Lolita - Phần II - Chương 19

Chương 19

Với sự đồng ý của Lo sau khi em được thông báo, sở bưu điện
đã cho trưởng bưu cục Beardsley hai địa chỉ chuyển tiếp thư tín là P.O. Wace và
P.O. Elphinstone [1]. Sáng hôm sau, chúng tôi đến hòm thư lưu ở Wace và
phải xếp hàng tuy không dài nhưng chậm rề rề. Lo bình thản nghiên cứu danh sách
bọn lưu manh bị cảnh sát truy lùng. Bryan Bryanski điển trai, còn gọi là
Anthony Bryan, còn gọi là Tony Brown, mắt màu hạt dẻ, nước da sáng, bị truy nã
vì tội bắt cóc. Gian lận bưu phí là faux pas* (bước sẩy chân)
của một ông già mắt rầu rĩ, và dường như thế vẫn là chưa đủ, ông ta còn “can
tội” chân vòng kiềng. Sullivan lầm lì được nhắc tới với một lòi cảnh báo: tên
này có thể có vũ khí, nên coi là cực kì nguy hiểm. Nếu bạn muốn làm một bộ phim
dựa theo cuốn sách của tôi, thì hãy nhẹ nhàng hòa trộn một trong những gương
mặt này với mặt tôi vào lúc tôi đang nhìn. Và ngoài ra còn có tấm ảnh nhòe nhòe
chụp nhanh một Bé Gái Bị Mất Tích, tuổi mười bốn, đi giày nâu lúc bỏ trốn, gieo
vần đấy [2]. Ai thấy xin báo cho quận trưởng cảnh sát Buller.

[1] Hòm thư lưu Wace và hòm thư lưu Elphinstone: P.O.
Wace = Prisoner of War (tù binh chiến tranh); P.O. Elphinstone = Poe (Edgar
Poe).

[2] Nguyên văn: *…age fourteen, wearing brown shoes when
last seen, rhymes…* Trong câu này, “seen” vần với “fourteen”. Chúng tôi dịch
là: “… tuổi mười bốn, đi giày nâu lúc bỏ trốn, gieo vần đấy…” (“trốn” vần với
“bốn”).

Hãy bỏ qua phần thư từ của tôi; còn của Lo thì có bảng điểm
và một chiếc phong bì nom rất đặc biệt. Tôi cố tình mở phong bì này và đọc kĩ
nội dung. Tôi kết luận rằng người ta đã biết trước là tôi sẽ
làm thế, vì Lo dường như chẳng hề phản đối mà chỉ lững thững đi về phía quầy
báo ở gần cửa ra.

“Doll-Lo: Vậy là vở kịch đã thành công lớn. Cả ba con chó
săn nằm im, có lẽ được Cutler cho uống thuốc mê liều nhẹ, mình đoán thế, và
Linda thuộc hết phần lời thoại của cậu. Nó diễn tốt, nhanh hoạt, tự chủ, nhưng
cách nào đó, nó thiếu cái ứng đối nhạy và cái sức sống
thư thái
, cái duyên của Diana của mình - và cũng là của tác giả; nhưng
không có tác giả nào ở đó để hoan hô chúng ta như lần trước, và cơn giông tố
kinh khủng bên ngoài át cả những đợt sấm hậu trường khiêm tốn của bọn mình. Ôi
lạy Chúa, cuộc đời vụt qua như gió bay. Giờ đây, khi mọi sự đã kết thúc -
trường học, kịch cọt, chuyện rắc rối với Roy,
việc sinh đẻ của mẹ mình (than ôi, em bé của chúng mình đã không sống đuợc!),
tất cả như đã từ lâu lắm rồi, mặc dù mình vẫn còn mang dấu vết của nỗi đau.

“Ngày kia, chúng mình đi New York và mình chắc sẽ phải theo cha mẹ đi
châu Âu, không cách nào quẫy ra được. Mình còn có tin xấu hơn cho cậu.
Dolly-Lo! Có thể mình sẽ không trở lại Beardsley khi cậu quay về đó, nếu như
cậu sẽ quay về. Vì những lí do này nọ, một là ai thì cậu biết rồi, còn tay kia
thì không phải là người cậu tưởng cậu biết đâu, cha mình muốn mình sẽ học ở Paris một năm trong khi
ông và Fullbright ở đó [3].

