Lolita - Phần II - Chương 02 phần 1
Chương 2
Giờ đây, khi đọc phần tiếp theo, độc
giả nên ghi nhớ trong đầu không chỉ riêng vòng tuần du nói chung như đã phác
họa ở trên, với nhiều rẽ ngang cùng những bẫy nhử du khách, những đường vòng
phụ và né tránh quanh co, mà cả việc chuyến đi của chúng tôi tuyệt đối không
phải là một partie de plaisir* (cuộc du ngoạn) lười nhác, mà
là một phát triển gay go, ngoắt ngoéo mang tính mục đích, mà raison
d’être* (lí do tồn tại) của nó - những cụm từ Pháp khuôn sáo này chất
chứa triệu chứng - là nhằm giữ cho người bạn đường của tôi vui vẻ trong khoảng
thời gian giữa hai cái hôn.
Lần giở những trang nhàu nát của
cuốn sách hướng dẫn du lịch, tôi lờ mờ hình dung lại Vườn Mộc Lan ở một bang
miền Nam, khu du lịch đã làm tôi tốn mất bốn đô la và là nơi mà theo sự quảng
cáo của cuốn sách, du khách nhất thiết phải tới thăm vì ba lí do: vì John
Galsworthy [1] (một tay nhà văn đã chết ngắc từ lâu [2])
đã ca ngợi nó là khu vườn đẹp nhất thế giới; vì năm 1900, nó đã được sách Hướng
dẫn của Baedeker đánh dấu một sao; và cuối cùng vì... Ôi, Độc Giả, Độc Giả của
tôi thử đoán xem!... bởi vì trẻ con (và chu cha! Lolita chẳng phải là trẻ con
sao?) sẽ “kính cẩn dạo bước trong cái ấn tượng sơ khởi về Thiên đường, mắt sáng
long lanh, hấp thụ cái Đẹp có thể nhuần thấm cả một đời người”. “Không phải đời
tôi,” Lo lầm lầm nói và ngồi xuống một chiếc ghế băng với hai tờ báo Chủ nhật
trên cặp đùi kiều diễm.
[1] Nhà văn Anh (1867-1933), tác giả của bộ tiểu thuyết
Saga của dòng họ Forsyte.
[2] Nguyên văn: “stone-dead” (chết cứng), một số lần xuất
bản đầu tiên in nhầm là “stone-deaf” (điếc đặc).
Chúng tôi lui tới qua lại hết lần
này đến lần khác cả loạt nhà hàng Mĩ ven đuờng, từ loại Quán Ăn hạ cấp với tấm
biển đầu hươu (vệt nước mắt đen sẫm chảy dài từ tuyến lệ), những bưu ảnh “hài
hước” kiểu hậu “Kurort” [3], những tờ hóa đơn thanh toán của khách cắm
trên một thanh nhọn, những viên kẹo bạc hà, kính râm, những hình ảnh quảng cáo
kem trái cây siêu phàm, nửa chiếc bánh sô-cô-la dưới một cái chuông thủy tinh
và mấy con ruồi lõi đời tinh quái khủng khiếp lượn dích dắc bên trên lớp nước
đường dính nháp đổ lên mặt quầy tởm lợm; cho chí những nơi cực đắt tiền với ánh
đèn mờ dịu, với khăn bàn lố lăng tồi tàn, những bồi bàn vụng về (cựu tù nhân
hoặc sinh viên), cái lưng khoang của một nữ tài tử điện ảnh, cặp lông mày như
lông chồn của bạn tình lúc đó của nàng và một dàn nhạc trompét với những nhạc
công vận com lê zoot [4].
[3] Tiếng Đức: nhà nghỉ có suối nước khoáng nóng.
[4] Mốt thời thượng hồi những năm 40 của thế kỉ trước gồm
mũ chóp bằng vàng dựng, vét-tông rộng vai dài chấm đùi và quần thụng.
