Khoảng trời mênh mông - Chương 07

CHƯƠNG 7

Ngày 5 tháng Ba năm 1918

Cách Vida ba dặm về hướng Tây
Bắc, Montana

Charlie thân mến!

Tuyết trắng đẹp đẽ đang tan,
toàn vùng trở thành khu lầy lội bẩn thỉu. Chỗ nào cũng thấy bùn lầy nước đọng.
Sáng nay, em không đi ủng khi vào nhà kho vắt sữa bò. Bùn phủ lên mặt đất một
lớp dày. Tuần trước, em định gieo hạt thì bị anh Karl và Jim Gà Trống cười cho.
Anh Jim bảo: “Gieo hạt xuống sẽ thối hết cho coi”. Nghe thế, em đành phải ngừng
việc gieo hạt lại. Em định hôm nay sẽ tập làm hàng rào cho thạo vậy.

Thư anh, bức thư đầu tiên em
nhận được tại nhà mới ở Montana
này, toàn lỗ thủng. Chắc bị mối ăn hay sao ấy. Đội kiểm duyệt làm việc nghiêm
túc quá anh nhỉ! Nhờ họ mà thư anh giống như bài toán đố. Khi họ cắt vài đoạn ở
mặt giấy này, thì mặt sau đố ai hiểu nổi. Tuy nhiên, sau khi đoán, em biết khi
đến trại mới, anh nghỉ đêm trong doanh trại chứ không ngủ ngoài lều như trước.
Tuy nhiên, doanh trại cũng không hơn lều là mấy nếu mỗi đêm mưa, anh phải mặc
áo mới mong ngủ được.

Sau ván cờ vừa rồi (em thua),
Jim Gà Trống kể rất nhiều tin chiến sự. Anh ấy bảo quân Đồng Minh buộc lính Đức
phải trở lại Paris. Nhưng em buồn xo khi biết tàu Tuscania bị ngư lôi triệt hạ.
Mọi thủy thủ đều hy sinh. May mà ít nhất anh cũng ở trên cạn. Em không lo cho
bộ binh Mỹ vốn dũng cảm vô song mà lo tình hình ở hậu phương anh ạ. Ngày nào
cũng có thông báo, cáo buộc không ít người tội làm loạn. Hình như mọi hành động
đều bị coi là phản nghịch. Em đọc báo thấy nói giống chồn (dachshund dog) của
Đức giờ được coi là “chó tự do”. Nghe có lọt tai không chứ? Nghe nói ở đây
người ta cấm tiệt mọi từ ngữ tiếng Đức. Anh Jim nói nếu thế sẽ rất khó cho cha
Schatz và giáo dân thuộc giáo xứ Lu-ti: “Hay cha nói tiếng Hy Lạp, cô Hattie
nhỉ? Ngặt nỗi làm thế sao giáo dân hiểu được”. Jim ăn nói chua cay quá, em
không tiện nói ra. Cũng như Jim, em băn khoăn một chuyện: Hàng xóm chúng em thờ
Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của họ có hại gì đến ai?

Nhiều lúc, em không biết phải
nghĩ thế nào cho phải.

Cô bạn đang “trăm mối tơ vò” Hattie
Innez Brooks

Bởi chưa thể gieo trồng, tôi
quay sang công việc cần nhiều sức lực: làm hàng rào. Đó là một trong hai yêu
cầu phải thực hiện để được chính thức sở hữu trang trại. Một việc không làm
không được. Cậu Chester từng cố làm, nhưng kết quả chưa đâu vào đâu. Tôi quyết
tâm nhanh chóng nối thêm đoạn hàng rào mới làm được mười sải chân của cậu. Cậu
đã chuẩn bị nhiều nguyên vật liệu, đủ để đóng 480 cọc theo yêu cầu.

Một tối cô đơn trong tiết
trời giá rét, tôi ngồi tính chiều dài của hàng rào. Năm mét nhân với bốn trăm
tám mươi cọc. Hai ngàn bốn trăm mét. Tôi suýt bật khóc. Chả trách nông dân hay
nói đến số cọc: tính chu vi đất bằng cọc dễ hơn. Dù tính theo cách nào, tôi
cũng thầm khấn trời vì không phải mất tiền mua cọc. Nguyên vật liệu đang chất
đống sau nhà kho, chờ bàn tay sẵn sàng đưa chúng vào sử dụng: Chính là hai bàn
tay nhỏ bé của tôi đây.

