Lolita - Phần I - Chương 09 - 10

Chương 9

Những thủ tục li dị làm chậm trễ
chuyến đi của tôi và bóng đen của một cuộc Thế chiến khác đã phủ lên trái đất
khi mà sau một mùa đông buồn chán và viêm phổi ở Bồ Đào Nha, cuối
cùng, tôi tới được Hoa Kì. Ở New York, tôi háo hức nhận ngay cái công việc nhàn
hạ mà số mệnh mang đến cho tôi: chủ yếu là nghĩ ra ý tưởng và biên tập các
quảng cáo nước hoa. Tôi thấy thoải mái với tính chất thất thường và những khía
cạnh văn chương rởm của nhiệm vụ này, chỉ bận bịu với nó những khi không có gì
hay ho hơn để làm. Mặt khác, một trường đại học thời chiến ở New York thúc tôi hoàn tất bộ lịch sử so
sánh văn học Pháp cho sinh viên nói tiếng Anh. Tôi mất hai năm với tập đầu,
trong suốt thời gian đó, chẳng mấy ngày làm việc dưới mười lăm tiếng. Nhìn lại
thời kì này, tôi thấy nó chia tách bạch ra làm một mảng sáng rộng và một mảng
tối hẹp: mảng sáng tương ứng với những giờ thanh thản nghiên cứu trong những
thư viện lộng lẫy, mảng tối với những khát khao và mất ngủ đau đớn mà tôi đã
nhắc đến khá nhiều. Giờ đây, khi đã biết về tôi, bạn đọc ắt có thể dễ
dàng mường tượng ra tôi loay hoay như thế nào trong bụi bặm và nóng bức để cố
sao ngó thấy những tiểu nữ thần (than ôi, bao giờ cũng ở đằng xa) đang chơi đùa
trong Central Park, cũng như dễ dàng hình dung thấy tôi xiết bao kinh tởm cái
hào nhoáng được khử mùi của những cô gái ham tiến thân mà một gã vui tính ở một
văn phòng không ngừng dồn dập gán ghép cho tôi. Ta hãy bỏ qua tất cả những cái
đó. Một cơn suy sụp kinh khủng khiến tôi phải đi ở nhà an dưỡng hơn một năm;
tôi trở về làm việc - để rồi lại được đưa vào bệnh viện.

Cuộc sống lành mạnh ngoài trời dường
như hứa hẹn mang lại cho tôi chút nguôi dịu. Một trong những bác sĩ ưa thích
của tôi, một con người yếm thế dễ thương với một bộ râu nâu, có một người anh
trai và ông này sắp dẫn đầu một đoàn thám hiểm vùng Bắc Cực Canada. Tôi được ghép vào đoàn như
một thứ công cụ “ghi nhận những phản ứng tâm thần”. Tôi cùng hai nhà thực vật
học trẻ và một bác thợ mộc già thi thoảng chia sẻ (chẳng bao giờ thành công cho
lắm) những ân huệ của một nữ chuyên viên dinh dưỡng - một bác sĩ Anita Johnson
nào đó - cô này chẳng bao lâu bị trả về bằng đường hàng không, tôi lấy làm hài
lòng mà nói thế. Tôi chẳng biết gì mấy về mục tiêu mà đoàn thám hiểm theo đuổi.
Bằng vào số lượng đông đảo các nhà khí tượng học trong đoàn mà xét, thì có lẽ
chúng tôi đang truy tìm đến tận hang ổ của nó (đâu như ở quanh quất trên đảo
Hoàng tử xứ Wales, là tôi hiểu như thế), cái từ trường Bắc Cực lang thang và
bất ổn. Một nhóm, kết họp với người Canada,
lập một trạm khí tượng trên Pierre
Point ở eo Melville [1].
Một nhóm khác, cũng định hướng sai, thu gom phiêu sinh vật. Nhóm thứ ba nghiên
cứu bệnh lao phổi ở vùng băng giá quanh năm. Bert, nhà nhiếp ảnh - một người
tâm tính thất thường đã phải cùng tôi chia sẻ nhiều công việc vặt vãnh tầm
thường trong một thời gian (anh ta cũng có vấn đề về tâm thần) - cả quyết rằng
đám tai to mặt lớn của đội chúng tôi, những ông sếp thực thụ mà chúng tôi không
thấy mặt bao giờ, chủ yếu chỉ nhằm kiểm tra ảnh hưởng của việc cải thiện khí
hậu đối với lông của loài cáo Bắc Cực.