[3] Hiển nhiên là ông ta được học bổng Fullbright.

“Như đã dự kiến, Thi Sĩ tội nghiệp loạng quạng xuất hiện vào
Màn III, đúng đến đoạn tiếng Pháp vớ va vớ vẩn ấy. Cậu còn nhớ chứ? Ne
manque pas de dire à ton amant Chimène, comme le lac est beau car il faut qu’il
t’y mène*
(Chimène, đừng quên nói với người tình rằng con hồ rất đẹp,
vì chàng sẽ phải đưa cô tới đó) [4]. Anh chàng đẹp trai may mắn! Qu’ti t’y
... Dẻo mỏ làm sao! Thôi, ngoan nhé, Lollikins. Thi Sĩ của cậu gửi tình yêu đằm
thắm nhất, và chuyển lời chào kính trọng của mình đến Ông Bô. Mona của cậu.
T.B. Vì một vài lí do này nọ, thư từ của mình bị giám sát rất ngặt. Cho nên tốt
nhất hãy chờ đến khi nào mình viết cho cậu từ châu Âu.” (Cô ta không bao giờ
làm thế, theo chỗ tôi biết. Bức thư này chứa một điều xấu xa bí ẩn nào
đó [5] mà tôi quá mệt nên không phân tích được, về sau, tôi tìm thấy
nó được lưu giữ giữa những trang của một cuốn sách hướng dẫn du lịch và xin
trình ra đây à titre documentaire*(làm tư liệu). Tôi đã đọc nó hai
lần.)

[4] Chimène là nhân vật trong vở Le Cid của kịch tác gia
cổ điển Pháp Pierre Corneille (1606-1684), nhưng hai câu thơ được bịa ra.
“Người tình” ở đây dĩ nhiên là ám chỉ Quilty.

[5] Mona biết rõ mối quan hệ giữa Lolita và Quilty, và đã
ngầm lén đưa tên hắn vào trong thư ở đoạn thoại tiếng Pháp: Qu’il t’y…

Tôi ngước mắt lên khỏi lá thư và sắp sửa... Chẳng thấy Lo
đâu cả. Trong khi tôi bị hút hồn bởi bùa yêu của Mona thì Lo đã nhún vai và
biến mất. “Bác có thấy...” tôi hỏi một lão già lưng gù đang quét sàn ở gần cửa
ra vào. Lão ta có thấy, cái lão già dâm đãng. Lão đồ rằng cô bé trông thấy bạn
và vội chạy ra gặp. Tôi cũng chạy vội ra. Tôi dừng lại - em thì đâu có dừng.
Tôi tiếp tục lao đi. Tôi lại dừng một lần nữa. Cuổi cùng, điều đó đã xảy ra. Em
đã bỏ đi mãi mãi.

Trong những năm sau, tôi đã nhiều lần tự hỏi tại sao hôm ấy,
em đã không bỏ đi hẳn. Phải chăng vì hấp lực níu lại của những
bộ đồ mùa hè tôi mới mua cho em, còn để trong cốp xe khóa chặt? Phải chăng vì
một chi tiết suy tính chưa chín trong kế hoạch toàn cục? Hay đơn giản vì, xét
cho cùng, dù sao đi nữa, tôi vẫn còn đắc dụng để chở em đến Elphinstone - trạm
hẹn cuối bí mật? Tôi chỉ biết chắc một điều: em đã bỏ tôi mãi mãi. Tôi có cảm
giác như rằng núi tim tím lập lờ bao quanh nửa vòng thành phố nhan nhản những
Lolita hổn hển, tung tăng, cưòi vang, hổn hển, rồi tan biến trong màn sương của
chúng. Đằng xa, đầu một con phố ngang, trên một bờ ta luy dốc đứng, nổi bật một
chữ W to tướng bằng những phiến đá trắng tựa như đích thị điểm khỏi đầu nỗi đau
của tôi [6].