- Ơn trời vì con có đôi găng
bảo hộ của mẹ Charlie cho.

Tôi bắt đầu buổi cầu kinh
sáng bằng câu nói ấy. Chắc mợ Ivy phải tái mặt khi thấy tôi sắp “ăn diện” ra
trò: Chân đi ủng bảo hộ cậu Holt cho, người mặc bộ quần áo lao động vá chằng vá
đụp anh Karl cho, tay đi đôi găng bằng vải bạt dày cứng, đầu đội mũ rơặc lưỡi
cầm cuộn dây thép gai, búa, nắm đinh rồi cặm cụi ra khe đá, nơi công việc còn
dở dang từ hôm qua. Tôi đang dựng hàng rào theo hướng Đông - Nam men theo chu
vi khu đất, ngay tại chỗ tiếp giáp với đất của anh chị Karl.

Nếu có ai nghĩ làm hàng rào
là việc tầm thường, dễ làm thì hãy để chính tay họ dựng khoảng mười mét rào, họ
sẽ phải nghĩ khác. Làm hàng rào nghe có vẻ đơn giản. Nhưng thực ra chẳng đơn
giản chút nào. Trước tiên, ta phải còng lưng đào hố chôn cọc. Tiếp đến, phải
khó nhọc đưa thân cây cao ngất ngưởng vào hố. Sau đó, phải xúc đầy đất vào hố,
nén đất thật chặt quanh cọc. Xong xuôi lại đào hố khác, trồng cọc khác. Suốt
một ngày liền, tôi chỉ làm bạn với cuốc chim và mai thuổng, cặm cụi đào hố chôn
cọc. Đêm đầu tiên, hai bàn tay tôi phồng rộp, rát bỏng đến độ trong bữa tối tôi
không đưa nổi thìa lên miệng. Đêm thứ hai, tôi thoa hỗn hợp dầu xoa bóp trắng
lên tay. Dầu được chế theo công thức của cậu Holt gồm armoniac, cồn thuốc kim
sa, nước ép từ vỏ hạt cây phỉ, nhựa long não, trứng, và rượu táo. Ơn trời, dù
nặng mùi nhưng dầu giúp giảm đau rất tốt. Đêm thứ ba, tôi quá đói và mệt đến độ
hai bàn tay mất hết cảm giác.

Tôi làm một chiếc thuyền đá
cho Plug kéo. Khi nhìn kỹ khu đất phủ đầy đá lớn nhỏ thuộc trang trại của mình,
tôi cảm giác mình hơi giống Noah. Noah tìm cách dựng con thuyền nổi trên mặt
biển cuộn sóng. Còn tôi tìm thuyền đá “nổi trên” đất đồngcỏ mấp mô. Cuối cùng,
tôi cũng tìm thấy tảng đá dẹt, chắc chắn nhưng không quá nặng so với sức con
Plug. Khi thấy anh Karl mang dụng cụ làm đất tới gần ranh giới giữa hai nhà tôi
đã học được từ anh mẹo dùng thuyền đá. Nếu không, chắc đến chín mươi tuổi tôi
vẫn chưa khiêng hết sốcọc bằng thân cây liễu quí giá và dây kẽm ra nơi dựng
hàng rào. Tôi thầm cảm ơn Karl.

Khi buộc xong đống vật liệu
vào viên đá dài hình tựa con thuyền, tôi hò ngựa. Hai chúng tôi cùng lên đường.
Hôm trước, tôi dừng tay ở gần cây anh đào dại um tùm. Hôm nay, tôi định sẽ
giăng dây kẽm cho một số cột hôm qua. Nếu may mắn, tôi sẽ trồng thêm được vài
cọc nữa.

Phải chật vật lắm tôi và Plug
mới lội bùn đến được dãy hàng rào.

- Sao lạ thế này?

Tôi với tay bíu lấy thân anh
đào, còn dụng cụ trong tay thi nhau rơi tự do. Định thần nhìn lại, tôi cúi
xuống nhặt chúng lên. Đúng ở bụi cây này, tôi dừng tay hôm qua. Nhưng hôm nay,
hàng rào của tôi không dừng lại ở đó. Nó chạy thẳng tắp thêm một đoạn có chiều
dài khoảng bốn mươi cọc nữa. Tôi đến tận nơi xem cho rõ. Đây rõ ràng là phần tôi
làm hôm trước: đinh cong oằn giữ dây kẽm chạy thành đường nghoằn nghèo, tuy
nhiên vẫn đủ chắc để dây bám được trên cọc.