[1] “Pierre Point ở eo Melville”: hai địa danh
“bịa”, ám chỉ tiểu thuyết Pierre của nhà văn Mĩ Herman Melville
(1819-1891). Pierre, nhân vật chính của tác phẩm này, cũng chết trong tù như
Humbert Humbert.

Chúng tôi ở trong những
căn nhà lắp ghép bằng gỗ giữa một thế giới granit tiền-Cambri [2].
Chúng tôi có hàng đống các thứ dự trữ - các số tạp chí Reader’s Digest, một
máy trộn kem, đồ vệ sinh hóa học, mũ giấy cho mùa Giáng sinh. Sức khỏe của tôi
tốt lên một cách đáng ngạc nhiên bất chấp hoặc chính bởi sự trống vắng và buồn
chán ghê gớm. Bao quanh bởi những giống cây thiểu não như liễu bụi, địa y; thấm
đẫm và tẩy sạch (tôi đồ là thế) bởi gió rít; tọa trên một tảng đá dưới một bầu
trời trong vắt (tuy nhiên, chẳng phô ra cái gì quan trọng), tôi cảm thấy xa
cách kì lạ với chính bản thân mình. Không có sự cám dỗ nào khiến tôi phát
cuồng. Những cô gái Eskimo mũm mĩm, bóng loáng, tanh mùi cá, tóc đen gớm ghiếc
như quạ, mặt chuột lang, chẳng gợi cho tôi chút thèm khát gì, thậm chí còn kém
cả nữ bác sĩ Johnson. Tiểu nữ thần không có ở các vùng
địa cực.

[2] Thời kì địa chất sớm nhất của lịch sử trái đất, kết
thúc cách đây 570 triệu năm, trong đó vỏ trái đất bắt đầu hình thành và sự sống
bắt đầu xuất hiện ở các vùng biển.

Tôi để cho những người có thẩm quyền
hơn phân tích những trầm tích băng hà, những drumlin, gremlinkremlin [46], và
trong một thời gian, tôi cố ghi lại những gì tôi hồn nhiên tưởng là “phản ứng”
(chẳng hạn, tôi nhận thấy các giấc mơ dưới mặt trời lúc nửa đêm thường rất
phong phú màu sắc và điều này, anh bạn nhiếp ảnh của tôi cũng xác nhận). Tôi
cũng có nhiệm vụ hỏi các bạn đồng hành khác nhau của mình về một số vấn đề quan
trọng như nỗi hoài nhớ, nỗi sợ những thú vật lạ, ảo giác do đói, mộng tinh, thú
tiêu khiển, những chương trình phát thanh ưa thích, thay đổi cách nhìn, vân
vân. Ai nấy đều chán ngấy cái trò đó và tôi mau chóng bỏ hẳn dự án ấy, và mãi
vào quãng cuối hai mươi tháng khổ sai băng giá (như một trong những nhà thực
vật học tếu táo gọi thế), tôi mới xào xáo được một báo cáo hoàn toàn giả trá và
cực kì sinh động mà độc giả có thể tìm đọc trên tờ Annals of Adult
Psychophysics
năm 1945 hay 1946, cũng như trên số Artic
Explorations
chuyên đề về cuộc thám hiểm này; mà rốt cuộc, thực ra
chẳng liên quan gì đến mỏ đồng của đảo Victoria hay bất cứ cái gì tương tự, như
sau này tôi được ông bác sĩ tốt bụng của tôi cho biết; vì mục đích thực của nó
là “tuyệt mật”, nên tôi chỉ xin bổ sung thế này: bất kể nó là gì, mục tiêu ấy
đã được hoàn thành mĩ mãn.