[6] Nguyên văn: “A bit W made of white stones on s steep
talus in the far vista of a cross street seemed the very intial of woe”. W là
chữ cái đầu của cả “Wace” và “Woe” (nỗi đau). Trong bảng chữ cái tiếng việt,
không có chữ w, nên không thể truyền đạt được tinh thần chơi chữ này.

Tòa nhà bưu điện xinh đẹp, mới toanh, mà tôi vừa bước ra
khỏi, đứng kẹp giữa một rạp chiếu bóng thiu thiu ngủ và một đám cây dương đầy
mưu đồ. Lúc đó là chín giờ sáng, giờ miền núi. Tên phố là Phố Chính. Tôi bước
đi theo mé xanh lơ của nó, ngó sang vỉa hè đối diện: kẻ phù phép khiến cho nó
đẹp ngời ngời là ánh ban mai của một buổi sáng mùa hè tươi trẻ mỏng manh, đây
đó lóe lên những ánh chóp thủy tinh, song nhìn chung, lại có vẻ chao chạnh, hồ
như muốn ngất xỉu khi nghĩ đến triển vọng trước mắt là một buổi trưa nóng như
đổ lửa. Qua bên kia đưòng, tôi tha thẩn và lướt mắt qua một khối nhà dài, như
kiểu giở lướt những trang sách: Hiệu tân dược, Công ty bất động sản, Thời
trang, Phụ tùng ô tô, Cà phê, Dụng cụ thể thao, Công ty bất động sản, Đồ gỗ,
Thiết bị gia dụng, Công ti Western Union, Hấp tẩy quần áo, Thực phẩm. Sĩ quan,
ông sĩ quan cảnh sát, con gái tôi đã bỏ trốn khỏi nhà. Cấu kết với một thám tử [7];
phải lòng một tên tống tiền. Lợi dụng sự bất lực hoàn toàn của tôi. Tôi ngó vào
tất cả các cửa hàng. Tôi tự hỏi thầm trong bụng: có nên nói chuyện với ai đó
trong đám khách bộ hành thưa thớt kia? Tôi không làm thế. Tôi ngồi một lúc
trong xe đậu bên vỉa hè. Tôi rà soát công viên mạn Đông. Tôi quay lại cửa hàng
thời trang và cửa hàng phụ tùng ô tô. Trong một cơn mỉa mai giận dữ - un
ricanement*
(một tiếng cười gằn) - tôi tự nhủ: đồ điên đừng có nghi
ngờ em thế, em sắp xuất hiện trở lại bây giờ.

[7] Là Trapp (cũng tức là Quilty).

Em xuất hiện thật.

Tôi quay phắt lại và gạt bàn tay em đặt lên ống tay áo tôi
với một nụ cười rụt rè và đần độn.

“Vào xe đi,” tôi nói.

Em làm theo và tôi tiếp tục dạo bước tới tới lui lui, vật
lộn với những ý nghĩ không tên, cố vạch ra một kế hoạch nào đó để đối phó với
thói lừa dối của em.

Em bèn rời khỏi xe và trở lại bên tôi. Thính giác của tôi
dần dần được vặn chỉnh lại đúng đài Lo và tôi chợt nhận ra em đang nói với tôi
rằng em đã gặp một con bạn cũ.

“Thế à? Ai vậy?”

“Một cô gái ở Beardsley.”

“Được! Ta biết tất cả các tên trong nhóm của em. Alice
Adams?”

“Cô ta không thuộc nhóm của em.”

“Được, ta có mang theo một danh sách đầy đủ các học sinh
trường Beardsley. Xin vui lòng cho biết tên cô ta?”

“Cô ta không học ở trường em. Chỉ là một cô gái ở thành phố
Beardsley thôi.”

“Được. Ta cũng mang theo cả cuốn danh bạ điện thoại của
Beardsley. Ta sẽ tra tất cả các gia đình họ Brown nhé.”

“Em chỉ biết tên cô ta thôi.”

“Mary hav Jane?”

“Không… Dolly, giống như em.”