Nhưng từ gốc cây anh đào trở
đi, đinh được đóng gập xuống, thật vuông đẹp. Tôi còn nhớ cách đây đã lâu lắm
rồi, mẹ có đọc tôi nghe chuyện có bác thợ giày nọ dùng mảnh da cuối cùng để may
giày cho ba nàng tiên. Từ hôm đó, ngày nào bác cũng thấy có đôi giày mới tuyệt
đẹp trên kệ giày nhà mình. Các nàng tiên đã trả ơn lòng tốt của bác như thế đó.

Còn chuyện tôi ngờ vực lúc ấy
không phải trong thế giới thần tiên. Đây là thế giới thực. Tôi bắt tay vào việc
ở ngay chỗ “vị tiên” dựng hàng rào cho tôi kết thúc lúc trước. Khi kéo căng dây
rồi đóng đinh, tôi nhớ câu chuyện trong tiệm thực phẩm giữa ông Hanson và chị
Perilee. Nhớ bao người thân quen muốn ăn dưa trong bữa tối phải gọi dưa cải
muối theo kiểu Đức là “bắp cải tự do”. Nhớ Charlie nghe lệnh cấp trên, hăng máu
lao ra sa trường kết liễu đời một hoặc hai tên lính Đức. Có nhiều rào giậu trên
đời ngăn cách, chia lìa hàng xóm láng giềng, giống hành động của vua Đức và
những người dưới quyền ông ta. Nhưng cũngcó những loại hàng rào đưa bà con lối
xóm xích lại gần nhau hơn, giống đoạn hàng rào anh Karl Mueller đã dựng giúp
tôi hôm trước. Anh không nói ra nhưng tôi đã hiểu tất cả.

Tôi vỗ về con ngựa già:

- Này Plug, chuyện này chắc
tao nhớ thư gửi Charlie khi trước. Cuộc đời giống câu đố đầy bí ẩn. Tao phải
sống bao lâu mới hiểu hết sự đời hả mày?

Cách trả lời duy nhất của nó
là lảng đi tìm mảng cỏ xanh hơn.

Tôi cắm cúi làm cật lực
trướckhi trở vào nhà ăn trưa. “Ngài” Whiskers chễm chệ ngồi trên lồng gà trống
trơn, cẩn thận liếm bàn chân lấm bùn. Cái lồng nhắc tôi nhớ ý định sẽ mua gà
của nhà Sears và Roebuck.

Vừa định vào nhà, tôi bất
chợt đứng sững. Có tiếng động phát ra từ nhà kho. Chắc chắn không phải tiếng
động của bò. Bất giác, tôi thấy lạnh sống lưng. Đoán già đoán non mãi, tôi vẫn
không thể đoán ra cái gì, hay đúng hơn là ai đang ở trong đó. Lăm lăm búa trong
tay, tôi rón rén đi về phía nhà kho. Trướckhi kịp nghĩ xem nên làm gì kế tiếp
thì cửa nhà kho bật mở. Một phụ nữ cao gầy bước ra. Thoạt nhìn, bà đã biết ngay
tôi định làm gì.

- Định phang cô một búa chứ
gì?

Bà tiến thêm một bước về phía
tôi. Nhờ thế, tôi mới thấy có khẩu súng săn dựng sát tường, phía sau lưng bà.

- Cô là…

Bà chìa bàn tay rộng bản
nhưng chỉ có bốn ngón:

- Ta làm quen nhé. Cô là
Leafie Purvis.

- Khách thường vào nhà, không
vào kho.

Người lạ có giới thiệu tên,
nhưng tôi không quen người này, cũng không biết bà ta là người như thế nào.

Nghe tôi nói, Leafie cười
lớn:

- Nhìn là biết ngay người nhà
Chester. Tôi hạ “vũ khí” xuống:

- Cháu là Hattie Brooks, cháu
ruột của ông.

Cô Leafie lúi húi sau bó cỏ
khô:

- Cô biết. Giúp cô một tay
nào.

Sát bức tường phía sau nhà
kho là một chiếc rương bằng gỗ có ba dây đai bằng da bền chắc cột chặt phần nắp
vào thân rương. Ba chữ cái CHB được khắc trên quai da chính giữa.

- Rương của cậu cháu ạ?

