Cây bách buồn - Chương 23
CHƯƠNG
23
Lời
mở đầu của bên biện hộ:
-
Kính thưa quí vị trong bồi thẩm đoàn, tôi xin kính trình quí vị rằng trong vụ
này không có sự lệ nào chống lại bị cáo. Phận sự nêu ra chứng cớ là thuộc về
bên nguyên cáo. Cho đến lúc này, theo ý tôi - và tôi chắc cũng là ý kiến của
quí vị - đã không có gì chứng tỏ chính xác. Bên nguyên cáo quyết đoán rằng
Elinor Carlisle đã đầu độc Mary Gerrard. Ta cần biết rằng mọi người khác trong
khu nhà cũng đều có cơ hội lấy được thuốc đó; và thuốc đó có ở trong khu nhà
hay không, thì điểm này là một nghi vấn lớn. Ở đây bên nguyên cáo chỉ dựa vào cơ
hội mà thôi. Nguyên cáo đã nhằm chứng tỏ động cơ, nhưng tôi xin thưa rằng đó
chính là điều không thể nào làm nổi. Bởi vì, thưa quí vị, không có động cơ!
Nguyên cáo đã nói đến việc đính hôn bị hủy bỏ. Tôi xin phép hỏi quí vị - về cái
việc đính hôn đã bị hủy bỏ đó. Nếu hủy bỏ đính hôn mà là cái cơ gây ra sát
nhân, thì tại sao chúng ta không thấy có những vụ sát nhân xảy ra hàng ngày?
Hơn nữa, việc đính hôn này, xin quí vị nhớ cho là, đây không phải là do yêu
đương say đắm, mà chỉ vì lý do gia đình. Cô Carlisle và ông Welman đã lớn lên
cùng với nhau; họ đã luôn luôn yêu nhau, rồi lần lần đi tới chỗ có tình quyến
luyến đậm đà hơn; nhưng tôi có ý định chứng tỏ với quí vị rằng trong điều kiện
tốt nhất thì đó cũng chỉ là một việc nhạt nhẽo, hững hờ.
(Ôi,
Roddy - Roddy ơi! Một việc nhạt nhẽo, hững hờ?)
- Vả
chăng, việc đính hôn này đã bị hủy bỏ, không phải do ông Welman, mà do tù nhân
kia. Tôi xin trình quí vị rằng việc đính hôn giữa Elinor Carlisle và Roderick
Welman được thi hành chủ yếu là để làm vui lòng bà lão Welman. Khi bà ta chết,
cả hai bên đều nhận thấy việc họ nên duyên vợ chồng không phải là đúng vì tình
cảm của họ không đủ thắm thiết. Tuy nhiên, họ vẫn là bạn tốt của nhau. Vả
chăng, Elinor Carlisle, đã thừa hưởng di sản của bà cô, vì bản tính tốt đã cấp
một số tiền đáng kể cho Mary Gerrard. Mà đó lại chính là cô gái mà y bị buộc tội
đầu độc. Thì nực cười lắm thay.
-
Chỉ có một điều duy nhất chống lại Elinor Carlisle là trường hợp diễn ra việc đầu
độc. Bên nguyên cáo thực tế đã nói như sau:
-
Không một ai ngoại trừ Elinor Carlisle đã có thể giết Mary Gerrard. Vì thế người
ta phải tìm kiếm sao cho có được một cái động cơ. Thế nhưng, như tôi đã trình
quí vị, người ta không thể kiếm ra một động cơ nào, vì không có động cơ nào cả.
-
Thưa quí vị, có đúng là không một ai ngoại trừ Elinor Carlisle đã có thể giết
Mary Gerrard không? Thưa, không đúng thế. Có khả năng là Mary Gerrard đã tự tử.