“Vậy là ngõ cụt” (cái mặt gương khiến ta xô vào giập mũi).
“Thôi được. Ta hãy thử một góc độ khác xem. Em đã vắng mặt hai mươi tám phút.
Hai cô nàng Dolly đã làm gì?”

“Bọn em vào một hiệu thuốc.”

“Và ở đó, hai cô đã... ”

“Ô, chỉ uổng hai lon Coca thôi.”

“Cẩn thận đấy, Dolly. Chuyện đó có thể kiểm tra được, em
biết đấy.”

“Đúng ra là cô ta uống. Em làm một cốc nước trắng thôi.”

“Tốt. Có phải trong khu này không?”

“Chắc chắn thế.”

“Tốt. Nào, chúng ta sẽ đến tra hỏi gã bồi phục vụ xôđa.”

“Khoan, đợi một tẹo. Nghĩ kĩ lại thì có lẽ hiệu đó ở xa
hơn... ở góc phố kia cơ.”

“Kệ, cứ đi tới đi. Nào, xin mời vào. Tốt, xem thử nào (mở
một quyển danh bạ điện thoại gắn với một sợi dây xích) “Dignified Funeral
Service (phục vụ tang lễ trang trọng). Không, chưa đến. Đây rồi: Druggists -
Retail (của hàng tần dược - bán lẻ), Hill Drugstore (cửa hàng tân dược trên
đồi), Larkin’s Pharmacy (cửa hàng thuốc tây của Larkin). Và hai hiệu nữa. Xem
ra ở Wace, tất cả chỉ có chừng nấy quầy bán xôđa [8] - ít nhất là
trong khu vực kinh doanh. Vậy thì chúng ta sẽ kiểm tra tất cả những chỗ đó.”

[8] Xin nhắc lại: ở Mĩ, các cửa hàng tân dược (drugstore)
đều có quầy bán đồ giải khát nhẹ.

“Quỉ bắt đấy đi,” em nói.

“Lo này, giở thói thô tục sẽ chẳng đi đến đâu đâu.”

“Ôkê,” em nói. “Nhưng đấy không bẫy được đây đâu. Ôkê, bọn
này không uống xôđa. Bọn này chỉ chuyện gẫu và ngắm các bộ áo váy bày trong tủ
kính thôi.”

“Tủ kính nào? Tủ kính ở cửa hàng kia, chẳng hạn?”

“Phải, ở cửa hàng ấy đấy.”

“Ô, Lo! Chúng ta hãy đến ngắm kĩ hơn đi.”

Đó quả là một tủ bày hàng bắt mắt. Một gã thanh niên nhanh
nhẹn đang dùng máy hút bụi làm vệ sinh một tấm thảm trên đó có hai con
ma-nơ-canh nom như vừa trải qua một vụ nổ. Một con trần trụi, không tay, không
tóc giả. Tầm vóc tương đối nhỏ và tư thế nhí nhảnh tự mãn của nó khiến ta đoán
rằng khi có quần áo, nó đã chiêu mẫu - và khi được mặc quần áo trở lại, vẫn sẽ
chiêu mẫu - cho một bé gái có khổ người như Lolita. Nhưng trong tình trạng hiện
giờ, nó chẳng có gì là gợi dục cả. Ngay cạnh nó, là một cô dâu phủ khăn voan,
cao hơn nhiều, rất hoàn hảo vàintacta [9] ngoại trừ việc thiếu
một cánh tay. Trên sàn nhà, dưới chân hai nàng tố nữ, noi gã thanh niên cần cù
bò lân bò toài với chiếc máy hút bụi, nằm lỏng chỏng một bó ba cánh tay thon
thả và một mái tóc giả vàng rơm. Hai trong số ba cánh tay vặn vẹo dường như thể
hiện một động tác xoắn vào nhau, biểu thị sự kinh hoàng hay van xin.

[9] Tiếng Latinh, có nghĩa thông thường là “nguyên vẹn”,
song ở đây, H.H. còn dùng theo một nghĩa ít thông thường hơn: “trinh nữ chưa ai
động chạm đến”.

