Vân Trung Ca - Quyển 3 - Chương 07 phần 1
Chương 7: Kiếm cũ tình thâm ngàn năm ca tụng, lòng người khó dò là quy
luật muôn đời.
(Cố kiếm tình thâm thiên tái tụng,
nhân tâm nan trắc vạn cổ lí.)
[7.1]
Dân gian nếu có trưởng bối qua đời,
cần phải để tang ba năm mới có thể bàn tới chuyện kết hôn, trong hoàng tộc thì
lấy tháng thay cho năm, kì tang “ba năm” sớm hết. Hoắc Thành Quân giống như mọi
người dự liệu, thuận lợi vào cung, được phong Tiệp dư, ban ở Chiêu Dương Điện.
Có điều bởi vì Hiếu Chiêu hoàng đế* còn chưa hạ táng, cho nên vẫn chưa cử hành
lễ mừng trọng đại gì cả.
*Thụy
hiệu của Phất Lăng, vẫn gọi tắt là Hán Chiêu Đế.
Đám quan viên so sánh cung điện Hứa
Tiệp dư và Hoắc Tiệp dư ở, ai nặng ai nhẹ cũng chỉ liếc mắt một cái là sáng tỏ,
một đám bắt đầu cân nhắc chuẩn bị lễ vật như thế nào, để tới thời điểm có thể
đưa đến Hoắc phủ nhanh nhất, chúc mừng tiểu thư Hoắc gia được phong hoàng hậu.
Sau khi Hoắc Thành Quân vào cung
không lâu, một cỗ kiệu nhỏ che màn xanh khiêng một nữ tử khác vào Vị Ương Cung.
Nàng thị tẩm Lưu Tuân một lần, sau đó được phong hào là “Trường sử”, ban ở Ngọc
Đường điện hẻo lánh. Phẩm cấp “Trường sử*”, nghe thấy tên là có thể hiểu rõ,
cùng lắm là so với cung nữ bị sai bảo bình thường có hơn một chút, cho nên
trong triều, tất cả mọi người đều không hề lưu ý. Chỉ có Hứa Bình Quân ở Kim
Hoa điện và Đại Tư Mã Hoắc Quang là lưu ý tới nữ tử họ Công Tôn này.
*Trường
sử: trường nghĩa là dài, sử là sai bảo.
Bởi vì Lưu Phất Lăng tráng niên
băng hà, ra đi trong lúc vội vàng, đế lăng còn chưa xây xong, cho nên trì hoãn
không thể hạ táng. Đối với chuyện an táng Lưu Phất Lăng như thế nào, Lưu Tuân
thập phần khó xử. Nếu cử hành lễ tang long trọng, một là quốc khố eo hẹp, hai
là thời gian lại phải trì hoãn thêm rất lâu, thi công đế lăng thường thường cần
nhiều năm, thời tiết lại dần nóng lên, dù sao cũng không tốt cho việc đặt tử
cung*. Chỉ là nếu đơn giản, hắn lại sợ sau này triều thần chỉ trích.
*Cỗ
áo quan của vua được gọi là tử cung (梓宫).
Vì việc này, Lưu Tuân vài lần trưng
cầu ý kiến của Hoắc Quang, nhưng Hoắc Quang này là lão hồ ly, cũng không trực
tiếp trả lời hắn, lúc nào cũng qua loa tắc trách nói: “Thần nghe theo ý chỉ của
hoàng thượng”, khiến cho những triều thần khác lại càng không dám nói lời nào.
Bất đắc dĩ, Lưu Tuân chỉ có thể tới Trường Nhạc cung, xin chủ ý của Thượng Quan
Tiểu Muội.
Lưu Tuân vốn chuẩn bị vô số lời
thuyết phục, muốn làm như thế nào khéo léo nhất để thuyết phục Thượng Quan Tiểu
Muội đồng ý mau chóng phát tang, dù sao việc này cũng quan hệ tới tôn quý và
thể diện của Thượng Quan Tiểu Muội trước mặt toàn thiên hạ, khẳng định Thượng
Quan Tiểu Muội không hy vọng tang sự đơn giản. Không ngờ, Thượng Quan Tiểu Muội
nghe xong ý đồ hắn đến, không chờ hắn mở lời, đã nói: “Ai gia sẽ ban ý chỉ, cấm
xa hoa, chỉ đơn giản.”