Liệu trong rương này có chứa
thứ gì kể về quá khứ của tôi chăng? Hay về mẹ tôi chẳng hạn? Cô Leafie giải
thích:

- Chester là người kín đáo.
Khi ốm nặng, ông nhờ cô chuyển rương xuống đây. Trước khi cháu tới, ông không
muốn ai lục lọi nó hết. (Tôi vuốt đoạn dây bằng da cũ sờn rồi dừng tay ở phần
khóa. Khuôn mặt đầy nếp nhăn của bà thoáng buồn). Chester mong đích thân cho cô
cháu gái xem mọi thứ trong rương, nhưng không kịp.

Tôi nhớ lời chị Perilee kể
lúc trước:

- Cảm ơn cô đã có mặt khi cậu
cháu qua đời.

- Nếu chúng tôi có chuyện,
Chester cũng có mặt ngay.

Bà lấy trong túi áo sơ mi
kiểu đàn ông một túi vải đựng thuốc lá. Mợ Ivy nhìn thấy chắc sẽ ngã lăn ra bất
tỉnh, còn tôi thầm thán phục nhìn cô Leafie khéo léo vấn thuốc thành điếu.

Thấy chiếc rương, tôi hiếu kì
lắm rồi. Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng nói năng phải phép:

- Mời cô vào nhà dùng bữa với
cháu. Ngựa của cô có cần uống nước không ạ?

Cô Leafie cười thành tiếng,
đồng thời thở ra một làn khói mỏng trước khi ho sù sụ:

- Cô đi bộ.

- Cô bảo sao cơ ạ?

Bà kéo váy để lộ đôi giầy cao
cổ bền chắc:

- Cô đi bộ mà. Lội bùn có cái
khó là: nếu đi một bước, ta phải lùi hai bước. (Cô lại cười). Cách duy nhất để
đến nơi định đến là đi về phía ngược lại.

Tôi cũng bật cười. Thấy cô
vui như vậy, tôi khó mà nghiêm trang được:

- Anh Jim bảo mùa hè còn tệ
hơn mùa xuân. Cô Leafie vuốt trán:

- Cậu ấy nói đúng đấy. Cô thà
ngã như vồ ếch còn hơn bị nướng chảy mỡ. (Cô chỉ tay vào ngực) Không có ngựa
nên cô đủ nước cho mụ già này uống.

- Cháu hâm cà phê nhanh lắm.
Nếu cô không chê món đậu…

Tôi vừa ra khỏi cửa kho, mặt
đất tức thời rung chuyển:

- Cái gì thế không biết.

Tôi nhìn quanh và thấy nơi
phát ra tiếng ầm ầm.

Một nhóm người cưỡi ngựa, có
lẽ lên tới sáu người, phi rầm rập trên đồng cỏ. Hóa ra họ đang đuổi theo một
con bò cái chạy như điên cuồng phía trước. Đám người ngựa dồn con bò chạy ngoằn
ngoèo trên cánh đồng ruộng. Cuồi cùng, nó lồng lên, chạy xuống khe đá và hướng
thẳng về phía lều của tôi.

Tôi hét lên.

- Coi chừng!

Nhưng người và ngựa không hề
chậm bước. Giờ tôi đã thấy rõ nhóm có bốn người. Kìa là bốn con ngựa và một con
bò lao thẳng vào nhà tôi. Tôi vội đuổi theo họ:

- Dừng! Dừng lại!

Tôi gào to như muốn xé cuống
họng. Hình như có người trong nhóm cưỡi ngựa đang cười hố. Cả nhóm vẫn rầm rập
lao về phía nhà tôi. Họ định dồn con bò chạy xuyên qua căn lán ọp ẹp của tôi
chăng?

- Bùm!

Tiếng nổ phát ra ngay phía
sau lưng tôi. Tôi quay ngắt lại thì thấy cô Leafie đứng đó, nòng súng chĩa lên
trời sẵn sàng nhả phát đạn kế tiếp.

- Bùm!

Nhóm trưởng đột ngột ghì
cương. Anh ta giơ hai tay lên trời, ra hiệu cho những người khác. Họ cùng quay
ngoắt lại và bỏ đi, mặc con bò ở lại. Nó chạy chậm dần rồi dừng ngay cạnh ngôi
nhà, hai mạng sườn phập phồng theo hơi thở gấp.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, lau
lòng bàn tay ướt mồ hôi vào áo bảo hộ:

- Họ chạy đâu rồi? Liệu họ có
quay trở lại không hả cô?