“Xem này, Lo,” tôi bình thản nói. “Nhìn kĩ đi, đây chẳng
phải là một biểu tượng khá tốt cho một cái gì đó sao? Tuy nhiên…”- tôi nói tiếp
khi chúng tôi đã vào trong xe - “tôi đã có một số biện pháp đề phòng. Đây (khẽ
mở ngăn đựng găng tay), trên cái blốc này, ta đã ghi số xe của anh bạn chúng
ta.”

Ngu sao cái thằng tôi, tôi đã không nhớ nhập tâm cái số xe
ấy. Còn lại trong trí tôi là chữ cái đầu và con số cuối,- như thể cả một dàn
ngang sáu kí tự đã lùi lại đằng sau một tấm gương cầu lõm quá mờ, khiến không
thể đọc ra những con số ở giữa, chỉ đủ để thấy hai đầu mút - một chữ A hoa và
một con 6. Tôi phải đi sâu vào những chi tiết này (tự thân chúng chỉ có thể
khiến một nhà tâm lí học chuyên nghiệp quan tâm) bởi lẽ nếu không, độc giả (ôi,
giá tôi có thể hình dung độc giả của tôi dưới dạng một học giả với bộ râu màu
vàng rơm và đôi môi hồng nhấm nhấm la pomme de sa canne*(mỏm tròn
đầu gậy chống của mình) trong khi nghiên cứu bản thảo của tôi!) có thể không
hiểu hết mức độ cú sốc giáng xuống tôi khi tôi chợt nhận thấy chữ P đã mang cái
dáng sồ sề của một chữ B và con 6 đã bị xóa hoàn toàn. Phần còn lại, với những
vết tẩy bôi bác tố cáo động tác quẹt đi quẹt lại vội vàng của cục tẩy nhỏ đầu
một chiếc bút chì, và những mẩu chữ số bị xóa hoặc tô lại bằng một bàn tay trẻ
con, hiện ra như một mớ dây thép gai rối bời thách thức mọi lí giải lô-gích.
Tôi chỉ còn nắm được tên bang - một tiểu bang kề cận với tiểu bang trong đó có
Beardsley.

Tôi không nói gì. Tôi bỏ blốc ghi vào chỗ cũ, đóng nắp ngăn
đựng găng tay và lái thẳng ra khỏi Wace. Lo đã vớ lấy vài tập tranh truyện từ
ghế sau và, thoải mái trong chiếc áo cánh tráng, một khuỷu tay rám nắng tì trên
thành cửa xe, đắm mình vào cuộc phiêu lưu đang diễn tiến của một gã hề hay một
anh xã quích nào đó. Ra khỏi Wace độ năm, sáu cây số, tôi quặt vào bóng râm của
một bãi pích-ních, nơi buổi sáng đã rắc những phoi ánh sáng của nó lên một mặt
bàn trống trơn; Lo ngước mắt lên với một nụ cười nửa miệng ngỡ ngàng và, chẳng
nói chẳng rằng, tôi bạt một cái tát tai trời giáng trúng cái chỏm nhỏ, cứng và
nóng của gò má em…

Và tiếp đến là hối hận, là nức nở chuộc tội êm dịu đến thắt
lòng, là quì gối yêu đương, là làm lành trong mê cuồng xác thịt đến tuyệt vọng.
Trong đêm nhung lụa ở motel Mirana (Mirana [10]), tôi hôn lòng bàn chân
hoe hoe vàng với những ngón dài cúa em, tôi đốt cháy mình... Nhưng tất cả đều
vô ích. Cả hai chúng tôi đều đi đứt rồi. Và chẳng bao lâu nữa, tôi lại phải
bước vào một chu kì điêu đứng mới.

[10] Cha của H.H. từng có một khách sạn lấy tên là
Mirana.

Trong mộc con phố ớ Wace, phía ngoại vi... Ôi, tôi chắc chắn
đó không phải là một ảo ảnh. Trong một con phố ở Wace, tôi đã thoáng thấy chiếc
Aztec mui trần màu đỏ, hay anh em sinh đôi giống hệt nó. Thay vì Trapp, nó chứa
bốn, năm người trẻ tuổi ồn ã thuộc nhiều giới tính khác nhau - nhưng tôi không
nói gì. Sau khi rời khỏi Wace, là một tình thế mới. Trong một, hai ngày, yên
trí chắc mẩm trong lòng, tôi thích thú tự nhủ rằng chúng tôi không hề tụ bám
đuôi, cả hiện giờ lẫn trước đó; thế rồi tôi nôn nao nhận ra rằng Trapp đã thay
đổi chiến thuật và vẫn theo chúng tôi trong một chiếc xe thuê này, nọ.