Có ý chỉ của Thượng Quan Tiểu Muội,
bất luận là có sai lầm gì, tương lai đều không cần hắn gánh vác trách nhiệm.
Lưu Tuân đối với Thượng Quan Tiểu Muội cảm kích lại tăng thêm một bậc, cúi đầu
bái lạy, “Hoàng tôn thay lê dân thiên hạ tạ ơn hoàng tổ mẫu.”
Tiểu Muội chỉ khẽ cười thản nhiên,
phảng phất giống như không có. Phất Lăng đã khi nào coi trọng những thứ này?
Xem thế cục hiện tại, chiến sự giữa Hán triều và Khương tộc chỉ sợ không thể
tránh khỏi, quân hưởng* và lương thảo đều là khoản phí tổn lớn, nếu ta muốn đại
táng, ngược lại còn làm hắn không vui.
*Quân
hưởng: tiền lương của quân đội.
Có ý chỉ của Thượng Quan thái hoàng
thái hậu, hết thảy đều dễ dàng rất nhiều. Qua hơn hai tháng xây dựng gấp rút,
đế lăng đã gần hoàn thành. Sau khi triều thần thương nghị, quyết định lễ tang
của Hiếu Chiêu hoàng đế vào một tháng sau, do Thái Thường* Thái Nghĩa chủ trì,
an táng tại Bình lăng.
Hoắc Quang nói tin tức này với Vân
Ca, hỏi nàng có muốn trước ngày đại táng, một mình tới làm lễ truy điệu cho
Hiếu Chiêu hoàng đế hay không, ông ta có thể an bài giúp nàng. Phản ứng của Vân
Ca lại ngoài dự liệu của Hoắc Quang, nàng ngẩn người một hồi, giống như là
không rõ Hoắc Quang đang nói với ai, “Ta vì sao lại muốn làm lễ truy điệu cho
Hiếu Chiêu hoàng đế?”, rồi xoay người, tự mình rời đi.
*Thái
Thường là tên chức quan.
Hoắc Quang chỉ có thể trong lòng
ngầm lo sầu trăm mối. Từ khi Vân Ca tới ở Hoắc phủ, lúc nào cũng là vẻ mặt
không lạnh cũng không nóng. Trước kia, tâm tư của Thành Quân, ông ta còn có thể
nhìn mà hiểu được, nhưng tới hôm nay, cũng giống như Vân Ca, tâm tư ẩn sâu, để
mặc cho người khác phỏng đoán. Trước khi Thành Quân tiến cung, Hoắc Quang nhiều
lần muốn khuyên nàng một chút, nhưng nàng cũng không cho ông ta có cơ hội mở
miệng. Bất đắc dĩ, Hoắc Quang chỉ có thể chờ thời gian hóa giải tất cả, cũng
chỉ có thể hi vọng thời gian có thể hóa giải tất cả.
Ngày Hiếu Chiêu hoàng đế hạ táng,
Ti Thiên Giám dự đoán là một ngày trời trong xanh. Nhưng vào ngày đó, khi quan
cữu mới ra khỏi Vị Ương Cung, bầu trời trong xanh đột nhiên biến thành trời đầy
mây, ngay sau đó, mưa nhỏ tí tách, tí tách rơi xuống không ngừng. Từ mùa xuân
tới mùa hạ, tám trăm dặm quanh Tần Xuyên vẫn không có mưa, Lưu Tuân sốt ruột
đến độ mỗi ngày khó có thể yên giấc, trên môi đã nổi lên mụn nước. Hôm nay,
bỗng nhiên có mưa, mặc dù đường lầy lội khó đi, thân thể bị ngấm nước mưa lạnh
run, nhưng trong lòng lại trở nên thoải mái hiếm thấy.