- Có đấy, nếu sắp tới họp
mặt, họ rỉ tai nhau rằng quanh đây có chuyện. Nhưng theo cô, cháu chẳng việc gì
phải lo. Đừng giây vào họ là được. Nhưng cháu phải nhớ lời cô dặn đấy.

Cô đưa cho tôi khẩu súng. Cô
Leafie bước đến gần, dạn dĩ nắm vòng dây da ở cổ con bò lạ dắt nó vào kho:

- Tội nghiệp quá, cho nó uống
nước đi cháu. Này Violet, mày có khách.

Tôi đi theo cô, tay cầm súng
run lẩy bẩy. Tôi ngồi bệt ngay cạnh rương của cậu Chester:

- Chuyện vừa rồi là thế nào
ạ?

Cô lắc đầu:

- Chẳng ai ưa Traft Martin và
cái gọi là Hội đồng Tự vệ Hạt Dawson. Tin bài về những Hội đồng như thế hiện
đăng nhan nhản trên các báo. Chính thống đốc bang chỉ định người tham gia Hội
đồngTự vệ.

- Cháu tưởng Hội đồng là một
tổ chức ái quốc? Mục đích là vận động nhân dân tuân thủ nguyên tắc về lương
thực, thực phẩm thời chiến, mua Trái phiếu Tự do?

Cô Leafie bĩu môi:

- Theo cô biết, Hội đồng là
cái cớ cho người lớn vin vào đó để hành động như lũ học trò hư hỏng. Ái quốc
kiểu gì mà đuổi bò người ta chạy trối chết như thế? Cô vỗ mạnh sườn con bò. Nó
giật mình nhưng vẫn tiếp tục ăn Cuộc chiến này đang khiến người ta quên cả tình
hàng xóm láng giềng.

- Bò nhà ai thế ạ?

- Cô định thế này. Trên đường
đến trại cừu nhà Ellie Watson, cô sẽ mang con bò này trả lại cho nhà Perilee.

Nghe vậy, lòng tôi quặn thắt.

- Cháu không hiểu. Sao họ lại
làm thế? Anh Karl và chị Perilee là hàng xóm tốt mà.

Ngoài kia còn có đoạn hàng
rào vững chắc chứng minh lời tôi vừa nói. Cô Leafie lấy chăn ngựa cũ lau mình
con bò:

- Chiến tranh cho bọn người
kia cái cớ họ cần. Mọi trò đều xoáy vào chuyện gốc gác. Đáng lẽ thứ quan trọng
phải là cách cư xử, ăn ở của người ta trên đất Mỹ chứ. (Cô Leafie quăng mảnh
chăn sang một bên trước khi đến gần tôi). Mà thôi, cháu đừng bận tâm về những
gì cô nói. Cô cứ hay xù lông và mổ tứ tung như ả gà mái già xấu tính ấy mà. (Cô
vỗ mạnh vào cánh tay tôi). Tốt hơn hết, cô nên đi lo chuyện của mình trước đã.

Tôi tìm đoạn dây thừng đưa
cho cô quấn quanh cổ bò. Làm xong, cô quay lại nhìn tôi:

- Cháu có súng không?

Tôi nhớ chuyện con sói:

- Không ạ. Cháu chưa từng bắn
phát đạn nào.

- Chớ có dùng súng để gây sự
chú ý đấy nhé.

Trước khi tôi kịp đáp lời, cô
đã đi ngang qua sân, sau đó cùng con bò lội bùn đến trại cừu, đồng thời đó cũng
là đường đi ngang qua nhà anh chị Mueller.

Khi cô Leafie đi khuất dạng,
tôi chợt nhớ cô chưa uống miếng nước, hay cà phê, hay dùng món xúp đậu tôi làm.
Mong nhà Watson sẽ mời cô dùng bữa. Tôi trở vào kho. Hai đầu gối vẫn còn run
bần bật sau câu chuyện con bò, tôi quỳ xuống cạnh cái rương, vuốt nhẹ dây đai
bằng da. Cậu Chester muốn cho tôi xem cái gì? Liệu có tìm thông tin gì làm sáng
tỏ cuộc đời bí ẩn của cậu trong rương này không? Tôi tháo khóa đai bên trái,
rồi bên phải, trước khi chầm chậm mở nắp rương. Cái nắp nặng nề, chắc chắn. Đủ
bền chắc để giữ an toàn cho hầu hết mọi điều bí ẩn trên đời.