Chúng tôi đã tham quan khối thạch
nhũ lớn nhất thế giới ở một hang đá, nơi diễn ra một cuộc họp gia đình của ba
bang miền Đông Nam; giá vé vào cửa tùy theo tuổi; người lớn một đô la; vị thành
niên sáu mươi cent. Một cột tháp bằng granit tưởng niệm Trận Blue Licks [5] với
những hài cốt cũ và đồ gốm Anhđiêng trong nhà bảo tàng gần đó, Lo chỉ phải trả
mười cent để vào cửa, giá rất phải chăng. Căn nhà gỗ hiện tại là bản sao táo
bạo của căn nhà cũ, nơi Lincoln [6] ra
đời. Một phiến đá với tấm biển tưởng niệm tác giả bài thơ “Cây” [7] (lúc
này, chúng tôi đang ở Poplar Cove, bang Bắc Carolina, con đường dẫn tới đây bị
cuốn sách hướng dẫn du lịch hòa nhã, độ lượng và bình thường rất kiềm chế của
tôi đánh giá một cách giận dữ là “rất hẹp, bảo dưỡng tồi”, điều mà tôi hoàn
toàn đồng ý, mặc dù tôi không hề là tín đồ của Kilmer). Từ một chiếc xuồng máy
thuê, lái bởi một Bạch vệ Nga lớn tuổi nhưng vẫn còn đẹp trai một cách ghê tởm,
người ta nói đó là một nam tước (cô bé Lo ngốc dại đã thấy lòng bàn tay mình
ươn ướt), người đã từng quen biết tay Maximovich và Valeria ở California, chúng
tôi có thể nhìn thấy “khu triệu phú” bất khả xâm nhập trên một hòn đảo bên
ngoài bờ biển Georgia. Chúng tôi còn tham quan nhiều thứ khác: một bộ sưu tập
bưu ảnh các khách sạn châu Âu trong một bảo tàng về thú tiêu khiển tại một khu
nghỉ mát ở bang Mississippi, trong đó, với một trào dâng nóng hổi tự hào, tôi
phát hiện thấy một tấm hình màu chụp khách sạn Mirana của cha tôi với những tấm
mành sọc, lá cờ phất phới bay trên những cây cọ được sửa nét bằng bút lông.
“Thế thì có gì là chúa?” Lo nói, hiếng mắt nhìn gã da bánh mật, chủ nhân chiếc
xe đắt tiền, đã lẽo đẽo theo chúng tôi vào nhà Bảo tàng Thú Tiêu Khiển [8].
Những di vật của thời kì bông. Một khu rừng ở Arkansas và, trên bờ vai nâu của Lo, một nốt
sưng nẫn tim tím (tác phẩm của một con muỗi mắt nào đó) mà tôi dùng đầu móng
tay cái nhể cái ngòi đẹp và trong suốt của nó ra rồi mút cho đã chất máu cay
cay của em. Phố Bourbon (ở một thành phố tên là New Orleans) mà sách hướng dẫn du lịch nói là
những vỉa hè ở đó “có thể (tôi thích cái từ “có thể”) thành nơi trình diễn của
bọn nhóc đen, chúng sẵn sàng (hai tiếng “sẵn sàng” thậm chí nghe còn thích hơn)
nhảy clakét kiếm dăm xu lẻ” (vui ghê!) “trong khi rất nhiều hộp đêm nho nhỏ,
thân mật đông nghịt khách” (sàm sỡ). Những bộ sưu tập về truyền thuyết biên
giới. Những ngôi nhà thời trước chiến tranh li khai với ban công dàn sắt mắt
cáo và cầu thang chạm trổ thủ công, loại cầu thang mà trong những phim
Technicolor rực rỡ, các bà các cô với bờ vai lung linh những nụ hôn nắng thướt
tha bước xuống, đôi bàn tay nhỏ nhắn nâng cao vạt trước của chiếc váy viền ren
với cái dáng điệu thật đặc biệt ấy trong khi người hầu gái da đen gật gật đầu
trên thềm đầu cầu thang. Thăm Menninger Foundation, một bệnh viện tâm thần, chỉ
để mua vui. Một tảng đất sét xói mòn thành hình tuyệt mĩ; và những bông hoa
ngọc giá như sáp, trong trắng là thế, mà bị đám ruồi trắng bò lổm ngổm [9] làm
ô uế. Independence, ở bang Missouri,
điểm xuất phát của Đường Mòn Oregon Xưa; và cả Abilene [10] ở
Kansas nữa,
cái nôi của hội Rodeo [11] mang tên Will Bill-Gì-Gì-Đó.