[46] “Drumlin”: khối băng trôi không xếp lớp, tựa như một
quả đồi dài hẹp hay bầu dục. Còn “gremlin” và “kremlin” nối vào đó thành một
chuỗi điệp vận theo đà trùng âm – như kiểu “ông giẳng ông giăng” – chứ không có
tương quan về nghĩa (gremlin: theo một số phi công dị đoan hồi Thế
chiến thứ hai, là loài yêu quái vô hình gây trục trặc máy móc; cũng được dùng
như một từ đồng nghĩa với “goblin” (yêu tinh); “kremlin” (điện Kremlin ở
Matxcơva).

Độc giả hẳn sẽ tiếc khi biết rằng
chẳng bao lâu sau khi trở về với thế giới văn minh, tôi lại bị một cơn hóa dại
khác (nếu như cái từ độc ác này có thể áp dụng cho sự sầu não và cảm giác tức
thở không chịu nổi). Tôi hồi phục hoàn toàn nhờ một điều phát hiện được ở cái
an dưỡng đường đặc biệt: rất đắt tiền ấy. Tôi phát hiện ra rằng giỡn mặt các
bác sĩ tâm thần là một nguồn bất tận mang lại những thú vui sảng khoái: khéo
léo xỏ mũi họ; không bao giờ để họ thấy rằng mình biết mọi ngón nghề của họ;
bịa cho họ nghe những giấc mơ thật tinh vi, hoàn toàn thuộc loại kinh điển
(khiến họ,những kẻ cưỡng đoạt giấc mơ, cũng phải mơ thấy ác
mộng và vùng dậy la hét); lôi cuốn họ bằng những “màn nguyên thủy” giả hiệu; và
tuyệt đối không bao giờ hé lộ cho họ thấy thực trạng tính dục của mình. Bằng
cách lót tay một nữ y tá, tôi được xem một số hồ sơ và thích thú phát hiện thấy
các tờ phiếu gọi tôi là “có khả năng trở nên đồng giới dục tính” và “hoàn toàn
bất lực”. Trò chơi thật thú vị và mang lại kết quả mĩ mãn - trong trường
họp của tôi - đến nỗi tôi nán lại cả một tháng sau khi đã
đỏ da thắm thịt lại, hoàn toàn sung mãn (ăn, ngủ tốt như con gái dậy thì). Thế
rồi tôi lại ở thêm một tuần nữa chỉ cốt hưởng cái thú so tài với một tay mới
đến rất lợi hại, một danh y bị mất chỗ (và chắc hẳn, mất trí luôn), nổi tiếng
về cái tài thuyết phục bệnh nhân tin rằng họ đã chứng kiến sự hoài thai của
chính mình.

Chương 10

Vừa xuất viện một cái là tôi liền
kiếm một nơi trong vùng quê New England hoặc một thị trấn nhỏ thiu thiu ngủ
(hàng cây du du, ngôi nhà thờ trắng) ở đó tôi có thể qua một mùa hè chăm chỉ
với nguồn sinh tồn là một hòm đầy những ghi chép tôi đã tích lũy được, và tắm ở
một con hồ nào đó gần nhà. Tôi lại bắt đầu quan tâm đến công việc - tôi muốn
nói những nghiên cứu học thuật của tôi; còn phần việc kia: tham gia tích cực
vào kinh doanh nước hoa do ông chú tôi để lại, thì lúc này đã giảm xuống mức
tối thiểu.