Có khả năng là một kẻ nào đó đã lục lọi bánh xăng-uých trong lúc Elinor
Carlisle đã ra khỏi khu nhà, đi xuống nhà săn. Cũng có một khả năng thứ ba. Một
luật lệ cơ bản về bằng chứng là: nếu có thể cho thấy có một thuyết để mà lựa chọn
mà có khả năng là đúng và phù hợp với bằng chứng, thì bị cáo phải được tuyên bố
trắng án. Tôi xin trình quí vị rõ rằng - có một người khác cũng có cơ hội bằng
thế để đầu độc Mary Gerrard, chẳng những thế y lại còn có một động cơ mạnh hơn
nhiều để làm việc ấy. Tôi xin nêu bằng chứng để qúi vị thấy rắng có một người
khác đã đến được chỗ để thuốc morphine đó, và đã có một động cơ rất mạnh để giết
Mary Gerrard; tôi có thể chứng minh rằng người đó đã có một cơ hội thuận tiện bằng
thế để làm việc ấy. Tôi xin trình quí vị rằng không có bồi thẩm đoàn nào trên
thế giới này mà lại kết án người phụ nữ này về tội sát nhân khi mà không có bằng
chứng nào chống lại y ngoại trừ bằng chứng về cơ hội, khi mà có thể tỏ rõ rằng
chẳng những có những bằng chứng về cơ hội chống lại một người khác, mà còn có một
động cơ mạnh mẽ nữa. Tôi cũng xin kêu các nhân chứng ra đây để chứng tỏ rằng đã
có sự khai man có chủ tâm của một trong số các nhân chứng về phía Vương quyền.
Nhưng trước tiên, tôi xin kêu tù nhân ra, để y có thể tường trình quý vị về câu
chuyện của mình, để rồi quý vị có thể tự mình thấy rằng những lời buộc tội y là
hoàn toàn không có cơ sở.
Nàng
đã tuyên thệ. Bằng giọng trầm trầm nàng trả lời những câu hỏi của ngài Edwin.
Quan tòa ghé mình về phía trước, yêu cầu nàng nói to hơn.
Ngài
Edwin nói nhẹ nhàng và khích lệ - đặt ra tất cả những câu hỏi mà nàng đã nghe lại
những câu đáp.
-
Cô yêu ông Roderick Welman, phải không?
-
Thưa, tôi rất yêu anh. Anh giống như anh ruột tôi - hay anh họ. Tôi luôn luôn
nghĩ về anh như là một người anh họ.
Cuộc
đính hôn ấy… đã đưa đến thế này… thực rất vui thích được kết hôn với một người
mà mình đã biêt suốt đời…
-
Có lẽ đó không phải là cái mà người ta gọi là một sự yêu đương say đắm, phải
không?
(Yêu
đương say đắm, ôi Roddy)
-
Thưa, phải… ngài thấy đó, chúng tôi đã biết nhau nhiều…
-
Sau khi bà Welman chết, đã có một tình cảm gượng gạo giữa cô và ông ta, phải
không?
-
Thưa phải.
-
Cô đã cắt nghĩa thế nào về điều này?
-
Tôi nghĩ là một phần về tiền bạc.
- Về
tiền à?
-
Thưa phải. Roderick cảm thấy bực mình. Anh nghĩ người ta có thể nghĩ là anh đã
lấy tôi vì tiền.
-
Việc đính hôn đã vì Mary Gerrard mà bị hủy bỏ, phải không?
-
Tôi đã nghĩ là Roderick mến cô ta, nhưng tôi không nghĩ đó là một sự việc gì
nghiêm trọng.
-
Cô có bối rối lo ngại nếu nó là thế không?
- Ồ,
thưa không. Tôi nghĩ là không xứng hợp, thế thôi.
-
Thưa cô Carlisle, ngày 28 tháng sáu cô có lấy hay không lấy ống thuốc morphine để
trong cái cặp của bà điều dưỡng Hopkins?
-
Tôi không lấy.
-
Trước đây có lúc nào cô có thuốc morphine không?
-
Tôi không bao giờ có thuốc đó.
-
Cô có biết rằng bà cô của cô đã không làm di chúc không?
-
Thưa không. Tin đó đến với tôi quá bất ngờ, làm tôi ngạc nhiên.
-
Cô có nghĩ rằng buổi tối ngày 28 tháng sáu khi bà ta chết bà ta đã cố dặn dò cô
không?
-
Lúc ấy tôi biết rằng cô tôi đã không đặt điều khoản di chúc cho Mary Gerrard,
nên bà lo lắng muốn làm việc đó.
-
Thế rồi nhằm thực hiện ý nguyện của bà ta, cô đã tự mình trù tính cấp cho cô
gái kia một số tiền, phải không?
-
Thưa phải. Tôi muốn thực hiện ý nguyện của cô Laura. Tôi rất biết ơn về tấm
lòng tốt mà Mary đã tỏ ra đối với cô tôi.