Núi Xa, Núi Gần. Tiếp tục nhiều núi khác nữa; những vẻ đẹp xanh mờ vẫn mãi là
nơi không thể tới, hoặc đang biến thành những dãy đồi có người ở; những dãy núi
phía Đông Nam, về độ cao, thua xa dãy Alpes; những khối tượng đá xám khổng lồ
hằn những vân tuyết chọc thủng trời xanh, quặn thắt lòng người, những đỉnh cao
khốc liệt từ đâu đột hiện ở một chỗ ngoặt của xa lộ; những rừng cây lấy gỗ kếch
sù với những vạt cây thông tối sậm gối lên nhau, đây đó xen vào những mảng cây
dương-lá-rung nhờ nhờ trắng; những cấu tạo màu hồng và tím nhạt, Pharaonic,
phallic [12], “chữ nghĩa gì mà quá ư là tiền sử” (Lo chán
chường nói vậy); những ụ nham thạch đen sì; núi đầu xuân mọc lông tơ voi con
dọc sống lưng; núi cuối hạ co ro, các chi Ai Cập nặng nề của chúng gập lại dưới
những nếp của lớp vải nhung màu hung bị nhậy cắn; những quả đồi màu be điểm
những cây sồi tròn xanh lục; một ngọn núi cuối cùng màu nâu dịu với một thảm cỏ
linh lăng dưới chân.
[5] Một trong những trận đánh lớn nhất của cuộc chiến
tranh cách mạng Mĩ diễn ra vào ngày 19/8/1782, mười tháng sau khi Lord Cornwall đầu hàng ở Yorktown.
Chiến thắng này đã thực sự chấm dứt cuộc chiến ở miền Đông.
[6] Abraham Lincoln (1809-1865), tổng thống thứ 16 của
Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.
[7] Tác phẩm của Joyce Kilmer (1886-1918), nhà thơ trữ
tình Mĩ.
[8] Một số độc giả ngờ ngợ rằng đây có thể là Quilty,
nhưng Nabokov trả lời dứt khoát là không phải.
[9] Những côn trùng mà H. H. tưởng nhầm là “đám ruồi
trắng bò lổm ngổm”, theo ghi chú của Nabokov, là một loài bướm thuộc giống
Pronuba mà con cái có vai trò hỗ trợ việc thụ phấn của hoa ngọc giá. Trong côn
trùng học, chúng được gọi là “bướm hoa ngọc giá” (yucca moth). Nên nhớ rằng
Nabokov là một nhà côn trùng học cự phách, say mê săn bướm (xem chú thích ở
“Lời mở đầu”).
[10] Independence
và Abliene, hai “điểm xuất phát” của hai tổng thống Mĩ kế tiếp: Harry S. Truman
(1884-1972) và Dwight D. Eisenhower (1890-1969).
[11] Cuộc hội tranh tài giữa các chàng chăn bò cow-boy:
cưỡi ngựa quăng dây lasso, thuần phục ngựa dữ.
[12] Nguyên ăn câu này: “… pink and lilac formations,
Pharonic, phallic…” Luôn chứng tỏ mình “chỉ còn có chữ mà chơi” (xem cuối
chương 8, Phần Một), H. H. trộn một số chữ cái của từ “lilac” (màu tím nhạt) và
từ “Pharaonic” (thuộc về vua Ai Cập cổ đại) thành “phallic” (thuộc về dương
vật). Chúng tôi không tìm được cách biểu đạt tương đương bằng tiếng Việt cho
thấu đáo tinh thần lộng ngữ đó nên đành để nguyên “Pharonic” và “phallic” và
kèm theo chú thích.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham quan:
Tiểu Hồ Băng Trôi ở một nơi nào đó trong bang Colorado, và những bờ tuyết, và
những đệm nhỏ cho những đóa hoa núi bé tí xíu, và lại tuyết nữa; Lo đội mũ chóp
đỏ thử trượt trên bờ tuyết dốc, kêu re ré, bị đám thiếu niên choai choai ném
những cục tuyết vào người, và cũng ném trả đũa, comme on dit*(như
người ta nói). Những bộ xương cây-lá-rung bị thiêu cháy, những mảng hoa xanh
hình mũi giáo. Những vật liệu linh tinh của một con đường thắng cảnh, hàng ngàn
Bear Creek, Soda Spring, Painted Canyon [13], Texas, một dải
đồng bằng bị hạn hán. Crystal Chamber (Phòng Pha Lê) trong hang động dài nhất
thế giới, trẻ em dưới mười hai tuổi vào cửa miễn phí, Lo, một nữ tù nhân trẻ.