Một nhân viên cũ của chú tôi, hậu
duệ của một gia đình quyền quí, gợi ý là tôi nên đến ở vài tháng tại nhà người
bà con của ông, một ông McCoo đã về hưu; vợ chồng họ, giờ đây khánh kiệt, muốn
cho thuê tầng gác trên, nơi một bà cô quá cố từng sống những ngày êm đềm. Ông
cho biết họ có hai con gái nhỏ, một còn ẵm ngửa, đứa kia mười hai tuổi, và một
khu vườn đẹp cách một con hồ đẹp không xa, và tôi nói như vậy thì hoàn toàn
trúng ý tôi.

Tôi trao đổi thư từ với những người đó,
bảo đảm với họ rằng tôi rất có ý thức giữ vệ sinh, ngăn nắp trong nhà, và tôi
qua một đêm huyền hoặc trên xe lửa, cố tưởng tượng ra trong mọi chi tiết có thể
cô bé tiểu nữ thần bí hiểm mà sắp tới tôi sẽ kèm dạy tiếng Pháp và âu yếm vuốt
ve theo phong cách Humbert. Không có ai đón tôi ở cái ga nhỏ xíu như đồ chơi,
nơi tôi xuống tàu với chiếc túi du lịch mới đắt tiền và cũng chẳng ai trả Lời
điện thoại; tuy nhiên, cuối cùng, một ông McCoo nhớn nhác, quần áo ướt sũng,
xuất hiện ở khách sạn duy nhất của cái thị trấn
Ramsdale xanh xanh hồng hồng, cho hay là nhà ông vừa cháy trụi - có thể là do
xảy ra đồng thời với đám cháy lớn hoành hành trong huyết quản tôi suốt đêm qua.
Ông nói gia đình ông phải dùng xe ô tô của nhà để lánh nạn tới một trang trại
thuộc quyền sở hữu của ông, nhưng bạn của vợ ông, một con người cao thượng, bà
Haze ở số nhà 342 phố Lawn Street,
đã tình nguyện cho tôi tá túc. Một bà ở trước cửa nhà bà Haze đã cho McCoo mượn
chiếc limousine của mình, một chiếc xe mui vuông lỗi mốt hết sẩy do một tài xế
da đen vui tính lái. Giờ đây, khi mà lí do duy nhất khiến tôi đến nơi này đã
biến mất, sự sắp xếp như trên xem ra thật phi lí. Ờ, ngôi nhà của ông ta sẽ
phải xây lại hoàn toàn, thế thì sao? Ông ta có trả bảo hiểm đầy đủ cho nó
không? Giận dữ, thất vọng và chán ngán, nhưng là một người châu Âu lịch sự, tôi
không thể chối từ và đành để người ta đưa về phố Lawn Street trên chiếc xe nhà đòn ấy, e
rằng nếu không, McCoo sẽ nghĩ ra một cách khác tinh vi hơn để rũ bỏ tôi. Tôi
thấy ông hớt hải chạy đi và gã tài xế của tôi lắc đầu khẽ cười. En
route*
(trên đường đi), tôi thề với mình là sẽ không lưu lại ở
Ramsdale trong bất kì hoàn cảnh nào, mà sẽ tếch thẳng đến Bermudas hay Bahamas
hay thậm chí Địa Ngục, ngay ngày hôm đó. Từ ít lâu nay, triển vọng về những giờ
phút êm đềm trên những bãi biển đầy màu sắc rực rỡ đã róc rách suốt dọc sống
lưng tôi và người bà con của McCoo, trên thực tế, đã làm lệch dòng suy nghĩ ấy
bằng cái đề xuất thiện ý nhưng giờ đây hóa ra hoàn toàn ngu xuẩn của ông ta.

Nói về những bước ngoặt đột ngột:
khi rẽ vào phố Lawn Street,
xe chúng tôi suýt chẹt phải một chú cẩu rách việc (một trong những con chó
ngoại ô chuyên rình xe ô tô [1]). Xa hơn một chút, ngôi nhà bà
Haze hiện ra, một khối trắng gớm guốc, cũ kĩ, tồi tàn, xám hơn là trắng - cái
loại nhà ở mà ta có thể biết trước là sẽ phải lắp ống cao su vào vòi nước ở bồn
tắm thay cho vòi hương sen. Tôi “boà” cho tài xế, hi vọng gã sẽ lái đi luôn để
tôi khỏi phải lộ diện mà về thẳng khách sạn lấy hành lí; nhưng gã lại tạt sang
bên kia đường, nơi một bà già đang gọi gã từ cổng nhà. Tôi biết làm gì đây? Tôi
bấm chuông.

