Gái công xưởng - Phần II - Chương 14

14. Lăng mộ của
hoàng đế

Vào mùa thu năm 1987, người anh họ Lập Giao của cha tôi ngồi
xuống viết một bức thư cho Hội nghị hiệp thương chính trị của hai tỉnh Đông
Bắc, bức thư có nhan đề “Về vấn đề bia mộ của ông Trương Sân Phu cần được nhanh
chóng khắc chữ.” Bác Lập Giao hy vọng có thể khắc một bài văn bia lên tấm bia
mộ của ông chú mình, người đã mất bốn mươi mốt năm về trước.

Ông Trương Sân Phu là chú tôi. Tôi thực sự mong muốn rằng
vấn đề khắc bia mộ cho chú tôi sẽ được giải quyết thật nhanh chóng, điều này sẽ
rất có tác dụng trong việc phát triển công tác Mặt trận Thống nhất ở nước ngoài
của chúng ta.

Một bản thảo của bức thư viết tay, dài mười hai trang, đã
được các con của bác Lập Giao đưa lại cho tôi. Họ không thể kể cho tôi câu
chuyện của gia tộc, nhưng trên những trang giấy xù xì bác Lập Giao đã trình bày
mọi thứ - tư liệu lịch sử cá nhân về những năm tháng ông nội tôi ở Mỹ, những
đóng góp của ông đối với ngành khai thác mỏ của Trung Quốc trong thời kỳ chiến
tranh, vụ sát hại và chôn cất ông.

Đằng trước ngôi mộ là một tấm đá cẩm thạch nhỏ màu đen
được khắc dòng chữ “MỘ CỦA ÔNG TRƯƠNG SÂN PHU”, mỗi chữ có kích thước chừng
mười centimét. Ở phía bên phải đằng trước ngôi mộ có một tấm bia. Trên bia chưa
được khắc chữ gì...

Vào mùa thu năm 1948, Thẩm Dương được giải phóng. Ở công
viên Bắc Lăng gần tấm bia Hạ Mã, là ngôi mộ của ông Trương Sân Phu và một tấm
bia trắng trơn... Bà Lý Hương Hành cùng các con đã chuyển tới sống ở Đài
Loan... Cháu của bà là Trương Lập Giao ở lại Đại lục và không đi cùng họ. Sau
tháng Một năm 1949, anh ta không còn liên hệ gì với họ nữa.

Năm 1979, bác Lập Giao quay lại thăm mộ lần đầu tiên sau ba
mươi năm. Ngôi mộ đã biến mất, những gì còn lại của ông nội tôi đã bị vứt rải
rác khắp nơi. Nhưng tấm bia không chữ vẫn còn - như bà nội tôi đã tiên liệu, sự
trống trơn đó đã bảo vệ nó khỏi sự xâm hại. Trong bức thư của mình, bác Lập Giao
đã xin phép nhà cầm quyền để sửa chữa ngôi mộ và dựng một tấm bia có khắc chữ.
Nhưng bởi vì ngôi mộ nằm ở một vị trí nổi bật trong một công viên, đây không
phải là điều mà ông có thể tự ý làm được.

Con thứ hai và con cả của ông Trương Sân Phu có một tình
yêu sâu sắc với Tổ quốc vĩ đại của chúng ta là đã trở về thăm quê nhiều lần,
dành nhiều tâm huyết để xây đựng đất nước... Tôi nghe nói rằng gần đây ủy ban
Trung ương Đảng đã đề xuất việc đẩy mạnh công tác Mặt trận Thống nhất ở nước
ngoài, để có thêm đồng minh và đạt được sự ủng hộ rộng khắp.