Một bộ sưu rập tác phẩm điêu khắc “cây nhà lá vườn” của một phụ nữ sở tại, đóng
cửa vào một sáng thứ Hai thảm hại, bụi, gió, đất héo khô. Conception
Park, trong một thành phố ở biên giới Mexico mà tôi
không dám vượt qua. Ở đó và nhiều nơi khác nữa, hàng trăm con chim ruồi xám
trong hoàng hôn thăm dò cuống họng những bông hoa mờ tối. Shakespeare [14],
một thành phố ma ở bang New Mexico,
nơi Bill tên ác ôn người Nga bị treo cổ một cách hoành tráng bảy mươi năm
trước. Những trại nuôi cá, những nhà ở cheo leo vách đá. Xác ướp của một đứa
trẻ (người Anhđiêng cùng thời với nàng Bea ở Florence [15]). Hell’s Canyon [16] thứ
hai mươi của chúng tôi. Gateway thứ năm mươi của chúng tôi, dẫn đến một điểm
nào đó, cuốn sách hướng dẫn du lịch nói thế, giờ đây nó đã mất cả bìa. Háng tôi
giần giật. Vẫn là ba ông già đội mũ và mặc quần có dải đeo ấy nhàn tản qua buổi
chiều hè dưới hàng cây bên vòi phun nước trong công viên. Một phong cảnh mờ
sương, xanh lơ bên kia lan can trên đèo và những cái lưng của một gia đình đứng
ngắm cảnh (và Lo thốt lên trong một tiếng thì thầm nồng nhiệt, sung sướng, man
dại, mãnh liệt, đầy hi vọng và tuyệt vọng - “Kia, gia đình McCrystal đấy, em
xin mình, chúng ta hãy đến nói chuyện với họ đi, em xin mình đấy” - chúng ta
hãy đến nói chuyện với họ đi, ôi độc giả! - “làm ơn đi, em xin làm bất cứ điều
gì mình muốn, ôi, làm ơn đi...”). Những vũ điệu nghi lễ của người Anhđiêng,
hoàn toàn thương mại. ART: American Refrigerator Transit Company. Hiển nhiên là
Arizona, nhà
ở của Người pueblo [17], những di tích của thổ dân ghi bằng chữ
tượng hình, vết chân của một con khủng long trong một thung lũng - sa mạc, in
dấu từ ba mươi triệu năm trước, khi tôi còn là một đứa trẻ. Một gã trai nhợt
nhạt, gầy nhăng, cao chừng một mét tám, với cục hầu không ngừng lên lên xuống
xuống, hau háu nhìn Lo và khoang bụng nâu hồng phơi trần của em, nơi tôi miệt
mài hôn năm phút sau đó, Jack à. Mùa đông trong sa mạc, mùa xuân ở dưới chân
núi, những cây hạnh nở hoa. Reno, một thành phố
chán ngắt ở bang Nevada,
người ta nói là sinh hoạt ban đêm ở đó “chín chắn và mang tính tứ xứ”. Một vùng
sản xuất rượu vang ở bang California,
với một ngôi nhà thờ xây theo hình thùng rượu vang [18]. Dead Valley.
Lâu đài của Scott. Những tác phẩm nghệ thuật sưu tầm bởi một tay Rogers nào đó qua nhiều
năm. Những biệt thự xấu xí của những nữ diễn viên kiều diễm. Dấu chân của R. L.
Stevenson in trên một ngọn núi lửa đã tắt [19]. Mission Dolores: một cái đầu đề hay cho một cuốn sách.