[1] Một thứ điềm báo cái chết của Charlotte do bị xe cán, mà nguyên nhân của
tai nạn là do người lái xe cố tránh một con chó (chương 23, Phần Một).

Một hầu gái da màu đưa tôi vào nhà -
và để tôi đứng trên tấm thảm chùi chân trong khi chị ta sấp sấp ngửa ngửa chạy
bổ về nhà bếp, ở đó có cái gì không được để cho cháy đang cháy.

Tiền sảnh được trang trí bằng những
chùm chuông hòa âm, một tượng gỗ mắt trắng chắc mua ở một cửa hàng bán đồ lưu
niệm Mexico nào đó và một
phiên bản bức L’Arlésienne* (Cô gái vùng Arles) của Van
Gogh, thứ vưu vật tầm thường của giới trung lưu sính nghệ thuật. Một cánh cửa
hé mở bên phía tay phải cho thấy một phần của một phòng khách với một tủ kính
trong góc đầy những đồ tầm tầm Mexico
khác và một chiếc sofa kẻ sọc kê dọc theo tường. Có một cầu thang ở cuối hành
lang và trong khi tôi đứng lau mồ hôi trán (mãi lúc này, tôi mới nhận ra là
ngoài trời nóng đến thế) và trân trân nhìn (chả lẽ không nhìn cái gì) vào một
quả bóng tennis cũ rích màu xám lăn lóc trên một cái tủ gỗ sồi, thì từ trên đầu
cầu thang vọng xuống giọng nữ trầm du dương của bà Haze, bà vịn vào lan can
hỏi: “Có phải ông Humbert đấy không?” Một chút tàn thuốc lá cũng từ trên ấy rót
xuống. Lúc này, đích thân nữ chủ nhân - dép xăng đan, quần thụng màu hạt dẻ, áo
lụa màu vàng, mặt gần như vuông, lần lượt theo thứ tự đó - bước xuống các bậc
cầu thang, ngón trỏ vẫn đập nhẹ trên điếu thuốc.

Tôi nghĩ nên miêu tả bà ngay cho dứt
điểm. Phu nhân tội nghiệp của chúng ta khoảng ba mươi lăm tuổi, trán bóng
loáng, lông mày tỉa, với những nét bình dị nhưng không thiếu hấp dẫn, thuộc
loại có thể định nghĩa như là một dung dịch loãng của Marlene Dietrich [2].
Tay vỗ nhè nhẹ lên búi tóc màu đồng hun, bà dẫn
tôi vào phòng khách và chúng tôi chuyện trò một lúc về vụ cháy nhà McCoo và cái
lợi của việc cư trú ở Ramsdale. Đôi mắt màu xanh nước biển cách rất xa nhau của
bà có một cách nhìn đến là lạ, nó lướt trên khắp người anh, thận trọng tránh
luồng mắt của anh. Nụ cười của bà chỉ là một cái nhướn ranh mãnh của một bên
lông mày; và vừa nói chuyện vừa soài mình khỏi chiếc sofa, chốc chốc bà lại
phóng tay về phía ba cái gạt tàn và tấm chắn lửa bên lò sưởi (ở đó còn lăn lóc
cái hột nâu nâu của một quả táo); liền đó, lại ngả người trên sofa, một chân
gập lại dưới mình. Hiển nhiên bà thuộc loại phụ nữ mà có lời lẽ trau chuốt thốt
ra từ miệng mang hơi hướm một câu lạc bộ đọc sách, hay một câu lạc bộ chơi bài
bridge, hay bất kì thứ khuôn sáo kinh khủng nào khác, chứ không bao giờ từ tâm
hồn họ; loại phụ nữ tuyệt đối không có đầu óc hài hước; loại phụ nữ mà trong
thâm tâm hoàn toàn dửng dưng với khoảng một chục đề tài khả dĩ có thể luận đàm
ở phòng khách, nhưng lại rất câu nệ về nghi thức của những cuộc trò chuyện kiểu
này, mà qua lớp giấy bóng kính hào nhoáng của những nghi thức ấy, lộ rõ những
ngán ngẩm chẳng mấy ngon lành. Tôi biết chắc rằng nếu chẳng may tôi trở thành
người thuê nhà của bà, bà sẽ tiến hành từng bước chuyển hóa tôi theo cái cách
mà có lẽ xưa nay bà vẫn quan niệm là một người thuê nhà phải trở thành và tôi
sẽ lại mắc vào những mắt lưới của một trong những cuộc tình chán phèo mà tôi
biết quá rõ.