“Mặt trận Thống nhất” có ý chỉ các chính sách của Đảng Cộng
sản để thu phục sự trung thành của những người Trung Quốc ngoài Đảng, bao gồm
cả những người sống ở Hồng Kông, Đài Loan, và ở nước ngoài. Là một người kỳ cựu
đối với các phong trào chính trị, bác Lập Giao biết rằng một lời yêu cầu cá
nhân đại điện cho người chú sẽ không được để ý. Vấn đề này cần phải gắn với chủ
nghĩa yêu nước, và nhất thiết phải mô tả nó như là một vấn đề của dân tộc, chứ
không phải chỉ của gia tộc. Cả cuộc đời của ông nội tôi đã bị gò ép trong khuôn
khổ đó, và bây giờ thậm chí cả khi ông đã chết cũng vẫn noi theo nếp đó.

Chính quyền không hồi âm ngay lập tức. Hai tháng sau bác Lập
Giao viết lá thư thứ hai, tiếp tục đề nghị chính quyền hỗ trợ và nêu rõ rằng
ông sẽ chịu mọi phí tổn liên quan đến việc khắc bia. Vào tháng Mười một năm
sau, sau khi lời đề nghị đã được phê duyệt, một tấm bia mới cuối cùng đã được
đựng lên ở mộ của ông nội tôi. Bác Lập Giao viết lá thư cuối cùng, có nhan đề
“Giấc mơ ấp ủ từ lâu của tôi và gia đình tôi ở trong và ngoài Trung Quốc đã
được thực hiện.”

Bởi vì tấm bia không chữ nay đã thành tấm bia có chữ, con
cháu của chúng tôi sẽ có nơi để thờ cúng cha ông yêu dấu của mình. Về vấn đề
này, chúng cảm thấy thật là may mắn.

Bác Lập Giao mất vào tháng Hai năm 2006, gần một năm sau khi
tôi ghé thăm gia đình ông ở Cáp Nhĩ Tân. Ông đã sống đủ lâu để nhìn thấy ba
người con của mình ổn định công ăn việc làm tại chính trường đại học nơi ông đã
từng giảng dạy, và một đứa cháu gái cũng theo học tại trường. Năm 1985, ông
được nhận bằng khen giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, và là người duy nhất trong
trường đại học nơi ông công tác được nhận vinh dự này. Đối với gia đình ông,
điều này làm dịu đi những nỗi đau mà ông đã phải gánh chịu. “Đối với cha tôi,
người đã phải sống qua thời kỳ đó, tôi nghĩ rằng ông là người có tấm lòng quảng
đại,” chị Ân Kiều con gái ông nói với tôi. “Mọi người quý mến sự hòa nhã của
ông. Có tới bốn trăm người đã tham dự đám tang của ông. Chúng tôi không ngờ lại
đông tới như vậy.”

Cho tới tận lúc chết, chị nói, bác Lập Giao vẫn tin vào Đảng
Cộng sản. Ông không bao giờ nói về việc các cuộc tấn công chính trị đã đẩy cha
mình tới chỗ tự tử. Ông cũng không đay nghiến về những gì đã phải chịu đựng.
Cha tôi nói rằng đã nhiều lần ông hỏi bác Lập Giao về những trải nghiệm của ông
trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nhưng bác Lập Giao không bao giờ nói ra cả.
“Cha tin rằng bác Trương Lập Giao đã thực sự bị tẩy não,” cha tôi nói. “Bất cứ
khi nào ông ấy nói về chuyện đó, ông ấy sẽ chỉ nói về mọi việc đã từng tốt đẹp
như thế nào, Đảng Cộng sản đã từng tốt đẹp như thế nào. Cha nghĩ cho đến tận
cuối đời ông ấy vẫn sợ hãi. Nhiều người đã phải chịu quá nhiều đau khổ lại nghĩ
rằng hiện tại cũng chỉ là một phong trào chính trị khác. Họ không bao giờ chắc
chắn rằng mọi việc sẽ không lại như thời kỳ đó.”