Cả nước đều để tang, đưa mắt nhìn
khắp chốn, chỉ thấy thiên địa trắng xoá một màu. Một lần rồi lại một lần lễ
bái, một đạo rồi lại một đạo chiếu thư, tới khi toàn bộ đại lễ cử hành xong,
thời điểm phong kín mộ, trong lòng Lưu Tuân đột nhiên căng thẳng, không lập tức
mở miệng truyền chỉ, theo bản năng nhìn về bốn phía lăng mộ. Sau khi quét mắt
một vòng, lại không thấy người nên đến đưa tiễn nhất. Hắn lại đưa mắt nhìn
hướng bách quan đang quỳ, cũng trong vòng dự kiến, nhưng cũng ngoài dự kiến,
Mạnh Giác không biết từ khi nào đã rời đi. Lưu Tuân thu hồi tầm mắt, nhìn vào
lăng mộ Hiếu Chiêu hoàng đế sắp an nghỉ, trong lòng đan xen hỗn loạn nhiều cảm
xúc, chậm chạp không lên tiếng.
Các vị quan viên nghĩ rằng tân đế
Lưu Tuân không muốn xa Hiếu Chiêu hoàng đế, đám người đột nhiên khóc lớn lên, đều
dùng hết khí lực kêu khóc, e rằng chỉ riêng mình không thể hiện đủ thương tâm.
Cơn gió lạnh lẽo cùng với màn mưa
rét buốt, thiên địa một mảnh tiêu điều.
Ngược lại, Thượng Quan Tiểu Muội
lại có vẻ mặt đờ đẫn, lạnh lùng gọi một tiếng “Hoàng thượng”.
Lưu Tuân trong lòng chấn động, mê
mang trong mắt biến mất không thấy, chỉ còn lại kiên nghị. Hắn quay sang Thái
Nghĩa gật gật đầu, Thái Nghĩa cao giọng hạ lệnh, đóng chặt địa cung.
Sau khi mộ đá được hạ xuống phong
kín, địa cung sẽ vĩnh viễn không có ngày mở ra. Cùng với tiếng ầm ầm rất lớn,
một đời đế vương vĩnh viễn chìm xuống mặt đất.
Ba tuổi đã được bách quan khen là
thần đồng, mới chỉ tám tuổi đã đăng cơ, không đầy hai mươi hai tuổi lại đột
nhiên bệnh chết. Sinh mệnh của hắn ngắn ngủi giống như một ngôi sao băng, tuy
rằng cũng từng phát sáng rực rỡ, nhưng cuối cùng để lại cho thế nhân cũng chỉ
là ngẩng đầu nhìn một lần, quá vội vã nên chưa kịp thấy rõ.
Cũng trong lúc đó, trên đỉnh một
ngọn núi hoang vô danh ngoại thành Trường An, một hồng y nữ tử đứng trước gió,
để mặc cho mưa tạt vào mặt nàng. Núi non nhấp nhô trùng điệp bị màn mưa mịt mù
bao phủ, cùng với sương mù trong khe núi, tầm nhìn càng bị hạn chế, trông như
thể trời lúc sẩm tối. Thiên địa tối tăm mù mịt càng làm cho nữ tử một thân
trang phục đỏ rực càng hiện ra rõ ràng.
Nàng dường như đang tìm kiếm thứ gì
đó, cứ từng bước một đi sát về phía vách núi, gió núi thổi tới khiến y phục
nàng phập phồng như thể một đám mây hồng biến ảo không có hình dạng cụ thể,
quấn quanh một thân thể nhỏ bé gầy yếu, lung lay sắp ngã. Đã đi đến bên vách
núi, biển mây phủ kín những mẩu đá lởm chởm, căn bản không thấy rõ chỗ nào có
thể dừng chân, chỉ cần bước hụt một bước, nàng sẽ hóa thành mây bay đi.
Mạnh Giác ẩn thân từ một nơi bí mật
gần đó, lạnh nhạt nhìn nữ tử đứng một mình trên đỉnh núi, đầu mày khóe mắt,
lạnh như đóng băng. Vu An đứng phía sau hắn. Mưa rơi tới tấp, gương mặt Vu An
đã ướt đẫm, hắn lau đi nước mưa trên mặt, nhưng lại không lau được bi thương
nặng nề cuộn chảy trong đáy lòng.