[2] Nữ minh tinh màn bạc Mĩ gốc Đức (1901-1992), được coi
là một mẫu “đàn bà định mệnh”. Những phim nổi tiếng nhất: Thiên thần xanh, Tàu
tốc hành Thượng Hải, Nữ hoàng đỏ...

Nhưng đừng hòng tôi ở lại đây. Tôi
làm sao có thể sung sướng trong cái loại nhà như thế này, với những tờ họa báo
vương vãi khắp các ghế, với cái thứ lai phối gớm ghiếc giữa thể loại hài kịch
của cái gọi là “đồ đạc công năng hiện đại” và thể loại bi kịch của những ghế
xích đu ọp ẹp cùng những chiếc bàn-đế-đèn lung lay cắm toàn bóng đã cháy tóc.
Bà dẫn tôi lên gác và rẽ trái - vào phòng “của tôi”. Tôi xem xét nó qua màn
sương của ý định kiên quyết khước từ; tuy nhiên, tôi cũng nhận thấy bức “Bản
Sonata tặng Kreutzer” của René Prinet [3] treo trên đầu
giường “của tôi”. Bà ta dám gọi cái căn phòng cho con sen này là “á thư phòng”!
Hãy ra khỏi đây ngay tức thì, tôi cương quyết tự nhủ như vậy trong khi giả vờ
suy nghĩ về cái giá rẻ đến độ phi lí, ẩn chứa điềm chẳng lành, mà bà chủ nhà âu
sầu đề xuất cho cả ăn lẫn ở.

[3] René Franҫois Xavier Prinet (1861-1946), họa sĩ Pháp
thuộc trường phái ấn tượng. “Bản Sonata tặng Kreutzer”được vẽ vào năm 1898. Bản
Sonata tặng Kreutzer nguyên là Sonata số 9 cung đô trưởng cho violon và piano
của L. van Beethoven, được sáng tác năm 1803. Tác phẩm này, Beethoven đề tặng
nghệ sĩ vĩ cầm Rodolphe Kreutzer, nhưng ông này chê, không bao giờ
chơi cả. Mỉa mai thay, chính vì rẻ rúng tác phẩm của người bạn vĩ đại của mình
mà Kreutzer đã trở thành bất tử vì tên ông mãi mãi gắn liền với nó. Lev
Tolstoy, đại văn hào Nga, cũng có một tiểu thuyết lấy tên là Bản Sonata tặng
Kreutzer.

Tuy nhiên phép lịch sự Âu châu buộc
tôi tiếp tục chịu đựng cuộc tra tấn. Bà ta đưa tôi đi qua thềm đầu cầu thang
sang cánh phải của ngôi nhà (nơi có “phòng riêng của tôi và Lo” - tôi đoán Lo
là cô hầu gái) và người thuê nhà kiêm tình nhân, vốn rất kĩ tính về chuyện vệ
sinh, phải khó khăn lắm mới dẹp được một cái rùng mình khi hắn được cho xem
trước phòng tắm duy nhất trong nhà, một khoang bé tí hình chữ nhật nằm giữa
thềm đầu cầu thang và phòng của “Lo”, với những đồ ướt nhèo phơi lủng liểng bên
trên chiếc bồn tắm đáng ngờ (một sợi lông như dấu chấm hỏi nằm trong đó); và
như tôi dự đoán, quả là có con rắn cao su cuộn mình cùng đầy đủ phụ tùng - một
thứ vỏ bao hồng hồng e ấp phủ lên nắp bồn cầu.