Con gái của bác Lập Giao lại có một cách diễn giải khác.
“Cha tôi không bao giờ kể cho cha cô nghe những điều này,” chị nói với tôi.
“Tôi nghĩ rằng ông cảm thấy cha cô sống ở nước ngoài, đây là vấn đề bê bối
riêng của dân tộc.” Theo cách nghĩ của chị, không phải sự sợ hãi mà là sự hổ
thẹn đã khiến cha chị im lặng.

***

Vào ngày cuối cùng của năm 2005, tôi đến thăm mộ ông nội ở
một công viên Thẩm Dương. Trong buổi sáng lạnh lẽo, không khí bùng lên với mùi
than bị đốt cháy, mặt trời lơ lửng trên không trung lạnh lẽo và nhợt nhạt như
một trái chanh. Công viên nhan nhản những người, hầu hết là những người đã về
hưu. Các ông già uể oải chạy bộ, trong khi các bà già tập thái cực quyền dưỡng
sinh. Trên một cây cầu dành cho người đi bộ, tôi dừng lại nhìn xuống hồ ở bên
dưới, nơi tuyết đã được dọn sạch để tạo ra một đường trượt tuyết hình bầu dục.
Mọi người trượt với tư thế thu mình lấy đà của các nhà trượt tuyết thi đấu
trong giải vô địch. Một người phụ nữ trung niên mặc nhiều lớp quần áo, đeo mặt
nạ phẫu thuật trùm kín mặt - phụ kiện phổ biến trong mùa đông khắc nghiệt ở
Thẩm Dương. Khi tôi đứng nhìn, bà cố gắng trượt về phía trước được một lúc, giữ
thăng bằng trên một chân với chân kia duỗi dài ra đằng sau. Bà gần như bị ngã
nhào ra đằng trước, lấy lại thăng bằng, và nhìn xung quanh xem có ai để ý
không.

Tôi tiếp tục đi cho tới khi đến chỗ hai tấm bia Hạ Mã, một
đôi cột trụ có khắc ván tự Mãn Châu đánh đấu sự bắt đầu của “đoạn đường thần
thánh” đến lăng mộ của hoàng đế nhà Thanh. Ở bên tay trái, tôi thấy một ngôi mộ
trên một khoảnh đất nhỏ được phát quang sạch sẽ bao quanh bởi các cây thông.

Tấm bia đánh đấu ngôi mộ của ông nội tôi cao khoảng sáu mét,
làm bằng xi măng màu xám khắc các chữ màu đỏ:

TƯỞNG NIỆM ÔNG TRƯƠNG SÂN PHU MỘT KỸ SƯ CỦA NGÀNH CÔNG
NGHIỆP MỎ TRUNG QUỐC QUÊ Ở TỈNH CÁT LÂM, HUYỆN CỬU ĐÀI, LÀNG LỤC ĐÀI

1898-1946

Tôi chậm rãi đọc những dòng chữ khắc trên bia mộ, từng từ
một, và cảm thấy được an ủi. Bài văn bia chỉ gồm bốn dòng và đưa ra những thông
tin bình dị nhất - nhưng tất cả đều đúng sự thực. Không có điều gì bị làm giả,
chính trị không xâm phạm vào những dòng chữ này. Nếu bạn phải mô tả một cuộc
đời trong ba mươi lăm chữ tượng hình tiếng Hán, thì đây dường như là một sự
đánh giá đúng đắn đối với một con người - năm sinh và năm mất, công việc, quê
quán, và tên họ.

Tôi đứng đó nhìn tấm bia, không biết là nên làm gì để đánh
dấu dịp này. Tôi không quỳ lạy khấn vái hay đốt vàng mã, chỉ đơn giản là đứng
trước ngôi mộ của ông nội tôi. Không ai làm phiền tôi. Một vài người đàn ông
chơi đá cầu ở gần bia Hạ Mã, nhưng họ không làm ảnh hưởng gì đến tôi. Cuối cùng
tôi cũng phải đi, vì trời quá lạnh.