Như một Proteus [11] chính cống trên xa lộ, thoắt
cái hắn đã đổi tù xe này sang xe khác, dễ như trở bàn tay. Kĩ thuật này cần đến
sự tồn tại của những ga ra ô tô chuyên hoạt động theo phương thức “trạm thay
xe”, nhưng tôi chưa bao giờ phát hiện ra các trạm đổi hắn sử dụng. Thoạt kì
thủy, hắn có vẻ thiên về loại Chevrolet, mới đầu là một con mui trần màu Kem
Sữa, rồi đổi sang một chiếc xe hòm nhỏ Xanh Chân Trời, từ đó nhạt nhòa xuống
thành Ghi Sóng Vỗ Bờ, rồi Ghi Củi Rều. Sau đó, hắn chuyển sang những “mác” khác
và lần lượt qua suốt một dải cầu vồng đủ các sắc độ từ nhờ nhờ đến xỉn và một
hôm, tôi bất giác thấy mình đang cố phân định ranh giới tinh tế giữa chiếc
Melmoth [12] Xanh Mộng của chúng tôi với chiếc Oldsmobile Thiên Thanh
mà hắn thuê; tuy nhiên, những sắc độ “ghi” vẫn là phổ màu bí hiểm ưa thích của
hắn và, trong những cơn ác mộng đau đớn, tôi hoài công tìm cách phân biệt chính
xác những con ma như con Chrysler Ghi vỏ Sò, con Chevrolet Ghi cỏ Gai, con
Dodge Ghi Pháp...

[11] Theo thần thoại Hi Lạp, một vị thần biển có khả năng
luôn luôn thay đổi hình dạng.

[12] Thực tế, không có “mác” xe nào như thế. H. H. hài
hước đặt tên cho xe của mình theo bộ tiểu thuyết bốn tập Melmoth the Wanderer
(Melmoth-Lang-Thang) của Charles Robert Maturin (1782-1824), giáo sĩ và nhà văn
Ailen.

Sự cần thiết phải luôn luôn cảnh giác canh chừng bộ ria con
kiến và chiếc áo sơ mi để phanh ngực - hay cái đầu hơi hói và đôi vai rộng của
hắn - khiến tôi đi đến chỗ nghiên cứu sâu tất cả các xe chạy trên đường - đằng
sau, đằng trước, song hành, cùng chiều, ngược chiều, tất cả mọi xe dưới ánh mặt
trời nhảy múa: chiếc ô tô của một người đi nghỉ bình lặng với chiếc hộp đựng
khăn giấy Tender-Touch ở kính hậu; chiếc xe cà tàng phóng văng mạng chở đầy trẻ
con mặt tai tái, với một con chó xù thò đầu ra ngoài và một cái chắn bùn bẹp
rúm; chiếc xe hòm nhỏ của chàng trai chưa vợ chồng chất những bộ com lê trên
mắc áo; chiếc nhà lưu động to kềnh càng chạy ngoằn ngoèo phía trước, chẳng mảy
may để ý đến dãy xe tức sôi sùng sục đằng sau nó; chiếc xe có cô nữ hành khách
trẻ lễ phép ngồi vào chính giữa băng ghế trước để gần chàng lái xe trẻ hơn;
chiếc xe chở trên nóc một chiếc xuồng đỏ úp sấp... Chiếc xe màu “ghi” chậm lại
phía trước chúng tôi, chiếc xe màu “ghi” bắt kịp chúng tôi.