“Tôi thấy là ông không thích lắm,”
bà chủ nói, đặt tay lên cổ tay áo tôi một thoáng: cử chỉ này của bà kết hợp sự
mạnh dạn trơ trẽn - tôi nghĩ đó là cái mà người ta gọi là “tự tin” thái quá -
với tính rụt rè và sầu bi nó khiến cách lựa lời chọn chữ cho có vẻ khách quan
của bà đâm ra thiếu tự nhiên như cách uốn giọng của một giáo sư dạy “phát âm”.
“Tôi công nhận rằng đây không phải là một nội thất ngăn nắp gọn gàng,” bà chủ
thân yêu tội nghiệp của tôi nói tiếp, “nhưng tôi cam đoan với ông (bà nhìn môi
tôi) rằng ông sẽ rất thoải mái, vô cùng thoải mái, thật vậy. Để tôi đưa ông đi
xem vườn” (câu cuối này nghe tươi vui hơn, với một chút run rẩy mơn trớn trong
giọng nói).

Tôi miễn cưỡng theo bà xuống lại
dưới nhà; rồi qua căn bếp ở cuối dãy hành lang, phía tay phải của ngôi nhà -
phía có cả phòng ăn và phòng khách (bên dưới phòng “của tôi”, về mé tay trái,
chỉ có nhà để xe). Trong bếp, chị hầu gái da đen, một phụ nữ mập mạp còn khá
trẻ, vừa nhấc chiếc túi xách lớn màu đen bóng loáng khỏi quả đấm của cánh cửa
dẫn ra hiên sau vừa nói: “Cháu sẽ đi ngay đây, thưa bà Haze.” “Được, Louise,”
bà Haze đáp với một tiếng thở dài, “Thứ Sáu, ta sẽ thanh toán cho chị.” Chúng
tôi tiếp tục đi tới một bồn rửa tay nhỏ và vào phòng ăn, song song với phòng
khách mà chúng tôi đã chiêm ngưỡng. Tôi nhận thấy trên sàn một chiếc tất trắng.
Với một tiếng hừm! bực dọc, bà Haze cúi xuống, vẫn không dừng
bước, và ném nó lên một chiếc tủ nhỏ cạnh bồn rửa. Chúng tôi ngó qua một cái
bàn gỗ đào với một bình đựng hoa quả đặt ở chính giữa, trong đó chẳng có gì
ngoài một cái hột mận còn ướt nhẫy. Tôi rờ rẫm trong túi tìm bảng giờ tàu, lén
lôi ra xem có chuyến nào sớm nhất. Tôi còn đang đi theo bà Haze qua khỏi phòng
ăn, thì bỗng thấy bừng lên cả một khoảng xanh rờn cây lá - “piazza”[4], người
dẫn đường của tôi reo lên, và rồi, bất thình lình, không hề có dấu hiệu nhỏ nào
báo trước, một con sóng xanh trào dâng dưới tim tôi và kìa, quì trong một vũng
nắng, gần như khỏa thân, xoay mình trên hai đầu gối, người yêu dấu ở bãi biển
Riviera của tôi đang dõi mắt nhìn tôi bên trên cặp kính râm.

[4] Hàng hiên rộng.