-
Ngày 26 tháng bảy, cô đã từ London đi xuống Maidensford và trọ tại lữ quán
King’s Arms, phải không?
-
Thưa phải.
-
Cô xuống đó nhằm mục đích gì?
-
Có người mua khu nhà của tôi, ông ta muốn đến ở càng mau càng tốt. Tôi phải xem
lại các vật dụng cá nhân của cô tôi, và giải quyết các việc chung chung.
-
Ngày 27 tháng bảy, trên đường đi đến phủ đệ Hunterbury, cô đã mua các thứ thực
phẩm phải không?
-
Thưa phải. Tôi nghĩ ăn bữa trưa pic-nic ở đó sẽ ung dung, thoải mái hơn là đi
trở lại làng.
-
Thế rồi cô tiếp tục đi đến khu nhà, sắp xếp các vật dụng của bà cô, phải không?
-
Thưa phải.
- Rồi
sau đó?
-
Tôi xuống phòng kho, cắt mấy cái bánh xăng-uých. Rồi tôi đi xuống nhà săn, mời
bà điều dưỡng Hopkins và Mary Gerrard lên khu nhà.
- Tại
sao cô làm thế?
-
Tôi muốn họ khỏi phải đi bộ về làng rồi lại trở lên khu nhà trong lúc trời nóng
bức.
- Sự
thực là, đó là một việc làm tự nhiên và tử tế của cô. Họ có nhận lời mời không?
-
Thưa có. Họ cùng với tôi đi lên khu nhà.
-
Cô để bánh xăng-uých đã cắt ở đâu?
-
Tôi để trên cái khay trong phòng kho.
-
Lúc ấy cửa sổ có mở không?
-
Thưa có.
-
Trong khi cô vắng mặt có kẻ nào đã có thể vào phòng kho không?
-
Thưa, chắc chắn thế.
- Nếu
có kẻ nào quan sát cô từ phía bên ngoài trong lúc cô cắt bánh xăng-uých, thì
theo ý cô họ đã nghĩ gì?
-
Tôi cho là họ nghĩ tôi đang chuẩn bị bữa ăn trưa pic-nic.
- Họ
không thể nào biết được ai sẽ dự bữa ăn đó, phải không?
-
Thưa phải. Tôi mới chỉ có ý nghĩ mời hai người kia lúc tôi thấy có nhiều đồ ăn
như thế.
-
Như vậy là, nếu có kẻ nào vào khu nhà trong lúc cô vắng mặt và bỏ thuốc
morphine vào một trong các bánh xăng-uých, thì cái người mà họ định đầu độc sẽ
là cô, có phải không?
-
Thưa, đúng thế.
-
Khi cô và hai người kia đã trở lên khu nhà, thì việc gì đã xảy ra.
-
Chúng tôi vào trong phòng vật dụng. Tôi tìm bánh xăng-uých đem ra đưa cho họ.
-
Cô uống gì với họ không?
-
Tôi uống nước. Có rượu bia ở trên bàn, nhưng bà Hopkins và Mary thích trà hơn.
Bà Hopkins đi vào phòng kho, pha trà. Bà bưng khay trà ra, rồi Mary rót.
-
Cô có uống chút trà nào không?
-
Thưa không.
-
Nhưng Mary Gerrard và bà Hopkins cả hai người đều uống trà, phải không?
-
Thưa phải.
-
Sau đó thì việc gì đã xảy ra?
-
Bà Hopkins đi tắt bếp ga.
-
Bà ta để cô ở lại một mình với Mary Gerrard, phải không?
-
Thưa phải.
-
Sau đó thì việc gì đã xảy ra?
-
Sau đó vài phút tôi bưng khay ấy và khay bánh xăng uých đi vào phòng kho. Bà
Hopkins ở đấy, chúng tôi cùng rửa với nhau.
-
Lúc ấy bà Hopkins có xắn tay áo lên không?
-
Thưa có. Bà ta rửa, trong lúc tôi lau.
-
Cô đã nêu một nhận xét nào đó về một vết xước trên cổ tay bà ta, phải thế
không?
-
Tôi hỏi có phải bà đã bị cái gì châm phải không?
-
Bà ta trả lời ra sao?
-
Bà ta nói “Đó là vết gai đâm do cây hoa hồng ở bên ngoài nhà săn. Tôi sẽ khều
ra bây giờ”.