Khi tôi đi khỏi, một người đàn ông đi xe đạp ngang qua. Một
chiếc đài casstte buộc vào đằng sau xe của anh ta đang bật bài hát phổ biến năm
đó của những người đi trú, một bài hát từ một nơi rất xa, nơi mỗi đường phố đều
có nhà máy.

Anh yêu em

Yêu em

Như chuột yêu gạo

Dù cho bao gió mưu

Anh sẽ luôn ở bên em

Khi tôi nghĩ về cuộc đời ông nội tôi, hầu như toàn là nỗi
buồn về cơ hội đã mất. Khi còn là một thanh niên, ông đã rời nhà - đến Bắc
Kinh, đến Mỹ - để theo đuổi việc học hành và để phục vụ đất nước. Ông đã sống
trong môi trường nước ngoài, và đã đấu tranh để tìm được mục đích sống, nhưng
lúc nào ông cũng làm việc chăm chỉ. Cảm giác trách nhiệm đã đưa ông đến thăm mỏ
Phú Thuận mặc cho nhiều lời can ngăn. Trong đêm mùa đông cuối cùng của cuộc đời
mình, khi những người đàn ông có vũ trang nhảy lên chuyến tàu đâm ông bằng lưỡi
lê, tất cả những chuyện học hành và cố gắng đó đã trở thành vô nghĩa. Đó là
loại vũ lực tàn bạo nhất; trước những thứ vũ khí đó, lý tưởng của một con người
chẳng có nghĩa lý gì.

Nhưng tôi có cảm giác không phải là một sự tình cờ khi mọi
việc diễn biến như nó đã xảy ra. Khi đọc nhật ký của ông nội, hay nhìn những
người lớn tuổi quây lấy Mẫn và chị cô trong đám cưới ở làng, tôi cảm thấy tựa
như đang chứng kiến mối quan tâm lo lắng đến gia tộc và dân tộc bao trùm tất
cả, và chúng bó buộc rất nhiều người - hàng triệu hàng triệu người - trong những
cuộc đời mà họ không bao giờ muốn lựa chọn. Nếu không phải vì lợi ích của dân
tộc, ông nội tôi sẽ không trở thành một kỹ sư mỏ, và ông sẽ không phải đến mỏ
Phú Thuận. Nhưng ông sinh ra là người Trung Quốc, vì vậy ông đã làm những điều
đó. Đó cũng là lý đo tại sao bác Lập Giao và bác Triệu Hồng Chí lại ở lại vào
mùa thu năm 1948, đó cũng là lý đo vì sao cha tôi lại kìm nén nhiều cảm xúc như
vậy. Nó cũng dẫn đến việc bác Nellie của tôi bày tỏ cảm xúc của mình qua thi
ca, và nó cũng khiến cho các con của bác Lập Giao không nhắc nhiều đến quá khứ.
Chỉ có Trương Hồng chọn cách nhớ lại những ký ức đau buồn, và đối với ông ta ký
ức này đã trở thành một loại tra tấn.

Và có lẽ, tôi, cũng như vậy, có nhiều tính cách Trung Quốc
hơn là tôi biết. Bởi vì giờ đây tôi đã hiểu tất cả những điều đó - hiểu tại sao
một con người lựa chọn không kể lại câu chuyện của mình, hay không thể kể lại,
hay không thừa nhận về bất kỳ cảm xúc nào, bởi vì cảm xúc sẽ lấn át bạn theo
một cách khác. Tôi hiểu bài thơ mà bác Nellie viết cho cha mình, trong đó bác
cố gắng kiềm chế cảm xúc của mình, gò ép nỗi buồn cá nhân thành một điều thích
hợp và có tầm quan trọng hơn. Trong những vần thơ cuối cùng, bác không kiềm chế
nổi - Nhưng con ghét điều ấy! Cha ơi - cảm xúc dâng trào, vết
thương bí mật đột nhiên mở toang cho cả thiên hạ biết.