“Vân Ca đã cùng hoàng thượng tới
nơi này sao?”, giọng nói rất nhẹ, Mạnh Giác cũng không có quá nhiều nghi vấn.
Vu An cẩn thận mở miệng nói: “Khi
Tiên hoàng mới vừa biết mình bị bệnh, từng dẫn Vân cô nương xuất cung một lần,
lúc ấy lão nô đánh xe, trong lúc vô ý đã đi tới chỗ này.”
“Hôm nay, không nhìn thấy mặt trời
mọc được!”
Vân Ca nhẹ nhàng thở ra một tiếng,
cũng không thấy rõ có bao nhiêu tiếc nuối. Nàng xoay người đi dọc theo sơn đạo
lầy lội xuống. Trong tấm lưới mỏng do màn mưa bụi dệt thành, nàng bước đi chậm
rãi, hoàn toàn không để ý tới cảnh gió thảm mưa sầu trước mắt.
Núi này vốn khó đi, hiện tại lại có
mưa, đường càng thêm khó đi, nhưng Vân Ca lúc đi lên và xuống rất là ung dung.
Vu An nhìn mà thất kinh, khoảng thời gian này chỉ sợ là Vân Ca dành không ít
thời gian luyện võ. Khi Vân Ca ra khỏi thành, vẫn là nửa đêm, trên đường không
có người, nhưng lúc này trở về thành, đã qua chính Ngọ, trên đường người đi
không dứt.
Đưa tang hoàng đế, trong thành
Trường An, nơi nơi là áo tang cờ trắng, y phục màu đỏ của nàng đặc biệt gai
mắt, người gặp đều né tránh, sợ rằng sẽ rước họa vào thân.
Chưa đi được bao lâu, một đội binh
sĩ đã ngăn Vân Ca lại, sau khi mắng mỏ vài tiếng, muốn bắt nàng giam vào nha
môn. Vân Ca đương nhiên là không chịu đi theo bọn họ, ra tay ngăn cản binh
lính.
Tân hoàng đăng cơ, đưa tang cựu đế,
vốn là thời khắc mẫn cảm, Vân Ca lại một thân y phục đỏ rêu rao khắp nơi, còn
ngang nhiên chống cự lại, quan binh kinh hãi, lập tức điều binh vây quanh Vân
Ca.
Khóe miệng Vân Ca hiện lên một tia
cười nhạt, đồng thời tiện tay đoạt thấy trường đao trong tay một sĩ binh, ngay
giữa phố xá náo nhiệt của Trường An, bắt đầu đánh nhau với quan binh.
Vu An vội vã kêu lên: “Mạnh công
tử!”, ngày hôm nay, Vân Ca đại náo trên đường như thế, đúng là nhân chứng vật
chứng đều đủ cả để định tội lớn. Mạnh Giác lại vẫn ung dung nhàn nhã, khoanh
tay đứng ở dưới mái hiên một cửa hàng, cách một màn mưa mịt mù, lãnh đạm nhìn
cảnh hỗn loạn ở phố dài đối diện.
Tuy rằng chiêu thức của Vân Ca tinh
diệu, nhưng song quyền thì khó ngăn cản được nhiều người, dần dần trở nên cực
kỳ nguy hiểm. Vu An thấy Mạnh Giác vẫn như trước, là một vẻ mặt ngồi nhìn phong
vân, gấp đến độ muốn tự mình ra tay không để ý đến hậu quả, lại nhìn thấy một
cỗ xe ngựa đỗ ở ven đường, trên đỉnh có gắn bạch bích, ngoài có phủ lụa trắng, có
vài gương mặt quen thuộc bảo vệ bên cạnh xe ngựa.