Những tràng hoa trang trí bằng sa thạch lổ đổ vết sóng vỗ bờ. Một người đàn ông
lên cơn động kinh dữ dội lăn lộn trên mặt đất trong Công viên Bang mang tên
Russian Gulch. Crater Lake [20] xanh
xanh, xanh xanh. Một trại nuôi cá ở Idaho
và trại giam của Bang. Công viên Yellowstone
mờ tối với những suối nước nóng nhiều màu sắc, những mạch nước phun tí hon, bùn
sủi bọt bảy sắc cầu vồng - đều là biểu tượng cho niềm đam mê của tôi. Một đàn
linh dương trong một khu giữ nguyên hình thái hoang dã. Một hang động thứ một
trăm, vé vào cửa người lớn một đô la, Lolita chỉ phải trả năm mươi cent. Một
lâu đài do một hầu tước người Pháp xây ở Bắc Dakota. Corn Palace
ở Nam Dakota; và những cái đầu to tướng của các tổng thống khắc trên vách đá
granit cao ngất. Người Đàn Bà Râu Xồm đọc bài vè của chúng ta và giờ đây nàng
không còn độc thân nữa [21]. Một vườn bách thú ở Indiana, trong đó một
bầy khỉ rất đông sống trên một bản sao bằng xi măng của kì hạm Christopher
Columbus. Hàng tỉ con thiêu thân chết hoặc ngắc ngoải, tanh mùi cá, la liệt ở
tất cả các cửa sổ của tất cả các quán ăn trên bãi cát dọc bờ biển buồn tênh.
Những con hải âu béo mập đậu trên những tảng đá lớn, có thể nhìn thấy chúng từ
chiếc phàCity of Cheboygan nhả khói nâu mềm như len vắt vòng cung
bên trên cái bóng xanh biếc của nó đổ trên mặt hồ màu ngọc lục. Một motel có
ống thông hơi luồn dưới hệ thống cống rãnh của thành phố. Nhà của Lincoln, đa phần là đồ
rởm, với những cuốn sách bày ở phòng khách và đồ đạc của thời đó, mà phần đông
khách tham quan kính cẩn coi như đồ tư trang.
[13] Tên một số điểm du lịch.
[14] Thực ra, thành phố “ma” này không phải do Nabokov
bịa ra, mà từng tồn tại: một thành phố được thành lập vào khoảng đầu những năm
1870 nằm trong một dự án khai thác mỏ đại qui mô. Dự án sớm bị đổ vỡ, do đó,
địa danh này không được kể đến trong bất cứ cuốn Atlas nào.
[15] Chỉ Beatrice của văn hào Dante.
[16] Tên một điểm du lịch, một hẻm núi rộng 16 km dọc
theo biên giới giữa Đông Oregon và Tây Idaho.
[17] Pueblo là một từ chỉ
những cộng đồng những người Mĩ da đỏ ở vùng Tây Nam Hợp Chủng Quốc Hoa Kì.
[18] Điều này là có thật. Có thể hình dung lộ trình của
H. H. và Lolita như sau: từ Nevada, vượt qua biên giới vào Dead Valley
(Thung Lũng Chết), rồi đi xuống tới Los Angeles
rồi tiếp tục theo bờ biển California ngược lên
phía Bắc tới Oregon.
[19] Nhà văn Xcôtlen Robert Louis Stevenson (1850-1894), tác giả tiểu thuyết Đảo giấu vàng nổi tiếng, đã theo người đàn bà mình yêu đến California,
sống ở đó
một năm. Stevenson được chôn trên núi lửa Vaca ở Samoa; điều này có thể H. H.
biết hoặc không biết, nhưng “ngọn núi lửa đã tắt” được nhắc tới ở đây là nơi
Stevenson qua tuần trăng mật, núi St. Helena ở California. Tại đây có một đài
tưởng niệm R. L. Stevenson, nhưng dấu chân thực của ông thì không.
[20] Crater
Lake (Hồ trên miệng núi lửa) là một con hồ hình lòng chảo trên miệng một núi
lửa đã tắt ở Klamath County, bang Oregon. Là trung tâm hấp dẫn của Vườn Quốc
gia Crater Lake, hồ có chiều ngang 8 km, chiều dọc 10 km, sâu 350 m, nước xanh
thẳm và trong suốt.
[21] Hãng
sản xuất kem cạo râu Burma Shave Company, bắt đầu kinh doanh ở Mĩ từ năm 1925,
phát kiến ra kiểu dựng bảng quảng cáo liên hoàn, từng bộ sáu chiếc một, mỗi
chiếc ghi một câu, ghép lại thành bài vè, đại loại như: “The Bearded Lady/Tried
a Jar/She’s Now a Famous/Movie Star/Burma Shave” (Cô nàng có râu/Dùng thử một
lọ/Giờ đây nàng/Là ngôi sao điện ảnh/Lừng danh/Burma Shave). Từ 1925 đến 1965,
dọc các con đường vùng nông thôn nước Mĩ nhan nhản những bảng quảng cáo này.