Tìm hiểu về câu chuyện của gia tộc cũng thay đổi cách nhìn
của tôi về các đô thị nhà máy ở miền Nam. Có nhiều điều để không ưa thế giới
những người di trú của Mẫn và Xuân Minh: chủ nghĩa vật chất, tham nhũng, tính
thô tục của cuộc sống hằng ngày. Nhưng giờ đây họ có cơ hội để rời làng quê
thay đổi vận mệnh của mình, để tưởng tượng ra một cuộc sống khác hẳn và biến nó
thành hiện thực. Cuộc hành trình mà ông nội tôi đã thực hiện là một trong nhiều
triệu cuộc hành trình mà các thanh niên thực hiện hằng ngày - họ rời nhà, họ
đến một miền đất lạ, họ làm việc chăm chỉ. Nhưng giờ đây mục đích của họ không
phải là thay đổi vận mệnh của đất nước Trung Quốc. Họ quan tâm đến vận mệnh của
chính mình, và tự đưa ra những quyết định. Nếu đó là một thế giới xấu xí, ít
nhất đó vẫn là thế giới của riêng họ.

Có lẽ đất nước Trung Quốc trong thế kỷ hai mươi đã phải trải
qua quá nhiều điều sai lầm khiến nhân dân không thể bắt đầu lại như xưa, lần
này họ theo đuổi những mục đích cá nhân và loại bỏ gánh nặng của gia đình, lịch
sử, và dân tộc. Trong một thời gian dài tôi đã nghĩ Đông Quản là một thành phố
không có quá khứ, nhưng giờ đây tôi nhận ra rằng không hẳn là như vậy. Quá khứ
luôn ở đó, gợi nhớ lại cho chúng tôi: lần này - có lẽ, hy vọng là như vậy,
chống lại mọi bất lợi - chúng ta sẽ đi đúng hướng.

***

Người họ hàng cuối cùng mà tôi nói chuyện về lịch sử gia tộc
là cô Irene, em gái cha tôi. Cô chỉ mới bảy tuổi khi cha mất, và cô chỉ có một
ký ức về ông: ông quay về nhà sau một chuyến công tác với hàng ria mép chưa
cạo, ông thơm vào bụng khiến bà cô ngặt nghẽo.

Sau khi mất, ông nội tôi vẫn tồn tại trong cuộc sống của các
con mình. Khi cô Irene quá mệt mỏi với việc học hành, bà nội tôi sẽ nói: “Cha
con đã hy sinh vì Tổ quốc. Con phải học hành chăm chỉ để noi gương cha.” Bắc
Kinh có mười hai tuyến xe điện, tất cả đều được đặt tên theo các liệt sĩ hy
sinh vì Tổ quốc, chú Luke của tôi nhớ rằng đã từng đi trên tuyến xe điện Trương
Sân Phu khi còn nhỏ. Một mỏ trong khu liên hợp Phủ Thuận được đặt tên là mỏ Sân
Phu, một con đường ở Thẩm Dương được đặt tên là đường Sân Phu, và nhà ga biệt
lập nơi ông bị lôi ra khỏi tàu hỏa và bị giết chết được đổi tên là Trương Sân
Phu. Với sự hy sinh của mình, ông nội tôi đã được khắc ghi vào sông núi Trung
Hoa. Nhưng rồi tất cả những cái tên này đã bị đổi lại sau khi Đảng Cộng sản
giành được quyền lực.

Một lần khi cô Irene đang học trung học cơ sở ở Đài Loan,
lớp học của cô đi tham quan. Họ nhìn thấy một hiện vật trưng bày về một người
đã bị giết, với mô tả về vụ giết người và những bức ảnh về cái xác đầy vết
thương của ông. “Cô đã nghĩ, “Người đàn ông tội nghiệp”,” cô Irene nhớ lại,
“rồi cô nhìn thấy tên của cha mình.” Cô ngất đi. Những bức ảnh đó là một phần
trong chiến địch tuyên truyền chống cộng của chính phủ, nhưng trước đó cô Irene
chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Cô thậm chí còn không nhận ra gương mặt cha mình
- chỉ nhận ra tên của ông.

