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chúng dừng lại. Ba chị em lại nói đủ chuyện
trên trời dưới đất. Chắc chắn Chase đã đi nhiều nơi, học hỏi được rất nhiều.
Cậu có nhiều ý tưởng độc đáo, ngay cả người lớn còn không biết, chưa nói gì một
cậu bé trai lên tám. Cậu huấn luyện con Fawn thành thục đến độ Chase chỉ cần tu
huýt như tiếng chim là con bê non đã chạy ngay đến. Tuần trước, Chase làm một
cái bẫy chó hoang khá tinh vi. Sau đó, cậu còn cho tôi xem một cỗ máy trông rất
kì cục:
- Em sẽ cột chặt nó vào cái
ròng rọc này. Máy này bắn vỏ bào vào bếp. (Cậu bé vung tay) Vút! Vỏ bào rơi
trúng vào bếp củi, không mảnh nào trượt ra ngoài.
Đúng là Chase có bẫy được chó
thật, nhưng phần còn lại của sự nghiệp phát minh không thành công rực rỡ như
cậu bé mong muốn. Tuy nhiên, Chase vẫn không bỏ cuộc.
Và đọc sách! Chase luôn “đói”
sách.
Chase mê sách, còn Mattie mê
nói. Gặp ai, cô bé cũng véo von không biết mệt. Từ những cuộc trò chuyện giữa
Mattie với Mullie, tôi biết nhiều chuyện ở Vida. Nếu có điện thoại, như vài
người ở thị trấn, tôi cũng không cần nghe đường dây hội họp làm gì. Mattie luôn
cập nhật thông tin cho, nhưng toàn là những thông tin kiểu trẻ con. Nhất là
loại tin tức một cô bé sáu tuổi hay tò mò, cho là quan trọng.
Hôm nay trời mát, ẩm vì mới
có mưa. Lại thêm một ngày thời tiết thuận lợi để nhặt đá trên khoảng đất sau
này sẽ thành ruộng lúa mì. Trên đất này, cây thì hiếm mà đá thì nhiều. Tôi cảm
tưởng với đá lượm được, tôi sẽ xây cả bức tuờng thành chống giặc ngoại xâm, như
cái tường gì ở mãi tận Trung Quốc ấy. Mải cặm cụi nhặt đá hết ngày này sang
tháng khác khiến tôi nghĩ chắc mai mốt lên thiên đàng rồi, tôi vẫn quen tay dọn
đá trên đó.
Bóng nắng chiều xiên xiên, nhắc tôi ngẩng lên ngóng
hai bong người nhỏ xíu thường đến vào giờ này. Tôi có làm vài cái bánh, theo
chị Perilee gọi là “bánh ngón tay”: Có nghĩa là phải nhào bột cho đến khi các
khớp ngón tay mỏi nhừ, ta mới nặn bột thành viên tròn rồi đem nướng. Tôi có rắc
thêm đường vàng lên mặt bánh, mong mấy cái bánh nhỏ ấy rút ngắn đường về nhà
của hai học trò nhỏ chuyên cần.
Khi chất đá nhặt được thành
đống, nhân tiện chờ Chase và Mattie đi ngang qua, tôi nhẩm sẵn trong đầu thư
gởi cho cậu Holt. Tôi rất muốn tả trong thư mùi của đồng cỏ, lời hứa hẹn ngọt
ngào của mùa xuân sau những cơn gió ấm, tả tiết trời ấm áp, mùi của lá xô thơm
khi ta xát mạnh nó trong lòng bàn tay và mùi của viễn cảnh mùa màng bội thu
ngay trên cánh đồng của tôi. “Ước gì cháu phát minh một bảng chữ cái mới nhằm
sáng tạo ngôn từ có thể tả thực hỗn hợp mùi hương tỏa ra từ đất này. Dần dà,
cháu cũng biết không nên hít thở không khí quá sâu khi dọn chuồng gia súc. Tuy
nhiên, hầu hết mùi hương nơi đây đều thơm lành, tuyệt diệu và tràn trề hy vọng,
như thể mùi thơm là cái gì đó thật cụ thể vậy”.
Cứ thế, tôi thầm đưa từ này
nối từ kia nên gần như quên hẳn hai người bạn nhỏ.
- Ôi!
Tôi đứng thẳng lưng, từ hông
đến đầu ngón chân đau nhức do động tác cúi kéo căng các cơ suốt nhiều giờ liền.