-
Lúc ấy cử chỉ của bà ta thế nào?
-
Tôi nghĩ là bà ta thấy nóng bức. Bà ta mồ hôi toát ra, còn mặt thì có màu sắc kỳ
dị.
-
Sau đó thì việc gì xảy ra?
-
Chúng tôi đi lên lầu, rồi bà ta giúp tôi sắp xếp đồ đạc của cô tôi.
-
Khi cô cùng bà ta xuống lại dưới nhà, thì đó là lúc mấy giờ?
-
Chắc hẳn phải là một giờ sau.
-
Lúc ấy Mary Gerrard ở đâu?
-
Cô ta ngồi trong phòng vật dụng. Cô ta thở lạ lùng lắm, và đang trong cơn hôn
mê. Tôi kêu điện thoại cho bác sĩ theo lời khuyên của bà Hopkins. Ông ta tới
ngay lúc cô ta sắp chết.
Ngài
Edwin bạnh vai lên một cách bi thảm.
-
Thưa cô Carlisle, có phải cô giết Mary Gerrard không?
“Đó
là cái trò hề của ngài đó. Đầu ngẩng lên, mắt nhìn thẳng”.
-
Không phải tôi giết!
Ngài
Samuel Attenbury. Tim nàng đập mạnh. Bây giờ - bây giờ thì nàng ở dưới quyền
sinh sát của một quân thù. Còn đâu là vẻ hòa nhã dịu dàng, còn đâu là những câu
hỏi mà nàng đã biết rõ câu đáp.
Nhưng
ngài bắt đầu nói, vẫn rất ôn tồn:
-
Cô đã khai với chúng tôi là cô đã đính hôn với ông Roderick Welman, phải thế
không?
-
Thưa phải.
-
Cô đã yêu ông ta, phải thế không?
-
Thưa, yêu rất nhiều.
-
Tôi nói để cô biết rằng cô đã tha thiết yêu ông Roderick Welman, cô đã ghen tức
dữ dội vì tình yêu của ông ta đối với Mary Gerrard, phải thế không?
-
Thưa, không. “Cái tiếng “không” đó nghe có vẻ cực kỳ phản cảm?”
Ngài
Samuel nói có vẻ đe dọa:
-
Tôi nói để cô biết rằng cô đã có chủ tâm mưu tính trừ khử cô gái kia, với hy vọng
là Roderick Welman sẽ quay trở về với cô.
-
Chắc chắn không phải thế. “Khinh thường - chán chường đôi chút. Thế là hơn”.
Các
câu hỏi tiếp tục đưa ra. Giống hệt như một giấc mơ - một giấc mơ xấu - một cơn
ác mộng…
Hết
câu hỏi này đến câu hỏi khác - những câu hỏi khủng khiếp, xúc phạm. Một số câu
nàng đợi sẵn nghe, một số câu hoàn toàn bất ngờ.
Lúc
nào cũng phải cố mà nhớ lấy phần mình. Không một lần nào để thốt ra. “Đúng, tôi
đã thù ghét cô ta… Đúng, tôi đã muốn cô ta chết… Đúng, trong suốt thời gian cắt
bánh xăng-uých tôi đã nghĩ đến việc cô ta chết…”
Giữ
sao cho được bình tĩnh, lạnh lùng, trả lời càng ngắn gọn, càng hờ hững càng
hay…
Đấu
tranh…
Đấu
tranh từng tấc đất một…
Bây
giờ thì xong rồi… Cái ông khủng khiếp đó đã ngồi xuống. Rồi giọng nói hiền hòa,
dịu ngọt của ngài Edwin Bulmer hỏi thêm một vài câu nữa. Những câu hỏi nhẹ
nhàng thoải mái cốt xóa nhòa ấn tượng xấu xa nào mà nàng có thể đã có trong lúc
bị thẩm vấn.
Nàng
trở lại ghế bị cáo. Nhìn bồi thẩm đoàn, tự hỏi…
* *
*
“Roddy,
Roddy đứng kia, mắt hơi chớp chớp, căm ghét tất cả sự việc này. Roddy - như thể
không biết làm sao - không hoàn toàn thực tại”.