Một nam tử áo xám khom người, giống
như đang nghe người trong xe ngựa phân phó gì đó, sau một chớp mắt, hắn vội
vàng chạy đến trước mặt thống lĩnh quan binh, đưa ra một tấm yêu bài, nói mấy
câu, thống lĩnh kinh ngạc nhìn xe ngựa bạch bích, hướng xe ngựa từ đằng xa đó
hành đại lễ quỳ lạy. Màn xe khẽ được vén ra, một bàn tay nhẹ giơ lên, ý bảo hắn
bình thân.
Thống lĩnh hạ lệnh binh sĩ dừng
tay, nhưng lại để Vân Ca ở lại đó, chỉnh đốn đội ngũ rồi rời đi.
Bởi vì sợ rước họa vào thân, người
qua đường sớm đã tránh đi, các cửa hàng cũng đều đóng chặt cửa chính, lúc này
quan binh lại đột nhiên rời đi, đường phố vốn ồn ào trong phút chốc trở nên
vắng lặng không còn tiếng động, chỉ có giọt mưa từ mái hiên rơi xuống, vỡ tan
trong vũng nước đọng trên mặt đường đá xanh trên phố, phát ra tiếng tí tách dài
ngắn khác nhau.
Vân Ca ngây người khó hiểu, tầm mắt
đảo qua khu phố dài, nhìn thấy Mạnh Giác đang đứng dưới mái hiên. Mưa bụi tinh
tế dệt nên một bức màn, tựa như một tấm rèm châu, che khuất khiến cho khuôn mặt
hắn mơ hồ không rõ, nhưng đã quá mức quen thuộc, chỉ một hình bóng mơ hồ, nàng
cũng đã biết là ai.
Vân Ca tưởng hắn nhiều chuyện, cười
lạnh lùng, quăng trường đao xuống, định rời đi.
Mành lụa trắng của xe ngựa được vén
ra, một nữ tử mặc tang phục nhảy xuống xe ngựa, “Vân Ca!”
Bước chân của Vân Ca ngừng lại,
quay đầu lại nhìn về phía nữ tử vội vàng chạy tới hướng nàng. Phía sau nữ tử,
hai cung nữ luống cuống tay chân vừa mở ô, vừa đuổi theo, “Nương nương, nương
nương, cẩn thận kẻo ướt!”
Hứa Bình Quân đứng lại trước mặt
Vân Ca. Nàng một thân y phục trắng, trên đầu cài hoa lụa màu trắng, là y phục
đại tang, Vân Ca thì ngược lại, một thân y phục đỏ tươi, giống như mới xuất
giá.
Hai cung nữ dùng ô che cho Hứa Bình
Quân, giọt mưa dọc theo tán ô rơi xuống, trông như thể một bức rèm che, ngăn
cách giữa nàng và Vân Ca, Hứa Bình Quân vung tay lên đẩy chiếc ô ra, “Các ngươi
đều lui xuống!”
Hai cung nữ vội cúi đầu lui gót.
Hứa Bình Quân há miệng mấy lần,
nhưng lại không biết nên nói điều gì. Từ khi từ biệt lần trước, phong vân đã
biến đổi mấy lần, nàng cũng không biết nên nói từ đâu. Mà trong lòng còn có
nhiều áy náy với Vân Ca, ép xuống khiến cho lúc này nàng có vài phần xa lạ với
Vân Ca trước mặt, có chút không đứng thẳng nổi thắt lưng.
Vân Ca chăm chú nhìn nàng trong
chốc lát, bỗng nhiên cười, ý cười làm cho vẻ lạnh nhạt trên gương mặt nàng tan
chảy, nàng nhẹ giọng nói: “Tỷ tỷ, tỷ là nương nương rồi.”
Nội tâm Hứa Bình Quân rốt cuộc cũng
được thả lòng, nàng vẫn là “Tỷ tỷ” của Vân Ca, mặc kệ là bao nhiêu thay đổi, ít
nhất điểm ấy cũng không hề thay đổi. Hứa Bình Quân nắm tay Vân Ca, đột nhiên
bắt đầu chạy dọc theo phố dài, lệ cứ rơi xuống từng chuỗi, từng chuỗi rất
nhanh, nhưng may mắn có nước mưa tạt vào mặt, cho nên không ai biết những giọt
nước chảy xuống đó là từ trong lòng rơi xuống.