Vẫn bé gái ấy - đôi vai mảnh màu mật
ong ấy, tấm lưng trần mềm mượt như lụa ấy, mái tóc màu hạt dẻ ấy. Một chiếc
khăn với những chấm tròn buộc quanh ngực che kín đôi bầu vú thanh tân tôi từng
ve vuốt vào một ngày bất tử khỏi đôi mắt khỉ đột đang già đi của tôi, nhưng trí
nhớ còn tươi trẻ của tôi vẫn nhìn thấu. Và; như người nhũ mẫu của một công chúa
nhỏ trong truyện cổ tích (bị lạc, bị bắt cóc, tìm lại được trong bộ đồ rách
rưới của dân Di gan qua đó tấm thân trần mỉm cười với đức vua và bầy chó săn
của ngài), tôi nhận ra cái nốt ruồi nâu sẫm nhỏ xíu ở mạn sườn nàng. Vừa sợ vừa
sướng (đức vua khóc vì vui mừng, kèn đồng vang dậy, bà nhũ mẫu say mèm), tôi
lại nhìn thấy làn bụng yêu kiều của em thót vào ở chỗ cái miệng Nam tiến của
tôi thoáng dừng lại; và cặp hông trẻ thơ trên đó tôi đã hôn lên vết lằn do dải
nịt quần soọc của em để lại - vào cái ngày cuối điên rồ bất tử ấy, đằng sau
những “Roches Roses (Phiến đá hồng)”. Quãng thời gian hai mươi lăm năm tôi đã
sống sau đó thu gọn lại thành một chấm nhỏ run rẩy, rồi biến mất.

Tôi thấy cực khó để diễn tả mạnh mẽ
đúng mức cái lóe chớp ấy, cái run rẩy ấy, cái chấn động say mê khi tôi nhận ra
em. Trong cái khoảnh khắc lóa nắng tôi lướt mắt trên cô bé đang quì (đôi mắt em
chớp chớp bên trên cặp kính đen nghiêm khắc - Herr Doktor [5] nhỏ
bé, người sẽ chữa cho tôi khỏi mọi bệnh tật đau đớn) trong khi tôi đi qua bên
cạnh em, đội lốt người lớn (một gã điển trai cao lớn đầy nam tính từ vương quốc
điện ảnh), khoảng trống trong hồn tôi đã có thể hấp thụ mọi chi tiết của sắc
đẹp rạng ngời của em, và tôi đối chiếu chúng với những nét của cô dâu đã qua
đời của tôi. Ít lâu sau, lẽ dĩ nhiên, em, bé gái nouvelle*(mới)
này, Lolita này, Lolita của tôi [6],
sẽ che lấp hoàn toàn nguyên mẫu của em. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng việc tôi
phát hiện ra em là hệ quả tất yếu của cái “công quốc bên bờ biển” trong quá khứ
bị hành hạ của tôi. Tất cả mọi thứ giữa hai sự kiện đó chỉ là một loạt những mò
mẫm và lầm lỡ, và những manh nha giả hiệu của niềm vui. Tất cả những gì chúng
chia sẻ liên kết chúng làm một.

[5] Tiếng Đức: Ngài Bác sĩ.

[6] Cụm từ “Lolita này, Lolita của tôi”, sẽ còn trở đi
trở lại như một điệp khúc ở nhiều đoạn. Xem thêm chú thích ở chương 1, Phần
Một.

Tuy nhiên, tôi không hề ảo tưởng.
Các quan tòa của tôi sẽ coi đây là một trò diễn của một gã điên có sở thích
đồi bại đối với jruit vert* (quả xanh). Au fond, ҫa
m’est bien égal*
(thực ra, cái đó đối với tôi không quan trọng). Tôi
chỉ biết rằng trong khi bà Haze và tôi bước xuống các bậc dẫn vào khu vườn, hổn
hển, đầu gối tôi bủn rủn hệt như bóng của chính nó phản chiếu trong làn nước
lăn tăn, và môi tôi khô như cát, và...

“Đây là Lo của tôi,” bà nói, “và đây
là những bông huệ của tôi.”

“Vâng,” tôi nói, “vâng. Rất đẹp, rất
đẹp, rất đẹp!”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3