Tôi phóng tầm mắt về phía chân trời. Chúng kia rồi. Tôi vẫy tay, vui vẻ hét
toáng lên:
- Có bánh mới đây.
Nhưng hai em không đi về
hướng tôi. Thực ra, chúng đang chạy thục mạng, vừa chạy vừa vấp ngã theo hướng
càng lúc càng xa nhà tôi. Hai cái bóng bé xíu, đứa lớn kéo tay đứa nhỏ cùng
chạy thẳng đến bờ đá.
- Mattie! Chase!
Tôi gọi. Chắc mải cắm đầu
chạy nên chúng không thấy tôi. Đến lúc ấy, tôi mới thấy có ba người đang đuổi
theo chúng. Cảnh đuổi bắt kia chắc chắn là không vui rồi.
- Này hai em!
Tôi la lên, vén váy chạy đón
đầu chúng. Tôi cố chạy thật nhanh; tuy nhiên, dù chân ngắn nhưng hai đứa trẻ
lại có quyết tâm.
Tôi hớt ha hớt hải leo lên bờ
đá. Lúc kịp định thần lại cũng là lúc tôi đứng chắn giữa Chase, Mattie và ba
thằng con trai quần áo xộc xệch đang hùng hổ đuổi theo. Bất thần, một hòn đá
ném trúng vai tôi:
- Oái! Chuyện gì thế này?
Cả ba đứa dừng lại, hai tay
cầm cả nắm đá dấu sau lưng. Không một đứa nào trả lời tôi. Tôi nói với tên cao
nhất bọn, trông có vẻ là tên đầu sỏ:
- Này cậu, tôi hỏi có chuyện
gì thế?
Hắn chỉ nhìn tôi trừng trừng,
gan lì không chịu nói.
Tôi cúi xuống nhặt hòn đá bay
trúng vai tôi khi nãy. Hai đứa kia thả tay đang giấu sau lưng. Thằng cầm đầu
lên tiếng:
- Tụi tôi chỉ chơi thôi mà.
Tôi bước lên, sát cánh cùng
hai anh em Mattie:
- Ném đá vào người khác không
phải trò chơi mà là trò hèn hạ.
Câu ấy nói trúng tim đen lũ
trẻ hư. Thằng cao lớn bước lên, còn tôi chuẩn bị tư thế sẵn sàng:
- Nhà mấy em ở đâu?
Tôi lăn hòn đá trong tay như
lăn con xúc xắc trong trò chơi may rủi. Không trả lời. Trông mặt đứa cao nhất
có nét quen quen:
- Em này con nhà Martin chứ
gì?
- Đây không cần phải trả lời.
- Đúng. Nhưng chắc mẹ em muốn
biết thái độ hòa nhã của em khi làm quenvới chị. Chủ nhật này, chúng tôi có hẹn
cùng đi lễ.
Bớt hung hăng, thằng nhóc
hỏi:
- Sao chị quan tâm đến chúng?
Hay chị cũng kết thân với giặc
Phải nghe những từ ngữ ấy
thốt ra từ miệng con trẻ thì thật đau lòng.
- Chị là bạn của hai em này.
Tôi tung hứng hòn đá trong
tay. Rõ ràng lời tôi nói không ấn tượng gì mấy đến tay trưởng nhóm. Đã đến lúc
cần thay chiến thuật.
Tôi nhìn quanh, tìm mục tiêu.
Cây mận dại tít đằng xa kia là tiện nhất. Tôi vung tay ném mạnh. Hòn đá bay trúng
thân cây.
Một trong hai đứa nhỏ con hơn
bối rối lùi lại:
- Tao phải về. Nếu vắt sữa bò
muộn, ba tao lột da tao mất.
Đứa đứng sau cùng thả mấy hòn
đá trong tay xuống đất, miệng giục:
- Đi thôi, Lon.
Lon thách thức nhìn tôi, đốp
chát:
- Đúng là nhận kẻ thù là bạn.
Tôi nhìn thẳng mắt cậu ta:
- Đó là cậu nói đấy nhé.
Tôi cúi xuống nhặt hòn đá
khác. Cả ba đứa cùng vờ bình thản quay lưng trước khi chân thấp chân cao chạy
xuống gò đá.
Tôi hỏi:
- Sao lại thế này?
Chase không trả lời, chỉ đi
như chạy, lắc đầu nguây nguẩy. Mattie giải thích:
- Chúng lấy sách của dượng
Karl.