Trong màn mưa bụi mịt mù trên phố
dài, một bạch y nữ tử, một hồng y nữ tử, tay nắm tay, chạy nhanh như bay. Làn
váy có chút phồng lên, giống như một đóa hoa sen nửa hé, cùng với tiếng bước
chân bình bịch, hoa sen đong đưa hiện lên trên con đường đá xanh trong màn mưa,
khiến cho khung cảnh vốn vắng lặng có thêm vài phần uyển chuyển hàm xúc.
Ở phía sau các nàng, những giọt
nước mưa rơi xuống bắn ra tựa những bông hoa, những đóa “hoa mưa” cứ từng đóa
lại từng đóa thi nhau đua nở, rồi tất cả đều vỡ tan thành bọt nước trong suốt
trong không gian mờ mịt.
Hứa Bình Quân không biết rốt cuộc
là nàng muốn trốn khỏi cái gì, rồi muốn đi tìm thứ gì, nàng chỉ muốn chạy. Khi
chạy nhanh, tựa hồ trong suốt thời gian này tới hôm nay, áp lực chịu gò bó
trong Vị Ương Cung đều rời xa nàng, nàng vẫn cứ là một nha đầu thôn dã có thể
mặc váy thô đi lên trên sườn núi hái rau dại.
Dường như đã chạy qua hơn phân nửa
thành Trường An, chạy đến khi sức lực của nàng cũng đã dùng hết, bước chân của
nàng mới dần dần chậm lại, khi kịch liệt thở dốc, nàng nhìn sang Vân Ca. Búi
tóc Vân Ca đã lỏng, những sợi tóc ướt sũng dính bết trên mặt, có vẻ rất chật
vật, nhưng giữa mặt mày, ý cười cũng hết sức đậm,
Nước mắt trên mặt Hứa Bình Quân vẫn
cứ hòa cùng nước mưa chảy xuống, nhưng bên môi lại tràn ra ý cười. Hai người,
ta nhìn ngươi, người nhìn ta, rồi bỗng nhiên quay vào nhau cười ha hả.
Trên đường đời, chỉ cần có thể có
người bầu bạn, đã có thể cười to. Bất luận là sự bầu bạn này đến từ người thân,
người yêu, hay là bằng hữu, nhất định đều là may mắn.
Nàng không có phúc khí nhận được sự
giúp đỡ của ngươi thân, có lẽ cũng đã mất đi người cần phải dắt tay nàng đi
nhất, thế nhưng, ít nhất nàng còn có được một thứ tình cảm nhẹ nhàng nhưng ấm
áp dài lâu.
Nhìn sang cảnh trí quen thuộc, chân
Hứa Bình Quân như bị đóng đinh trên mặt đất. Cây hòe trong sân, cành lá nẩy ra
không lâu, trên nhánh cây lộ ra khỏi tường che có từng cụm dăm ba bông hoa nhỏ
màu trắng nấp dưới những tán lá xanh biếc. Sau khi nước mưa rửa sạch, màu trắng
càng thêm tinh khiết.
Hóa ra, nàng chạy qua nửa thành
Trường An, chính là muốn đến nơi này. Hứa Bình Quân tháo xuống cây trâm cài
trên tóc, nhẹ nhàng chọc vào ổ khóa mấy cái, cánh cửa sân đã mở ra. Kỹ xảo mở
khóa này, chính là do hắn dạy.
Trong lúc mơ hồ, nàng dường như
thấy dưới tàng cây còn có một bóng người đang làm mộc, cười nói: “Đây là gỗ cây
ngô đồng mười năm tuổi, làm ngựa gỗ cho con trai nhất định rất tốt.”
Bên tường sân còn có những vò rượu
được chôn một nửa, tựa hồ còn có một người vừa ủ rượu, vừa cười nhạo nàng là
lòng tham không đáy, vơ vét của cải, “Sao ta lại cưới một người vợ “yêu tiền”
như vậy chứ? Đã mang thai mà còn không chịu nghỉ ngơi, mỗi ngày vẫn đều tính
toán xem nên ủ bao nhiêu rượu, có thể bán được bao nhiêu tiền.”