Trật tự trong rương cũng ngăn
nắp chẳng kém ngôi lều chật chội, bẩn thỉu trước khi tôi đến. Quần áo xếp thành
chồng từ đáy rương. Nhét giữa các chồng quần áo là bít tất, quần dài và nhiều
đồ vật nho nhỏ: vé xem xiếc, vé khiêu vũ, bưu thiếp rẻ tiền vài tấm hình. Tôi
nhìn kĩ từng khuôn mặt trong hình nhưng chẳng nhận ra ai. Tôi lùa tay xuống sâu
hơn, bỏ qua chồng sách giấu phía dưới. Trong một gói giấy nâu, cột bằng dây vải
chúc bâu, một mẩu vải như vải áo con gái thò ra. Trông như một mảnh vải may
chăn ghép của ai đó. Nhưng của ai mới được? Màu vải còn tươi mới, hình như chưa
giặt lần nào. Đó có phải một phần nỗi buồn cậu Chester thường mang nặng trong
tâm ư? Mảnh vải nhỏ của tình yêu thời tuổi trẻ không có hồi kết vì một nguyên
do thật buồn?

Tôi chưa tìm thấy trong rương
có thứ gì cậu Chester phải nhờ cậy cô Leafie cất giấu thật kĩ, sợ người đời dòm
ngó. Tôi không thấy có manh mối nào dẫn đến quãng đời “du thủ du thực” (như cậu
nói). Không có hình cha mẹ tôi như tôi mong đợi. Tôi trả lại mọi thứ vào rương,
hạ nắp xuống và cài khóa dây đai như cũ.

Ngày hôm nay bày ra nhiều
điều bí ẩn từ chiếc rương, chẳng khác nào cuộc đời cậu ruột tôi. Nó nhắc tôi
nhớ một động tác ném bóng mà Charlie phải cố lắm mới dạy tôi ném thành thạo
được. Anh gọi là “đường bóng rắn”. Theo cách đó, người vụt bóng sẽ không biết
bóng sẽ đập vào đâu. Đôi khi, ngay cả người ném cũng không biết nốt.

Hôm nay có thể gọi là ngày
“đường bóng rắn”. Nào là chuyện anh Karl dựng hộ hàng rào, nào là chuyện gặp cô
Leafie, nào là chuyện cái rương, nào là Hội đồngTự vệ và trò đuổi bò điên
khùng. Ai biết được hôm nay sẽ xảy ra lắm chuyện như vậy.

Tôi cố đứng thẳng dậy. Khi
đầu óc dịu lại cũng là lúc dạ dày lên tiếng phàn nàn. Đành gác cuộc đời đầy bí
ẩn lại. Giờ tôi phải tìm cái gì bỏ bụng cái đã.

Một ngày sau khi cô Leafie
đến, tôi cặm cụi nhặt đá trên khoảnh đất dự định trồng lúa mì. Khi tôi hỏi tại
sao nhà nào cũng nhặt đá vun dưới chân rào, chị Perilee dùng ngay kinh thánh
trả lời tôi:

- Em còn nhớ chuyện ngụ ngôn
kể về người gieo hạt không? Còn nhớ đoạn hạt giống thối hết khi gieo trên đất
đá đầy sỏi không? (Chị vục một nắm đất tơi xốp lên tay). Cưng à, nếu em không
nhặt hết đá trước khi gieo hạt, chẳng cây nào mọc được đâu.

Vì thế, tôi lại cặm cụi ngoài
đồng, tự hủy hoại sống lưng và hai bàn tay trong trò nhặt đá ném dưới chân dãy
cọc làm hàng rào xiên vẹo. Trong lúc đó, “Ngài” Whiskers mải miết đuổi theo một
con rắn lành từng khiến tôi sợ chết khiếp. Một con rắn bé tẹo teo cố co mình
lấy sức và lao thẳng vào “Ngài” Whiskers làm con mèo già nhảy dựng lên cả mét
trên không trung. Tôi bảo nó:

- Nếu ở đây có chợ bán đá và
rắn, chắc tao có đủ tiền mua cả hạt Dawson này rồi.

“Ngài” Whiskers không thèm
trả lời, nó mải mê chạy theo một con chim nhỏ đang tìm sâu quanh đó.

Vừa ngẩng lên, cột lại dây mũ
tôi thấy một người cưỡi ngựa tới gần. Anh ta kiêu kỳ ngồi thẳng trên yên ngựa:

- Chào quý cô. Mang tiếng là
hàng xóm, thế mà mãi đến giờ mới giáp mặt.