Trong số những người con đã rời Trung Quốc, cô Irene là
người duy nhất biết về mẹ mình khi đã là người lớn. Chị và các anh trai đi sang
Mỹ rồi, cô ở một mình với mẹ và được nghe rất nhiều câu chuyện của mẹ. Sau khi
sang Mỹ, cô Irene quay lại Đài Loan và ở bên bà nội tôi vào mùa hè khi bà mất.
Nhiều người đã chia sẻ ký ức của mình với tôi, nhưng ký ức của cô Irene lại
khác. Theo lời kể của cô, bà nội tôi là một người phụ nữ có tư tưởng độc lập,
người đã chống lại truyền thống và luôn mong muốn được đi ra nước ngoài, ông
nội tôi là một người trẻ tuổi nổi loạn, người mà lý tưởng yêu nước đã tạo nên
một hố sâu ngăn cách với gia đình ông. Gánh nặng của thế hệ ông nội tôi đã
khiến mọi việc đều được nhìn nhận bằng các thuật ngữ chính trị, nhưng những câu
chuyện của cô Irene đã mang lại sắc thái cá nhân cho cuộc sống của họ.

Hối tiếc cho đến tận cuối đời. Nhiều người đã nói với
tôi rằng những từ này, được khắc trên các đồ tùy táng của ông cố nội tôi, thể
hiện sự hối tiếc của ông đối với việc quân Nhật chiếm đóng Mẫn Châu. Nhưng cô
Irene có cách diễn giải khác. Khi ông nội tôi quay về nhà sau bảy năm ở nước
Mỹ, cha của ông muốn ông ở lại Lục Đài để trông nom điền sản của gia đình, ông
cố nội đã rất giận dữ khi chàng thanh niên quyết định đi xa nhà. Cuộc xâm lược
của Nhật Bản đã cắt đứt liên lạc giữa cha và con mà không cho họ cơ hội hòa
giải. “Đó là sự hối tiếc với cách đối xử với con cái của ông,” cô tôi nói. Câu
chuyện của cô về cái chết của ông nội tôi cũng có sự khác biệt. Khi ông nằm đó
hấp hối vì các vết thương, theo nhiều nguồn tài liệu mà tôi đã đọc, ông nội tôi
nghĩ về bổn phận của mình đối với đất nước. Tôi là người của chính phủ
trung ương
, ông đã nói. Chết vì bổn phận của mình, tôi không có
điều gì hối hận.
Nhưng cô Irene nói với tôi rằng ông đã cố gắng viết
điều gì đó lên một mảnh giấy, dùng chính máu của mình để viết. Một trong những
người thuộc nhóm của ông trốn thoát được mà không bị thương, và ông ta đã đưa
mảnh giấy đó cho bà nội tôi. Mảnh giấy đó chỉ có vài chữ. “Mẹ của cô không thể
luận được nhiều chữ trong đó,” cô Irene nói, “nhưng bà có thể đọc thấy tên
mình.”

Trong tất cả những điều mà tôi đã đọc và nghe về ông nội
tôi, tôi không tìm thấy dấu vết nào của cá nhân - cả cuộc đời ông dường như tập
trung vào việc cứu dân tộc Trung Hoa. Đó là hình ảnh của một người đàn ông thể
hiện trong những bức thư và trong các cuốn nhật ký của ông. Tôi muốn yêu thích
ông, nhưng tôi càng tìm hiểu về ông bao nhiêu thì ông đường như càng xa lạ bấy
nhiêu. Ông giống như một người biến mất bên trong câu chuyện của chính mình, và
điều này đối với tôi thật kinh khủng. Nhưng có lẽ còn một vài điều nữa - một
vài điều mà tôi không thể thấy, từ những ánh sáng le lói trong các câu chuyện
mà cô Irene kể cho tôi.