“Nhưng
chẳng có gì thực tại nữa. Mọi sự đều quay cuồng quái dị. Đen là trắng, đỉnh là
đáy, đông là tây… Mình không phải là Elinor Carlisle; mình là “con bị cáo”. Rồi,
hoặc là họ treo cổ mình, hoặc là họ thả mình ra, thì cũng sẽ chẳng còn gì giống
như xưa nữa. Nếu có một cái gì - chỉ một cái lành mạnh thôi để mà giữ chắc…”
“Có
lẽ đó là khuôn mặt của Peter Lord với những vết tàn nhang và dáng vẻ lạ thường
là vẫn y nguyên…”
Bây
giờ ngài Edwin đã nói đến đâu rồi?
-
Xin ông cho biết tình cảm của cô Carlisle lúc ấy đối với ông ra sao?
Roddy
trả lời rành rẽ:
-
Tôi xin thưa rằng cô ta rất thân với tôi, nhưng chắc chắn là không say đắm yêu
tôi.
-
Ông có coi cuộc đính hôn của ông và cô Carlisle là tốt đẹp không?
- Ồ,
hoàn toàn tốt đẹp. Chúng tôi đã có chung nhiều thứ.
-
Thưa ông Welman, xin ông nói cho bồi thẩm đoàn biết đúng tại sao việc đính hôn
đã bị hủy bỏ.
-
Thưa, sau khi bà Welman mất, việc ấy làm cho chúng tôi sững sờ, khích động. Tôi
không thích cái ý nghĩ kết hôn với một phụ nữ giàu có trong khi mình không có một
đồng xu dính túi. Thực sự là việc đính hôn đã được hủy bỏ do sự đồng ý thỏa thuận
của chúng tôi. Chúng tôi đều cảm thấy dịu nhẹ đi.
-
Bây giờ xin ông cho chúng tôi biết quan hệ của ông với Mary Gerrard là như thế
nào?
“Ôi,
Roddy, Roddy đáng thương, anh hẳn phải căm ghét tất cả sự này”.
-
Tôi nghĩ cô ta rất khả ái.
-
Ông có yêu cô ta không?
-
Thưa, chỉ đôi chút thôi.
- Lần
cuối cùng ông gặp cô ta là vào lúc nào?
- Để
tôi nghĩ xem. Chắc hẳn là ngày mùng năm hay mùng sáu tháng bảy.
Ngài
Edwin nói, giọng hơi đanh thép.
-
Tôi nghĩ ông đã gặp cô ta sau đó.
-
Thưa không, tôi đi ra nước ngoài - sang Vinice và Dalmatia.
-
Ông trở về Anh lúc nào?
-
Lúc tôi nhận được điện tín - để tôi nghĩ xem - vào ngày mùng một tháng tám, chắc
hẳn là thế.
-
Nhưng, tôi nghĩ, ông đã thực sự có mặt ở Anh ngày 27 tháng bảy rồi.
-
Thưa, không phải.
-
Nào, thưa ông Welman. Ông đã tuyên thệ, xin nhớ cho thế. Có phải sự thực là, giấy
thông hành của ông cho biết ông đã trở về Anh ngày 25 tháng bảy và lại ra đi
vào tối ngày 27 không?
Giọng
của ngài Edwin hơi có vẻ đe dọa. Elinor nhăn mặt, thình lình trở về với thực tại.
Tại sao luật sư lại nạt nhân chứng của mình thế kia nhỉ?
Roderick
mặt tái đi, im lặng mấy phút, rồi gắng gượng nói:
-
Thưa - thưa phải, đúng là thế.
-
Ngày 25 ông đã đi London thăm Mary Gerrard tại chỗ trọ của cô ta, phải thế
không?
-
Thưa phải.
-
Ông đã xin cô ta kết hôn với mình, phải thế không?
-
Thưa - thưa phải.
-
Cô ta đã trả lời như thế nào?
-
Cô ta đã từ chối.
-
Ông Welman, ông không phải là người giàu có, phải thế không?
-
Thưa phải.
-
Ông lại nợ nần nhiều, phải thế không?
-
Thưa, ngài nói thế là làm sao?
-
Ông không biết sự kiện cô Carlisle đã để lại tất cả tiền bạc cho ông trong trường
hợp cô ta chết hay sao?
-
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về việc đó.
-
Sáng ngày 27 tháng bảy, ông có mặt ở Maidensfort không?
-
Thưa không.
Ngài
Edwin ngồi xuống.