Nói đến đây, anh ta xuống
ngựa, chìa bàn tay phải ra. Tôi đi ngang qua miếng đất nhỏ xíu vừa nhặt hết đá
để cầm lấy bàn tay người lạ:

- Tôi là Hattie Brooks.

- Tôi là Traft Martin.

Tôi sững sờ. Dù cô Leafie có
nói gì về anh ta và Hội đồng Tự vệ, tôi vẫn cho rằng người đẹp trai thế này
chắc chẳng đến nỗi xấu bụng lắm.

- Tệ thật, đáng lẽ ta phải
làm quen rất lâu rồi mới phải.

Anh ta mỉm cười, nụ cười
quyến rũ trên khuôn mặt còn quyến rũ hơn. Người này chắc chắn không quá hai
mươi tuổi.

Tôi kéo chiếc mũ ra sau đầu:

- Tôi tưởng Chủ nhật mọi
người đều đi lễ?

Anh ta lại cười, lần này cả
cặp mắt cũng cười theo:

- Tôi đang định đến nhà Jim
Gà Trống bàn về chuyện ngựa.

Tôi nhớ Jim từng kể Traft
Martin thích ngựa của anh. Tôi đoán:

- Không bán chứ gì?

Có cái gì đó ẩn sau ánh mắt
đang nhìn lảng của Traft Martin:

- Chưa bán thì đúng hơn.

Sống lưng tôi bất chợt lạnh
buốt gióng giả: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Lúc này đây, trong tâm trí tôi, câu
nói ấy gắn liền với khuôn mặt Traft Martin. Tôi cúi xuống làm tiếp công việc
còn dang dở:

- Traft Martin, mong anh thứ
lỗi, nhưng trước khi trời tối, tôi còn phải làm đất cho xong cả cánh đồng này.

Tôi khoát tay chỉ xuống mặt
đất đầy sỏi đá. Traft rút túi vải đựng thuốc lá, quấn thuốc hút:

- Tôi phục cô đấy. Nhặt đá
vất vả quá. Chưa kể cô chỉ có một mình.

Tôi vừa cúi xuống định nhặt
một hòn đá nhưng chợt dừng tay. Câu anh ta nói khiến tôi phải chú ý: giọng nói
mang âmvực của người từng nếm trải mùi vị của sự cô đơn. Trơ trọi, một mình.

- Tôi quen vất vả rồi.

Cục, cục, cục. Tôi nhặt được
thêm ba hòn đá.

Không nói thêm một lời, Traft
đến bên tôi cùng nhặt đá. Cục, cục, cục. Tôi can:

- Không cần đâu anh Traft.

Anh ta nói qua kẽ răng đang
cắn chặt điếu thuốc:

- Chỉ muốn làm láng giềng tốt
thôi mà.

Cục, cục, cục. Tôi bối rối
quá. Theo bà con quanh vùng, ác quỉ vẫn còn là thánh khi so với Traft Martin.
Nhưng ác quỉ nào lại đi nhặt đá giúp người thế này? Tôi nghĩ mãi không ra. Hai
chúng tôi cùng cặm cụi dọn đá trên ruộng suốt một tiếng đồng hồ, có khi hơn.
Mặt trời trượt dần xuống phía chân trời xa thẳm. Traft đưa cổ tay lên lau mồ
hôi trán:

- Chắc tôi phải đi đây. Tôi
phủi tay:

- Anh tốt bụng quá. Tôi cảm
ơn anh nhiều!

- Chắc cô cũng đồng ý với tôi
là hàng xóm láng giềng nên giúp đỡ lẫn nhau?

- Anh nói phải.

Sau khi lịch sự gật đầu chào
tạm biệt, Traft leo lên ngựa, ra hiệu con tuấn mã quay đầu lại:

- Cô Brooks, hân hạnh được
làm quen với cô. Ta đi nào, Rắc Rối.

“Ngài” Whiskersên, nũng nịu
dụi đầu vào chân tôi. Tôi trầm ngâm giây lát rồi cúi xuống gãi nhẹ sau tai con
mèo:

- Ai lại gọi ngựa là Rắc Rối.
Tao thấy có lý nhất là dùng nó làm tên đệm cho Traft Martin.