Chúng
tôi đã có những cuộc cái lộn, lớn và nhỏ. Những lần to tiếng kịch liệt nhất
diễn ra: ở Lacework Cabins, bang Virginia; ở Park Avenue, Little Rock, gần một
ngôi trường; trên đèo Milner cao 3.570 mét, bang Colorado; ngay góc phố Seventh
Street và Central Avenue thành phố Phoenix, bang Arizona; trên phố Third
Street, Los Angeles vì vé vào tham quan một xưởng phim nào đó đã bán hết; trong
một motel tên là Poplar Shade (Bóng Cây Dương), bang Utah, ở đó sáu cái cây dậy
thì chẳng cao hơn Lolita của tôi là mấy và ở đó, à propos
de rien* (nhân một chuyện không đâu), em hỏi tôi muốn chúng tôi tiếp
tục sống trong những căn phòng ngột ngạt, cùng nhau làm những trò bẩn thỉu và
chẳng bao giờ ứng xử như những người bình thường, bao lâu nữa? Ở N.
Broadway, ở Burns, bang Oregon, ở góc W. Washington, trước cửa Safeway, một cửa
hàng thực phẩm. Ở một thành phố nhỏ nào đó trong Thung lũng Mặt trời (Sun
Valley) thuộc Idaho, trước một khách sạn xây bằng gạch, những viên gạch trắng
nhờ nhờ và đỏ hòa lẫn vào nhau một cách tinh tế, đối diện với một cây dương xòa
bóng lung linh như nước trùm lên Đài Liệt sĩ. Trong một vùng đất hoang toàn ngải
đắng giữa Pinedale và Farson. Một nơi nào đó trong bang Nebraska, trên Phố
Chính, gần Ngân hàng Quốc gia đầu tiên thành lập năm 1889, trông ra một ba-ri-e
chắn tàu lửa đằng xa và phía bên kia là những ống đàn oóc trắng của một tháp
xilô. Và trên phố McEwen, góc đường Wheaton
Avenue ở một thành phố của bang Michigan mang tên hắn [22].
[22] “Hắn” đây là Clare Quilty. Trên thực tế, quả có một
thành phố Clare thuộc bang Michigan.
Nguyên văn đoạn này: “… in a Michigan
town bearing his name”. Bản tiếng Pháp của Maurice Couturier năm 2005 (mà chúng
tôi dùng tham khảo), một bản dịch mới được đánh giá cao hơn bản dịch đầu tiên
năm 1959 của Eric Kahane, đã dịch một cách mập mờ thành: “… dans une ville de
Michigan partageant le prénom du manant” (một thành phố của bang Michigan lấy
tên thằng nhà quê), có lẽ vì không lưu tâm đủ mức đến cái ám ảnh thường trực có
tên là Clare Quilty đối với H. H.
Chúng tôi đâm quen với một dạng
người-ven-đường kì dị, Người Vẫy Xe Xin Quá Giang,Homo pollex [23] theo
thuật ngữ khoa học, với tất cả những hình thái và phân ngành đông đảo của nó:
chàng lính nhã nhặn, quân phục chỉnh tề, bình thản chờ, bình thản tin chắc vào
sự hấp dẫn hiệu quả của bộ kaki; cậu học sinh muốn đi nhờ vài khối phố; tên sát
nhân muốn đi cả vài nghìn cây số; ông già bí ẩn bồn chồn, với chiếc va li mới
toanh, bộ ria xén tỉa cẩn thận; một bộ ba người Mexico tràn đầy lạc quan; chàng
sinh viên chìa đôi bàn tay lấm bùn đất của thời gian lao động ngoại khóa cũng
với vẻ tự hào như khi ưỡn ngực phô dòng tên trường đại học trứ danh của mình
vắt ngang trên áo phông; người phụ nữ quẫn bách không biết xoay xở ra sao vì
bình ắc qui hết điện; những tên vô lại trẻ vét-tông sơ mi chải chuốt, tóc bóng
lộn, giơ những ngón tay cái mạnh mẽ, gần như cương cứng, để dụ dỗ những phụ nữ cô
đơn hoặc những người chào hàng ngờ nghệch bằng những huyễn hoặc dâm dật.
[23] Tiếng Latinh: người giơ ngón tay cái.