TÔI KHÔNG ĐỊNH nói chuyện với cô Irene, bởi lúc ấy cô còn
quá nhỏ chắc gì có thể nhớ về cuộc sống và cái chết của cha mình. Tôi đã nói
chuyện với cha tôi, bác Nellie, bác Luke, gia đình bác Lập Giao, và nhiều người
họ hàng khác. Tất cả mọi người đều có cách che đậy những câu chuyện của mình,
thậm chí ngay cả khi kể lại các câu chuyện đó.

Chúng tôi không biết nhiều về lịch sử của gia đình. Chúng
tôi chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện về điều đó.

Thực tế là kinh nghiệm của tôi với Trung Quốc rất nông
cạn.

Cha của ông nội tôi. Không ai biết tên ông ấy cả.

Hàng tháng sau khi tôi đã nói chuyện với tất cả mọi người,
một hôm cô Irene gọi điện cho tôi. Cô nghe tin tôi đang viết một cuốn sách, nên
cô muốn nói về bà nội tôi.

“Hãy để cô kể cho cháu nghe,” cô nói, “các anh trai và chị
gái của cô không biết về bà nội như cô biết đâu.” Tôi không có ý nghĩ là sẽ hỏi
về bà nội. Bà không bao giờ đi xa nhà, bà không để lại giấy tờ viết tay nào cả.
Cuộc đời bà có nhiều điều để tìm hiểu chăng? Nhưng nhiều trong số những chi
tiết sống động nhất về lịch sử gia tộc tôi - mâu thuẫn giữa bà nội tôi và cha
chồng, việc ông nội tôi bị đánh theo gia pháp - đều đo cô Irene cung cấp. Sau
cuộc trò chuyện qua điện thoại đầu tiên của chúng tôi, cô gửi cho tôi một email.
Về mặt cảm xúc, bức thư này không hề giống với bất kỳ cảm xúc nào mà những
người khác trong gia đình đã bộc lộ.

Mẹ của cô (là bà nội cháu) sinh ra trong một gia đình
Trung Quốc hết sức truyền thống, với gia quy hà khắc. Bà đã được hấp thụ nền
giáo dục rất cao, một điều hết sức bất bình thường đối với một phụ nữ vào thời
đó. Sau đó bà rất thành công trong sự nghiệp. Bà đã một tay dạy đỗ các con nên
người trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt với nguồn tài chính hạn hẹp. Cô
rất yêu bà và vô cùng kính trọng bà. Cô chỉ hiểu rõ bà sau khi các anh trai và
chị gái rời khỏi nhà.

Sau cuộc trò chuyện ngắn ngủi của chúng ta, cô bắt đầu
nghĩ về những thay đổi, thách thức mà phụ nữ Trung Quốc phải đối mặt, có lẽ đó
là lý đo tại sao phụ nữ Trung Quốc lại mạnh mẽ như vậy. Trong gia đình chúng
ta, bà nội, cô, và cháu, ba thế hệ này bao trùm cả trăm năm lịch sử với những
biến động quan trọng nhất trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc. Chúng
ta đã hy sinh, đau khổ, rồi chúng ta lại đứng đậy.

Cô mong nhận được hồi âm của cháu và nói chuyện với cháu.

Thương yêu,

Cô Irene

Cô nói với tôi rằng cô đã “nghỉ hưu một nửa” trên cương vị
CEO của một công ty công nghệ sinh học của Mỹ. Nhưng chúng tôi vẫn phải lên
lịch cho cuộc điện đàm trước một tuần; chồng cô, người đã nghỉ hưu hoàn toàn,
sắp xếp các việc hậu cần giúp cô. Ở Trung Quốc ngày nay, những người phụ nữ như
cô tôi gọi là nu qiangren (nữ cường nhân). Vào thời gian đã hẹn
trước, tôi nhấc điện thoại gọi cho cô Irene, và đây là cách cô bắt đầu câu
chuyện của mình: Cô sẽ kể cho cháu những gì cô biết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3