Trong gian nhà chính, những sọt tre
rỗng không xếp chồng cao cao nằm yên lặng ở một góc phòng. Trước kia, những sọt
tre này đúng là không ngày nào bị bỏ không, từ xuân tới thu, lúc nào cũng có
thể nghe thấy tiếng tằm ăn lá dâu rào rào. Nuôi tằm là một việc vất vả, trước
khi tằm kết kén, mỗi ngày buổi tối đều phải cho ăn hai lần. Thường thường vào
nửa đêm, nàng đã khoác áo dậy rồi, quay sang người đang nằm bên cạnh, vừa đi
giày, vừa nói: “Chàng ngủ tiếp đi! Thiếp đi cho tằm ăn.”
………………………………
Hứa Bình Quân dùng tay áo ướt đẫm
lau đi nước mưa trên mặt, cười nói: “Gian nhà này thực vẫn như cũ, không có
thay đổi gì.”
Vân Ca nhẹ nhàng “Ừ” một tiếng, giả
vờ như không thấy trên mặt Hứa Bình Quân có quá nhiều “nước mưa”. Hứa Bình Quân
cười xoay người bước ra bên ngoài, “Chúng ta đi xem phòng ở của muội.”
Đi tới trước phòng Vân Ca, lại thấy
cánh cửa sân khép một nửa, khóa đã bị vặn gẫy. Hiện giờ, trong thành Trường An
còn có người dám tới nơi này trộm sao? Hứa Bình Quân vội đẩy cửa ra, nắm tay
Vân Ca bước nhanh vào nhà chính.
Chú thích:
Như
mọi người đã thấy, tên chương này theo phiên âm Hán việt có từ lí(理), từ
lí này theo giải thích của Baidu như sau (vì có liên quan tới triết học nên tớ
xin giản lược hết mức):
Trong
triết học Trung Quốc, “lí” dùng để chỉ tổng thể những quy luật về cấu tạo và
hoạt động của những vật thể như trong câu: “Muôn vật đều có lí của nó” (“Vạn
vật các hữu lí” – Hàn Phi) hay “Muôn vật có lí khác nhau” (“Vạn vật thù lí” –
Trang Tử).
Lí
là quy luật vĩnh viễn không thay đổi, không có trước có sau, tồn tại mãi như
trời, như vũ trụ. “Trời là lí” (“Thiên giả lí dã” – Trình Hạo). “Cái gọi là
trời, chỉ là lí mà thôi, cũng không có điểm khởi đầu, không có điểm cuối” (“Sở
vị thiên giả, lí nhi dĩ, diệc vô thuỷ, diệc vô chung” – Tả Lương Tá.)
Lí
là quy luật điều khiển cả những quan hệ xã hội như vua tôi, cha con: “Vật nào
cũng có lí của nó, như lửa do đâu mà nóng, nước do đâu mà lạnh, cho đến giữa
vua và tôi, cha và con, đều là lí” (“Vật vật giai hữu lí, như hoả chi sở dĩ
nhiệt, thuỷ chi sở dĩ hàn, chí vu quân thần phụ tử chi gian giai thị lí” –
Trình Di)… vân vân và vân vân.
Tóm
lại là vế sau của tên chương sẽ phải dịch là: lòng người khó dò là cái lí của
muôn đời. Nhưng nghe thế thì nó word by word quá thể, và không hề thuận tai,
thế nên tớ đã chuyển từ lí thành quy luật. Tuy rằng làm thế thì không phù hợp
lắm với dụng ý của tác giả(vì nếu tác giả muốn thế thì tội gì không dùng từ quy
luật), thôi thì cứ tạm coi như sự khác biệt của ngôn ngữ Việt Nam và Trung
Quốc, chứ có để nguyên từ lí thì người đọc cũng chẳng hiểu được dụng ý sâu xa
của nó. Tớ mà không hỏi Baidu thì cũng chịu, ai mà biết được “lí” lại là một
phạm trù triết học cơ chứ.