Ánh mắt buồn xo của cô bé
khiến lòng tôi nhức nhối.
- Chase!
Tôi chạy theo gọi giật, nắm
lấy cánh tay rắn chắc và xoay người nó về phía tôi:
- Trời!
Một vệt máu khô dính chặt vào
má Chase, mũi cậu bé ướt nước. Mặt cậu đầy vết sưng đỏ, mắt trái tím đen. Tôi
hốt hoảng, nhưng vội lấy lại bình t
- Để chị xem nào.
Tôi kéo vạt áo lau mũi cho
Chase mà hai tay run bắn. Tôi chưa lau xong, Chase đã vùng tránh ra.
Cậu nghiến răng:
- Em không quay lại trường
nữa. Mẹ có bắt, em cũng không đi.
Cậu bé quệt mũi thật nhanh,
vô tình “vẽ” thêm vệt đỏ dài vắt ngang mặt. Tôi không muốn chị Perilee trông
thấy cảnh này.
- Ít nhất cũng vào nhà chị
rửa mặt cái đã.
Chase ngần ngừ:
- Vâng.
Trên đường đi, tôi cố gợi
chuyện, hỏi han Chase xem để biết thêm chút thông tin về chuyện vừa xảy ra
không. Nhưng cậu bé vẫn không kể hết chuyện. Mattie bổ sung những chi tiết bị
Chase bỏ qua, mọi chuyện đã quá rõ ràng.
Chân bước lên hai bậc nhỏ
trước ngưỡng cửa nhà tôi, Chase kể:
- Sách ấy của mẹ dượng Karl.
Nhiều chuyện cổ tích lắm chị ạ.
- Thế mà Lon ném sách...
(Mattie bịt mũi, ôm chặt búp bê Mullie) vào nhà xí.
Tôi múc nước ấm từ bồn chứa
trên bếp vào chậu men, nhúng khăn, vắt khô rồi đưa cho Chase. Thằng bé áp nhẹ
khăn lên mặt. Một làn hơi ấm thoảng qua nhè nhẹ.
- Nhưng tại sao chứ?
Chase lí nhí trong miệng, nhỏ
đến độ gần như tôi không nghe thấy.
- Chúng bảo luật không cho
giữ sách của Đức.
Tôi cầm khăn từ tay Chase
nhúng vào nước ấm lần nữa. Nước trong chậu biến thành màu hồng sậm.
- Thế thầy giáo bảo sao?
Chase lắc đầu. Mattie lắc lắc
Mullie trên tay.
- Mullie giận anh Chase lắm
vì anh không mách thầy.
- Sao em không báo thầy
Nelson
Chase nhăn mặt khi toa thuốc
mỡ lên bên má bị đau:
- Em không sợ thằng Lon.
Tôi dừng tay, nhìn thẳng mắt
cậu:
- Chị biết.
Cậu bé vùng vằng:
- Chị đừng đùa nữa mà.
Hai tay tôi buông thõng:
- Em nói đúng. Chị cố tình
làm như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng lần này không thể thế được nữa rồi.
- Mullie bảo bánh bích qui
thơm ghê.
Nghe thế, tôi chợt nhớ, bèn đứng
lên lấy bánh gói vào khăn ăn cho hai em đem về.
Ra đến cửa, tôi vỗ vai Chase:
- Rồi sẽ ổn cả thôi. Chúng
không dám làm gì em nữa đâu. Mà nếu có, nhớ báo thầy Nelson.
Chase kéo mạnh tay Mattie:
- Không cần đâu. Vì em sẽ
không đi học nữa.
Tôi đứng nhìn theo hai đứa
trẻ leo lên gò đá, lủi thủi về nhà. Những câu chữ tôi định viết trong thư gửi
cậu Holt lại tràn về. Tôi hít thật sâu, thật dài nhưng không trung không còn
mùi vị ngọt ngào hay phảng phất niềm hy vọng. Một mùi mới thoảng bay trong gió.
Nó khiến cổ họng tôi nghẹn đắng và tim đau thắt. Phải chăng đó là mùi của nghi
ngờ và sợ hãi?
Tôi cầm đôi găng bảo hộ lên.
Dù thế giới này có đi về đâu, đá trên ruộng tôi vẫn không tự biến đi được. Tôi
phải trở lại lo chuyện ấy đây.