Tối đó, căn lều trở nên ngột
ngạt đến nỗi tôi phải mang sách ra ngưỡng cửa ngồi đọc. Mới xem qua vài trang,
tôi đã bỏ sách xuống. Cảnh Traft giúp tôi ngoài đồng sáng nay khiến tôi nhớ mùa
hè nọ, Charlie cùng tôi sơn hàng rào ở Arlington. Khi hai đứa cùng chung tay,
sơn rào không còn là công việc mà là một trò chơi thú vị.

Tôi dựa lưng vào mặt ván xù
xì, ngước lên ngắm bầu trời Montana. Tôi biết trời chỉ có một: Trời ở Iowa, ở
Pháp (nơi có Charlie), hay ở đây đều giống nhau. Nhưng với tôi, bầu trời này
không giống bất cứ nơi nào khác. Không có nhiều cây xanh hay núi non thu hẹp
tầm nhìn, cho ta cảm giác bầu trời như thấp xuống. Không hề. Trời ở đây cao
lồng lộng và trải dài tít tắp, giống như bức tranh kỳ diệu lồng trong khung
kính vô hình. Ở Iowa, tôi dành khá nhiều thời gian rảnh rỗi quý báu ngắm mây và
sao. Có lúc, nằm trên bãi cỏ phía sau nhà mợ Ivy và cậu Holt, tôi cảm tưởng chỉ
cần vươn tay cào mạnh dưới vòm trời, tôi sẽ vơ về một nắm sao.

Nhưng ở Montana, ngay cả một
người khổng lồ cao lớn nhất trong trí tưởng tượng của tôi cũng không thể hái
được sao. Vòm trời nơi đây cho tôi cảm giác thân phận mình giống cây xương rồng
đầy gai từng bị tôi dẫm bẹp: một con người nhỏ bé, không thân thế sống trên
đồng cỏ gần Vida. Nhưng không thể nói tôi cô đơn. Sao có thể cô đơn được? Hầu
như ngày nào đi học về, Chase và Mattie cũng ghé tôi chơi. Dấu chân Jim Gà
Trống đang định hình một lối mòn ngày càng rõ nét nối lều của anh với chòi của
tôi. Liệu có từ ngữ nào trong cuốn tự điển của cậu Chester miêu tả được cảm xúc
của tôi lúc này? Cô độc ư? Trơ trọi ư? Tôi tâm sự với “Ngài” Whiskers:

- Vở Cô gái già miêu tả đúng
cảm giác của tao. Cảm giác của một người thừa.

Con mèo ngọ nguậy trong lòng
tôi, gừ gừ phản đối. Tôi vuốt cái đầu có mảng lông màu sẫm của nó.

- Nói thế không có nghĩa là
mày không phải bạn tốt. Nhưng để làm tốt công việc trong trang trại nhỏ này,
tao cần nhiều thế.

“Ngài” Whiskers nằm nghiêng
đòi gãi bụng. Mọi thứ nó cầnchỉ là một nơi để ngủ, chút thức ăn và thỉnh thoảng
được cưng nựng vỗ về. Chắc tôi cũng nên noi gương nó, thôi ủ rũ để bắt đầu lo
cho tháng mười một tới. Mơ tới lúc ngẩng cao đầu bước vào văn phòng ông Ebgard.
Tôi nhắm mắt hình dung cánh đồng lanh vào mùa thu tới. Chị Perilee bảo trông nó
giống mặt biển toàn màu xanh mát mắt. Còn đồng lúa mì thì mượt mà vàng óng. Tôi
còn hình dung cả dãy hàng rào chạy dài đánh dấu phần đất do tôi sở hữu.

- Được làm chủ đất cũng
khoái, mày nhỉ?

“Ngài” Whiskers khẽ đập chân
vào tay tôi. Đôi mắt sáng trong xanh của nó nhìn tôi với vẻ đồng tình. Nó đã
chán vuốt ve. Tôi cũng thôi ủ rũ. Tại đây, dưới khoảng trời mênh mông này, một
kẻ cù bơ cù bất như tôi, nếu muốn có một nơi an cư lạc nghiệp, chỉ cần lao động
chăm chỉ. Chẳng phải với tôi, một nơi hoàn toàn thuộc về mình là ước mơ to lớn
và sâu thẳm nhất đó sao?

Một cảm giác ấm áp bao bọc
lấy tôi, tựa như một tấm chăn mềm mại. Tôi thì thầm lời cảm tạ Thượng đế, trở
vào lều, tắt đèn và đi ngủ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3