Luật
sư nguyên cáo nói:
-
Ông nói rằng theo ý ông thì bị cáo kia đã không thắm thiết yêu ông.
-
Thưa, tôi đã nói như vậy.
-
Ông có phải là người nghĩa hiệp không, ông Welman?
-
Tôi không biết ông muốn nói gì?
- Nếu
một tiểu thư thắm thiết yêu ông, mà ông lại không yêu cô ta, thì ông có cảm thấy
có phận sự che giấu sự thực không?
-
Chắc chắn là không.
-
Ông đã học ở đâu, ông Welman?
-
Thưa, ở Eton.
Ngài
Samuel mỉm cười điềm nhiên nói:
-
Thế là xong.
* *
*
Nhân
chứng James Wargrave.
-
Ông làm nghề trồng hoa hồng, ở Emsworth, phải không?
-
Thưa phải.
-
Ngày 20 tháng mười, ông có đi Maidensford xem xét một cây hồng trồng tại nhà
săn ở phủ đệ Hunterbury phải không?
-
Thưa phải.
-
Xin ông vui lòng tả ra cây đó?
-
Thưa, đó là một cây hồng leo - thuộc loại Zephyrine Droughin. Cây này có hoa
màu hồng, hương thơm ngát. Không có gai.
-
Theo như ông tả, thì không thể nào bị gai đâm do cây hồng này được, phải không?
-
Thưa, hoàn toàn không thể được. Đó là một loại cây không có gai.
Không
có thẩm vấn.
* *
*
-
Ông là James Arthur Loittledale. Ông là dược sĩ có trình độ chuyên môn, làm việc
cho cửa hàng bán sỉ dược phẩm Jenkins Hale, phải không?
-
Thưa phải.
-
Xin ông cho biết mẩu giấy này là giấy gì?
Tang
vật được trao cho ông dược sĩ.
-
Đây là một mảnh của một trong số những nhãn hiệu của chúng tôi.
-
Đó là nhãn hiệu gì?
-
Nhãn hiệu này chúng tôi dán lên các ống thuốc viên dùng để chích dưới da.
- Tại
đây ông có thể nói dứt khoát thứ thuốc nào đã đựng trong ống có dán nhãn hiệu
này không?
-
Thưa được. Tôi có thể nói thực dứt khoát là ống này đựng những viên thuốc dùng
để chích dưới da apomorphine hydrochliride 1/20 gren.
-
Không phải là morphine hydrochloride sao?
-
Thưa không, không thể là thuốc đó được.
- Tại
sao không?
-
Trên ống ấy chữ morphine được in bằng chữ M hoa. Còn ở đây, tôi nhìn bằng kính
phóng to thì thấy rõ ràng là chữ đầu của hàng chữ là một phần của chữ m nhỏ, chứ
không phải chữ M hoa.
-
Xin để bồi thẩm đoàn xét mẫu giấy bằng kính này. Tại đây ông có những nhãn hiệu
để tỏ rõ ông nói gì không?
Các
nhãn hiệu được huyển đến bồi thẩm đoàn.
Ngài
Edwin nói tiếp:
-
Ông nói mẫu giấy này là từ một ống thuốc apomorphine hydrochliride ra, phải
không? Apomorphine hydrochliride đúng thực là chất gì?
-
Công thức là C17H17NO2. Nó là một chất dẫn xuất của morphine được điều chế bằng
cách xà-bông hóa morpohine; người ta làm nóng morphine với hydrochloric acid
trong các ống gắn xi. Morphine mất đi một phân tử nước.
-
Chất apomorphine có những tính chất đặc biệt gì?
Ông
Loittledale điềm nhiên nói:
-
Apomorphine được biết là chất gây nôn mau và mạnh nhất. Nó có tác dụng trong
vòng mấy phút.
-
Như vậy thì, nếu người nào đã nuốt một liều lượng chết người morphine, rồi
trong vòng mấy phút sau chích dưới da một liều apomorphine hydrochliride, thì hậu
quả sẽ như thế nào?
-
Thì hầu như ngay tức thì nôn mửa ngay và chất morphine sẽ bị tống ra ngoài.
-
Do đó, nếu hai người cùng ăn một chiếc bánh xăng-uých hay cùng uống chung một
bình nước trà, rồi một người chích dưới da một liều apomorphine, thì hậu quả sẽ
ra sao, giả thiết là đồ ăn hay thức uống chung đó có chứa chất morphine?