Chúng tôi đi vào một vùng núi, đâu đó giữa Snow và Champion,
và đang lăn bánh xuống một sườn thoai thoải hồ như không cảm thấy độ dốc thì
tôi lại thấy rõ gã Tình Nhân Thám Tử Trapp. Làn sương mồng xam xám đằng sau
chúng tôi đậm lên và tụ đặc lại thành một chiếc xe hòm nhỏ màu xanh da trời.
Đột nhiên, như thể đáp lại những quặn thắt nơi con tim tội nghiệp của tôi,
chiếc xe tôi đang lái bỗng trượt hết bên này sang bên kia, trong khi dưới gầm
xe, một cái gì phát ra những tiếng pạch-pạch-pạch bất lực.

“Ngài bị nổ lốp à?” Lo vui vẻ nói.

Tôi đỗ lại - gần một bờ vực. Em khoanh tay lại và gác chân
lên táp lô. Tôi ra khỏi xe và xem xét bánh sau bên phải. Đế lốp bẹp dí một cách
thảm hại, gớm guốc. Trapp đã dừng lại sau chúng tôi khoảng năm mươi mét. Nhìn
từ xa, bộ mặt hỉ hả của hắn giống như một vết mỡ. Đây là cơ may của tôi. Tôi
bắt đầu tiến về phía hắn - với sáng kiến thông minh là hỏi mượn hắn cái kích,
mặc dù tôi có mang theo một cái. Hắn lùi lại một chút. Ngón cái của tôi vấp phải
một hòn đá - và tất cả đều phá lên cười. Rồi từ phía sau Trapp, một chiếc xe
tải tổ bố lù lù tiến tới và ầm ầm đi qua bên tôi - và lập tức sau đó, tôi nghe
thấy nó rúc lên một tiếng còi giật giọng. Bất giác, tôi ngoái lại nhìn - và
thấy chiếc xe của mình từ từ bò đi. Tôi có thể nhận ra Lo ngồi vào sau tay lái
một cách thật lố bịch và rõ ràng là động cơ chạy - mặc dù tôi nhớ là đã tắt máy
nhưng quên không cố định phanh tay; và trong khoảng thòi gian ngắn bằng một
nhịp tim đập, đủ để tôi tới được chiếc xe kẽo kẹt (cuối cùng, nó đã dừng lại),
tôi chợt hiểu rằng trong hai năm vừa qua, bé Lo đã thừa thời gian để học được
những nguyên tắc cơ bản của việc lái xe. Tôi mở phắt của xe, mẹ kiếp, tôi dám
chắc em đã khỏi động xe để ngăn tôi tới nói chuyện với Trapp. Tuy nhiên, thủ
đoạn của em tỏ ra không cần thiết, vì trong khi tôi đuổi theo em, hắn đã quay
ngoắt đầu xe và phóng đi mất. Tôi nghỉ lấy hơi một lúc. Lo hỏi sao tôi không
cảm ơn em... xe tự nhiên chuyển động và em phải... Không thấy tôi trả lòi, em
đắm mình vào nghiên cứu bản đồ. Tôi lại ra ngoài và bắt tay vào “cực hình bánh
xe” [13] theo cách nói của Charlotte. Có lẽ tôi sắp điên mất rồi.

[13] Thay lốp.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình kì cục của mình. Sau một
chặng đi xuống ảm đạm và vô ích, chúng tôi lại đi lên, tiếp tục đi lên. Trên
một sườn dốc, tôi thấy mình đi đằng sau chiếc xe tải kếch sù đã vượt chúng tôi.
Nó đang ậm ạch leo một con đường ngoằn ngoèo và không cách nào vượt được nó. Từ
ca bin của nó, một miếng giấy bạc nhỏ hình chữ nhật – lớp vỏ bọc bên trong của
một chiếc kẹo cao su - vèo ra, bay ngược trở lại dính vào tấm kính chắn gió của
chúng tôi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu tôi: nếu thực sự mất trí, không khéo
cuối cùng rôi sẽ giết một ai đó. Thực ra - Humbert-còn-chắc-chân-trên-bờ bảo
Humbert-sắp-chìm - hành xử thông minh nhất có lẽ là chuẩn bị trước mọi sự đi -
chuyển vũ khí từ trong hộp ra, bó túi - để sẵn sàng tận dụng con điền khi nó
thực sự ập đến.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3