-
Thì người đã chích apomorphine sẽ nôn mửa ra đồ ăn hay thức uống cùng với chất
morphien.
-
Thế người đó sẽ không bị hậu quả tai hại gì sao?
-
Thưa không.
Cả
tòa bỗng xôn xao kích động, quan tòa ra lệnh giữ yên lặng.
* *
*
-
Bà là Amelia Mary Sedley và thường trú ở số 17 đường Charles, Boonamba,
Auckland, phải không?
-
Thưa phải.
-
Bà có biết một bà nào là bà Draper không?
-
Thưa có. Tôi đã biết bà ta hơn hai chục năm.
-
Bà có biết tên bà ta hồi còn là con gái không?
-
Thưa có. Tôi có dự đám cưới của bà ta. Tên bà ta là Mary Riley.
-
Có phải sinh quán của bà ta là ở Tân Tây Lan không?
-
Thưa ngài, bà ta từ nước Anh đến đó.
-
Bà đã dự phiên tòa này từ đầu, phải không?
-
Thưa phải.
-
Bà đã trông thấy Mary Riley - hay Draper - trong phiên tòa, phải không?
-
Thưa phải.
-
Bà đã trông thấy bà ta ở đâu?
-
Thưa, trong lúc bà ta ngồi làm chứng trong ghế tòa.
-
Dưới cái tên gì?
-
Jessie Hopkins.
-
Bà có hoàn toàn chắc chắn rằng Jessie Hopkins này là người mà bà biết với tên
là Mary Riley hay Fraper không?
-
Thưa, chẳng có gì nghi ngờ cả.
Hơi
có xao động ở phía cuối tòa.
-
Bà trông thấy Mary Draper lần cuối cùng ở đâu - kể cho đến hôm nay?
-
Thưa, cách đây năm năm. Bà ta đi sang Anh.
Ngài
Edwin cúi đầu một cái, nói:
-
Đây là nhân chứng của ngài.
Ngài
Samuel, vẻ mặt bối rối, đứng lên bắt đầu nói:
-
Thưa bà Sedley, tôi nghĩ có thể là bà lầm chăng?
-
Thưa, tôi không lầm.
-
Có thể là bà đã lầm, do có sự tình cờ giống nhau.
-
Thưa, tôi biết Mary Draper đủ rõ.
-
Bà Hopkins là một điều dưỡng khu vực có chứng thực.
-
Thưa, Mary Draper trước khi lấy chồng, là một điều dưỡng ở bệnh viện.
-
Bà có biết rằng bà đang buộc lỗi khai man cho một nhân chứng của Vương quyền
không?
-
Thưa, tôi biết tôi nói gì.
* *
*
-
Edward John Marshall, ông đã sống mấy năm ở Auckland, Tân Tây Lan, và bây giờ
đang ngụ tại số 14 đường Wren, Deptford, phải không?
-
Thưa, đúng thế.
-
Ông có biết Mary Draper không?
-
Tôi đã biết bà ta nhiều năm ở Tân Tây Lan.
-
Ông có trông thấy bà ta hôm nay ở phiên tòa này không?
-
Thưa có. Bà ta tự xưng tên là Hopkins, nhưng đó đúng là bà Draper.
Quan
tòa ngẩng đầu lên. Bằng một giọng nhỏ, rõ và sắc, ông nói:
-
Tôi nghĩ là cần phải đòi lại nhân chứng Jessie Hopkins.
Ông
ngừng lại; có tiếng thì thầm.
-
Thưa ngài, Jessie Hopkins đã rời khỏi tòa cách đây mấy phút.
* *
*
-
Hercule Poirot.
Hercule
Poirot vào ghế tòa, tuyên thệ, vân vê ria mép, đứng đợi, đầu hơi nghiêng về một
bên. Ông xưng họ tên, nói địa chỉ và việc tòa đòi.
-
Thưa ông Poirot, ông có thừa nhận văn kiện này không?
-
Thưa, chắc chắn là có.
-
Làm sao thoạt tiên ông có được văn kiện này?
-
Bà Hopkins, điều dưỡng khu vực, đã đưa cho tôi.
Ngài
Edwin nói:
-
Thưa ngài, xin cho phép tôi được đọc to văn kiện này, rồi xin chuyển đến bồi thẩm
đoàn.